Thứ Sáu, ngày 06 tháng 2 năm 2015
Nói
về văn nghệ miền Nam từ 1954 đến 1975, thời Việt Nam Cộng Hòa, các nhà nghiên cứu
ít nói đến Nguyễn Đức Quỳnh. Nhà văn chỉ in một cuốn sách, không phải thơ cũng
không là tiểu thuyết, ký một bút hiệu mới mà ông chỉ dùng một lần. Tên Nguyễn Đức
Quỳnh xuất hiện trên những tác phẩm in trước năm 1945 ở Hà Nội. Từ khi vào miền
Nam năm 1952 ông đã dùng nhiều bút hiệu khi viết báo, như Hà Việt Phương, Vương
Thương Thương, Hoài Nam Hoài, Ngô Đồng Thanh, Minh Ái Thành, và rất nhiều tên
khác. Điều này phản ảnh tư tưởng, cách sống, nhân cách và thái độ đối với cuộc
đời của ông. Như nhà văn Nguyễn Mộng Giác nhận xét, “Ông viết nhiều, lấy bao
nhiêu là bút hiệu, và không cần người đọc biết những bài đó của ông.” Bởi vì
ông “…không có cái xa xỉ viết lách để tạo một thứ danh vọng hư ảo! Không hề muốn
xây dựng hào quang cho một bút hiệu.” Cuốn sách duy nhất được xuất bản tại
miền Nam trước năm 1975 là Ai Có Qua Cầu (Sài Gòn, Quan Điểm, 1957) ,
ông ký tên Hoài Đồng Vọng. Người ta có thể phân tích ý nghĩa của các bút hiệu
ông dùng, tất cả đều chứa đựng các ước vọng.
Nhưng
Nguyễn Đức Quỳnh rất đáng tưởng nhớ. Vì ông ảnh hưởng trên rất nhiều nhà văn
thuộc thế hệ sau, đặc biệt là những người từ miền Bắc di cư vào Sài Gòn, dù họ
xác nhận hay phủ nhận. Trong khi đó ông vẫn giữ một thế đứng độc lập, ngay
trong nhóm Quan Điểm mà ông được coi
là một thành viên. Có thể kể nhóm Sáng Tạo, tạp chí Văn Nghệ do
nhà văn Lý Hoàng Phong và Dương Nghiễm Mậu chủ trương, nhà xuất bản Quan Điểm,
các tờ báo như Dân Chủ của Vũ Ngọc Các, Dân Việt do Đinh Hữu làm
chủ bút, Tin Sáng của Lý Đại Nguyên, Sóng Thần của Uyên Thao, vân
vân. Đinh Hữu, tức Lương Quân, là một sĩ quan đã tham dự trận Điện Biên Phủ trước
khi bỏ cộng sản vào Nam; rất gần gũi với Nguyễn Đức Quỳnh. Ông cũng sống một cuộc
đời đạm bạc, sinh nhai bằng ngòi bút, và coi việc chống Cộng là một sứ mạng của
đời mình. Trong nhật báo Dân Việt, Nguyễn Đức Quỳnh đã viết một loạt bài
không ký tên, được đóng khung như mục Bình Luận của tờ báo, với tựa đề “Làm
Gì?” nhại tên cuốn sách của Lenin, bản tiếng Pháp là “Que Faire?”. Những
bài này trình bày con đường phải lựa chọn cho nước Việt Nam trong giai đoạn đó.
Có lẽ vì tờ báo này không nhiều người đọc, và các bài không ký tên tác giả, cho
nên chính các văn nghệ sĩ chịu ảnh hưởng của Nguyễn Đức Quỳnh nhiều người cũng
không đọc. Nếu ông ký tên thật hoặc bút hiệu Hà Việt Phương thì chắc nhiều người
đã tìm đọc và thảo luận với nhau. Thái độ “ẩn dật” của ông, không dùng một bút
hiệu nổi bật được nhiều người kính trọng, cũng có tác dụng ngược ngoài ý tác giả.
Nhiều
nhà văn gặp gỡ Nguyễn Đức Quỳnh rồi nghe theo các lời khuyên của ông, có người
chống lại. Nhà thơ Kiêm Đạt gọi ông là Sao Bắc Đẩu. Thế Phong đã phê phán ông rất
mạnh trong cả một cuốn sách. Nhiều người khác cũng gọi ông là “phù thủy văn nghệ.”
Nhà văn Tuấn Huy viết: “Có một người, tôi
chỉ được gặp gỡ một lần thôi, và cũng chỉ được nghe ông nói một vài câu thôi,
nhưng ảnh hưởng đến tôi mãi mãi… Người đó là Nguyễn Đức Quỳnh.” Trong đời sống
văn học ở miền Nam Việt Nam suốt 20 năm chỉ có Nguyễn Đức Quỳnh mới gây nên những
phản ứng mạnh và khác biệt như vậy. Ảnh hưởng của Nguyễn Đức Quỳnh thấy rõ sau
khi ông qua đời năm 1974, qua lời chứng của nhiều nhà văn, nhà thơ thuộc thế hệ
sau ông.
Số
báo Văn số tháng 6, năm 1974, do Trần Phong Giao chủ trì, quy tụ nhiều
bài viết tưởng niệm Nguyễn Đức Quỳnh. Xin trích một phần mục lục như sau:
·
Vũ
Hoàng Chương CÂU ĐỐI LÀM TRONG TANG LỄ trang 2
·
Nguyễn
Đức Quỳnh NHẬT KÝ (DI CẢO) trang 3
·
13
Tác Giả CẢM TƯỞNG, TRƯỚC TANG CHUNG VĂN HỌC trang 5
·
Nguyễn
Hải Chí TRANH VẼ NHÀ VĂN trang 9
·
Mai
Thảo NGÔI SAO HÀN THUYÊN trang 10
·
Dương
Nghiễm Mậu MỘT TIỂU SỬ NGUYỄN ĐỨC QUỲNH trang 18
·
Thanh
tâm Tuyền ANH ĐÃ ĐỌC THẰNG KÌNH CHƯA ? trang 21
Nhìn
vào mục lục này chúng ta thấy tấm lòng quý mến của giới văn nghệ miền Nam đối với
Nguyễn Đức Quỳnh, cả ba thế hệ từ Vũ Hoàng Chương qua Nguyễn Mạnh Côn tới Dương
Nghiễm Mậu.
Trong
tạp chí Việt Nam Tự Do, số 25 tháng Sáu năm 1986 ở California,USA, có những
bài tưởng nhớ Nguyễn Đức Quỳnh của các nhà thơ đã nổi tiếng trước năm 1975 như
Cao Tiêu, Nguyên Sa, Du Tử Lê, Kiêm Đạt; các nhà văn Thanh Nam, Nguyễn Mộng
Giác, Cao Thế Dung, Tuấn Huy; cùng nhân sĩ Nguyễn Long Thành Nam, Bác sĩ Trần
Ngọc Ninh. [Các đoạn trích dẫn trong bài này có thể tìm trong hai tạp chí Văn
và Việt Nam Tự Do kể tên].
Trong tạp chí Văn, Dương Nghiễm Mậu viết: "Lúc anh Quỳnh
còn sống, đã có người viết về anh; sau này chắc sẽ còn có người viết
về anh, nhưng tôi thấy, ai viết một tiểu sử về anh cũng hết sức khó khăn; cho
dù đó là những người thân nhất. Một tiểu sử chính xác, đầy đủ về Nguyễn Đức Quỳnh
là một điều tôi không hề trông đợi . Mỗi người, tôi nghĩ thế, có một tiểu
sử Nguyễn đức Quỳnh… Với tôi, tiểu sử Nguyễn Đức Quỳnh là một tiểu sử mơ hồ,
huyền hoặc, như chính đời sống của ông.” Cũng trong số báo trên, sau khi kể
huyền thoại Nguyễn Đức Quỳnh qua sông Đáy nhiều lần, nhà văn Mai Thảo cũng nhận
xét: “Sáu mươi năm sống đầy ắp của Nguyễn
Đức Quỳnh, bằng một trăm năm của người khác, có những khoảng cách mịt mùng ấy
là một số năm, số tháng trống bặt, vô hình tích, chỉ riêng ông biết.”
Hình
Nguyễn Mạnh Đan(chụp trong lúc Đỗ Quang Em
đang vẽ chân dung Nguyễn Đức Quỳnh) |
Trong tạp chí Văn
đã dẫn, các nhà văn khác bầy tỏ những lời lẽ như sau:
Nguyễn
Mạnh Côn: “Ông Quỳnh mất là chấm dứt một thế hệ (những) người theo đuổi
mộng tưởng vĩ đại.” Thái Tuấn “Cái chết của anh Quỳnh là một thiệt thòi
lớn cho những người mới làm văn nghệ và cho những người làm văn nghệ thất bại.”
Vũ Hoàng Chương: “.. Anh Quỳnh nằm xuống hơi sớm...” Phạm Duy: “…vợ
chồng chúng tôi lúc nào cũng coi anh Quỳnh như một người anh ruột. Chính anh
làm mối chúng tôi lấy nhau.” Mặc Đỗ: “mất một người Việt Nam có gốc Việt
chắc chắn và có kiến thức rộng hơn vòng chân trời.” Vũ Khắc Khoan: “đối
với tôi hình ảnh Nguyễn Đức Quỳnh cũng là hình ảnh của thằng Kình. Bây giờ thằng
Kình đã nằm xuống mà trận đá banh lại vẫn còn tiếp tục.”
Một
bức vẽ chân dung cuối cùng Nguyễn Đức Quỳnh, do Chóe hí họa được mô tả với “vừng
trán rộng phẳng lì như cánh đồng không còn lúa, một mắt sâu hoắm, râu mép quấn
miệng thép, và cây bút sắt có một đầu ngọn đuốc làm đòn gánh đôi thúng văn
chương chữ nghĩa” ký tên Nguyễn Hải Chí/1974).
Người
đời sau có thể ngạc nhiên về những cảm tình và lòng thán phục của các văn nghệ
sĩ miền Nam thuộc nhiều thế hệ (1940 đến 1970) đối với Nguyễn Đức Quỳnh. Vì sau
năm 1955 ông không làm báo, nhiều khi viết báo cũng không ký tên, và chỉ
xuất bản một cuốn “tâm bút.” Như lời chứng của họ trên các tạp chí Văn, Bách
Khoa năm 1974, và Việt Nam Tự Do năm 1986, các nhà văn khính trọng
và khâm phục Nguyễn Đức Quỳnh phần lớn vì những lần tiếp xúc với ông, nghe ông
nói. Đặc biệt, nhà văn Nguyễn Mộng Giác chưa bao giờ gặp Nguyễn Đức Quỳnh đã viết
về ông như sau: “… cho tới lúc ông mất, tôi chưa đọc được cuốn nào của ông. Hai
số báo Văn và Bách Khoa tưởng niệm … mới cho tôi biết những bút
hiệu khác của ông, tầm ảnh hưởng lớn lao của ông trên văn nghiệp của hầu hết
các cây bút tôi vẫn mến mộ.” Nguyễn Mộng Giác viết hai chữ “hầu hết” mà không e
ngại. Dù chưa đọc Nguyễn Đức Quỳnh, Nguyễn Mộng Giác cũng biết ông là người “viết
và hành động, là … tìm kiếm thường xuyên kim chỉ nam của hành động.”
Nguyễn
Đức Quỳnh không ảnh hưởng trên những người đã gặp ông về phong cách viết cũng
như trong cách chọn đề tài để viết, vì ông luôn chủ trương tự do trong văn học,
nghệ thuật, gần như tuyệt đối. Nhắc tới cuộc tranh luận thời 1940-45 giữa hai lập
trường “vị nghệ thuật” hay “vị nhân sinh,” có lúc ông nói: “Nghệ thuật vị nghệ
sĩ.” Chính người nghệ sĩ tự do tạo ra nghệ thuật. Ông rất khâm phục Jean Paul
Sarte (Ông viết trong nhật ký: Càng đọc Sartre càng thấy Sartre quả là một Khổng
Khâu của thời đại. Sartre là kẻ Sĩ vậy). Nhưng ông hoàn toàn độc lập; không ai
có thể nói văn chương Nguyễn Đức Quỳnh có chút màu sắc nào lối “chủ nghĩa hiện
sinh” của Sartre.
Ảnh
hưởng quan trọng nhất của Nguyễn Đức Quỳnh trên các nhà văn trẻ có lẽ là quan
điểm chính trị. Ông bày tỏ thái độ dứt khoát từ bỏ chủ nghĩa Marx mà một thời
ông đã tìm học và tin tưởng. Anh ruột của ông, Nguyễn Đức Canh, là một trong số
bảy người (trong đó có Ngô Gia Tự) sáng lập “chi bộ Bắc Kỳ” của Thanh Niên Cách
Mệnh Đồng Chí Hội (sau đổi thành Đông Dương Cộng sản Đảng, năm 1929, theo Giáo
sư Trần Ngọc Ninh, kể lại trong tạp chí Việt Nam Tự Do đã dẫn). Từ thất
vọng với Marx, chuyển sang khát vọng “Vượt Marx,” và thành lập “Đệ Ngũ Quốc tế”
trong đó không có chủ nghĩa Mác xít cũng không có “chủ nghĩa tư bản.” Những cuốn
sách ông viết thể hiện khát vọng lớn lao này vẫn còn trong dạng bản thảo khi
ông qua đời, được con cái giữ gìn cho tới tháng Tư năm 1975, hiện không biết
đang ở nơi đâu.
Nhưng
ảnh hưởng chính trị cũng không quan trọng bằng ảnh hưởng của Nguyễn Đức Quỳnh
trên nếp suy nghĩ, trên thái độ sống của các nhà văn, nhà thơ và nhà báo, với ý
thức về sứ mạng của mình – hoặc dùng những chữ như ông thường nói, là ý
thức về thân phận của mình. Đó là thân phận người trí thức văn nghệ trong xã hội,
trong một dân tộc gọi là “nhược tiểu;” mà ông thường ví với thân phận cô Kiều.
Nhiều nhà văn, thi sĩ, họa sĩ, nhạc sĩ, và các ký giả, tiếp xúc với Nguyễn
Đức Quỳnh rồi vì ảnh hưởng của ông nên tin tưởng rằng người văn nghệ phải giữ
vai trò độc lập trước mọi thế lực chính trị, kinh tế. Ông cũng luôn luôn
nhắc nhở người văn nghệ phải “sống hết mình với nghệ thuật,” đề cao trách nhiệm
của mình đối với xã hội, ngay cả khi phải lựa chọn giữa miếng cơm manh áo, gia
đình, và sứ mạng theo đuổi con đường văn nghệ. Ông có đủ uy tín để nói những điều
đó với các nhà văn trẻ sau năm 1954 và được họ nghe, vì ông đã có những thành
tích trong văn học từ thập niên 1940.
Nguyễn
Đức Quỳnh trước 1945
Ông
sinh ngày 20-11-1909 tại Trà Bồ - Phù Cừ - Hưng Yên. Lớn lên, ông gia nhập một
đoàn lính thuộc địa để sang Pháp. Nhờ thế có dịp học hỏi rất rộng, đồng
thời học được kỹ thuật ngành truyền tin. Về nước, ông từng làm việc nhiều nơi, ở
Bưu Điện và trong ngành địa chính, tức là việc quản trị đất đai. Theo ông kể
thì trong thời gian này ông đã đi nhiều ở vùng biên giới Trung Quốc – Việt Nam.
Năm
1931 bắt đầu viết, ông cộng tác với Nguyễn Công Tiễu trong tờ Khoa học tạp
chí viết các bài về Khoa học phổ thông tại Hà Nội. (Ông Nguyễn Công Tiễu là
một lãnh tụ đảng Đại Việt sau này, đã từng vận động cứu ông Ngô Đình Diệm trong
khi ông ra Hà Nội, trong tình trạng có thể bị Việt Minh thủ tiêu). Từ năm 1934
Nguyễn Đức Quỳnh viết cho các báo Tiếng Trẻ, Thời thế, Quốc gia.
Theo
tài liệu trong blog của nhà văn Thế Phong, ngoài một tập thơ (Mình với Ta,
1930) Nguyễn Đức Quỳnh đã in các tiểu thuyết có tính chất chính trị và xã hội.
Thế Phong là tác giả cuốn Nhận diện vóc dáng Nguyễn Đức Quỳnh (in rô nê ô, năm 1962, gồm 50 ấn bản, Loại
sách bản thảo Đại Nam văn hiến), ký bút hiệu Đường Bá Bổn. Cuốn tự sự và
nhận định này gây sôi nổi trong giới văn nghệ tại Sài Gòn và miền Nam khi được
quay ronéo phổ biến hạn chế (theo tác giả, cuốn sách không được bộ Thông Tin
cho phép in). Nửa thế kỷ sau, nhà văn Thế Phong cũng là người lưu giữ và phổ biến nhiều tài liệu nhất về Nguyễn
Đức Quỳnh trên blog riêng của ông, trong đó có toàn thể cuốn Ai Có Qua Cầu
theo bản đã được in. Blog Thế Phong cho biết các sáng tác của Nguyễn Đức Quỳnh
trước năm 1945 có một tập thơ Mình với Ta (1930) và những đề tựa sau
đây:
Bốn
biển không nhà
(1930)
Những
kẻ lạc đường
(kịch, được giải thưởng Les Amis de l’Art Sài Gòn, 1939).
Thằng
cu So
(1941)
Thằng
Kình
(1942)
Thằng
Phượng
(1941)
Sắt
đã vào lò
(1943)
Thế
Phong nhận xét: Nguyễn Đức Quỳnh muốn nhắm truyền bá lối sống mới cho giới trẻ
qua các cuốn tiểu thuyết mà nhân vật là các thiếu nhi, mỗi cuốn dài hơn cuốn
trước, như Thằng Cu So (187 trang), Thằng Phượng
(215 trang),
Thằng Kình (396 trang).
Thằng
Kình
để lại nhiều ấn tượng nên sau này còn được những nhà văn như Vũ Khắc Khoan,
Thanh Tâm Tuyền, vân vân, nhắc lại. Thế Phong coi đó là một bộ “tiểu thuyết
chính trị tự luận, tự thuật” về thời thơ ấu của ông ở Hưng Yên. Thế Phong giới
thiệu: “Nội dung sách là 3 anh em cùng học tại một trường Tiểu học ở Hưng Yên
cho đến năm mười lăm tuổi. Thời niên thiếu, ba đứa trẻ phải chứng kiến
và sống với những cổ tục lạc hậu, mê tín, đầy thù hận ở nông thôn Việt Nam nói
chung và nông thôn tỉnh
Hưng Yên nói riêng.
-
Thằng Cu So
kể về cuộc đời của một thằng bé mới lọt lòng cho đến khi nó lên năm, lên sáu...
tất cả là cảnh sống lạc hậu ở nông thôn.
-
Thằng Phượng
kể về cuộc đời của Phượng (Cu So con) rời nhà quê lên tỉnh lị - Hưng Yên - biết
được chút ít sinh hoạt tỉnh lẻ và cũng bắt đầu suy nghĩ về những sinh hoạt
quanh nó mà những suy nghĩ đó cũng thiên về sự chống đối.
-
Thằng Kình
kể về cuộc đời của Kình sống giữa xã hội đầy cạnh tranh và những bước va chạm đầu
tiên với đời. Ở đây, Kình bắt đầu nghĩ đến việc tranh đấu giữa 2 giai cấp: giàu,
nghèo. Thằng Kình đại diện cho giai cấp nghèo có tinh thần hướng thượng và
nó tự đặt vấn đề: Kẻ nghèo có bị sống nghèo không? Sự xung đột giàu nghèo sẽ ra
sao? v.v...”
Khi
Nguyễn Đức Quỳnh qua đời, Thanh Tâm Tuyền ghi lại trong tạp chí Văn ảnh
hưởng của Thằng Kình đối với chính mình: “Thằng Kình " được
viết vào năm 1942. Quãng gần 10 năm sau tôi gặp nó. Trước khi gặp nó,
cũng giống như Thằng Kình, tôi “có bổn phận phải cố học, phải cố học giỏi",
học trong tinh thần " ăn cướp" - tôi đọc bất cứ quyển sách nào rơi
vào tay. Sau khi gặp, tôi tìm đọc tất cả các sách của Nguyễn Đức Quỳnh,
các tác phẩm của Maxime Gorki", (và) “Principes fondamentaux de la
philosophie” của Politzer, Plekhanov, Marx, Trotsky... Hôm nay
thì tôi hiểu, một phần nào đó của Nguyễn Đức Quỳnh rơi ở trong tôi với Thằng
Kình. Cứ cái mẫu mực văn chương ‘Tự lực văn đoàn’ người ta không sao
nhận ra giá trị văn chương của Nguyễn Đức Quỳnh.”
Ít
khi Thanh Tâm Tuyền viết về một tác phẩm văn chương nào với tâm trạng nồng nàn
như với Thằng Kình: “Tôi không bao giờ quên Thằng Kình.
Cùng với Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, Thằng Kình là
quyển tiểu thuyết quan trọng đối với tôi. Đó là quyển sách đã vỡ lòng, đã mở mắt,
đã đưa tôi vào đời. Tôi đã được nếm mùi sung sướng và vị đắng cay khi đọc cuốn
sách ấy. Tôi đã gặp một ngọn lửa đốt cháy tôi - ngọn lửa của đời sống.” … “chỉ
có hai tác giả Nguyễn Đức Quỳnh và Nguyên Hồng gây được ở tôi lòng ngưỡng mộ .
Tôi không nói "yêu", không nói "phục", tôi nói "ngưỡng
mộ". Văn chương phát sinh từ "lòng ngưỡng mộ". Hết lòng
ngưỡng mộ, hết văn chương.” Ông công nhận: “Hôm nay thì tôi hiểu, một phần
nào đó của Nguyễn Đức Quỳnh rơi ở trong tôi với Thằng Kình.”
Thanh
Tâm Tuyền đã trích lại những đoạn văn làm cho ông say mê: “Kình đã tin ở tài
lực mình, Kình chỉ tin ở sức mạnh mình và Kình vừa mới biết KHINH. Kình không
thương nữa: thương là yếu, thương là sợ, thương là hèn, thương là giả dối. Kình
không thương nữa. “Kình khinh.” Tống quả bóng kia vào’gôn’ là Kình
đã hắt cả lòng khinh bỉ vào lòng thiên vị phe địch, vào lòng bợ đỡ của thằng
Tá, vào lòng háo danh của thằng Thành, vào lòng ám muội của tụi B, vào
lòng đê hèn của thằng Huynh, vào lòng nhỏ nhen của chúng bạn, vào lòng ích kỷ của
Trấn, của Ngọc... Vả, hơn nữa, khi đá quả bóng vào gôn, Kình đã đá tung đi những
lý thuyết ươn hèn, những đạo đức ủy mị mà anh Trấn và thầy đã nhồi sọ nó
bao lâu nay.
Quả
bóng là hiện thân của lòng khinh bỉ. Kình đã văng nó vào mặt mọi kẻ hèn nhát!…,
thằng Kình đã sinh trưởng trong một thế giới khác, thằng Kình đã suy nghĩ bằng
một khối óc khác, thằng Kình cảm động bằng một trái tim khác, thằng Kình đã nói
một tiếng khác của chúng bạn nó...”
Ngoài
các sáng tác kể trên, theo blog Thế Phong, trước năm 1945 Nguyễn Đức Quỳnh đã
xuất bản nhiều tác phẩm có mục đích phổ biến kiến thức mới cho độc giả Việt
Nam, gồm các cuốn sách sau đây:
Phong
trào Tân Kỳ
(1920)
Ta
và Mọi
(1929)
Các
dân tộc lạc hậu miền Thượng du (1930)
Khoa
học phổ thông
(1932)
Kỹ
nghệ làm pin điện
(1932)
Nguồn
gốc tiếng Nam
(1935)
Bốn
biển không nhà
(1930)
Gốc
tích loài người
(1943)
Đời
sống thái cổ
(1942)
Tây
phương cổ sử
(Hy Lạp, 1944)
Ai
Cập cổ sử
(1943)
Thượng
cổ sử Cận đông sử
(Ấn Độ, Trung Quốc, 1943)
Lịch
sử thế giới
(1944)
Nhìn
vào danh sách trên, chúng ta thấy Nguyễn Đức Quỳnh không phải là một chuyên gia
nghiên cứu về xã hội học, dân tộc học, mà chỉ mang hoài bão giáo dục đại chúng
về các vấn đề khoa học, kỹ thuật, dân tộc học, và đặc biệt là về lịch sử loài
người, trong khi chính ông không phải là một sử gia chuyên nghiệp. Có thể đặt
câu hỏi: Tại sao Nguyễn Đức Quỳnh chú ý viết về lịch sử nhân loại như vậy? Và
có thể đoán rằng ông viết lịch sử để có dịp trình bầy quan điểm của ông về xã hội
và lịch sử. Nguyễn Đức Quỳnh chịu ảnh hưởng của thuyết Duy vật Lịch sử của Karl
Marx, mà vào tuổi 30 ông rất thán phục Marx. Trong thế hệ trước và cùng thời với
ông đã có nhiều nhà trí thức Việt Nam “mê” Karl Marx như vậy. Đào Duy Anh chủ ý
giới thiệu tư tưởng của Marx qua việc giải thích các từ ngữ, khi soạn các cuốn
tự điển Hán Việt hay Pháp Việt. Trong nhóm Hàn Thuyên với Nguyễn Đức Quỳnh,
Trương Tửu (Nguyễn Bách Khoa) đã viết phê bình Nguyễn Du và Truyện Kiều,
Văn chương Truyện Kiều, cũng với mục đích phổ biến, áp dụng và giải
thích chủ nghĩa Marx theo lối riêng của ông, cho người Việt Nam thời đó.
Chúng
ta cần nhìn vào hiện tượng này trong bối cảnh nước ta trong một giai đoạn thế
giới thay đổi qua một cuộc đại chiến mới, và xã hội Việt Nam cũng đang thay đổi
rất nhanh. Thế hệ Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim vẫn còn những nỗ lực phục hồi các
giá trị cổ truyền trong lúc cũng giới thiệu văn hóa Pháp. Nhóm Tự Lực Văn Đoàn
cương quyết đổi mới, Hoàng Đạo đã trình bầy các khái niệm về dân chủ, dân quyền,
tinh thần pháp trị, đề cao cuộc sống có lý tưởng cho thanh niên. Phan Châu
Trinh, Nguyễn An Ninh đã cổ động cho tư tưởng dân chủ và xã hội. Chủ nghĩa Cộng
sản bắt đầu được truyền bá. Nhiều nhóm đã tổ chức thành đảng, hoặc Quốc Dân Đảng,
hoặc Cộng sản đảng, tuyên truyền và sách động các cuộc nổi dậy. Từ năm 1937, cả
dân tộc cùng thức tỉnh rất nhanh trước các biến cố trong vùng. Người Việt Nam
được chứng kiến cảnh nước Pháp bị Đức đánh bại và phải nhượng bộ Nhật, Nhật Bản
hùng cường đối đầu với Nga, Mỹ, xâm chiếm nước Trung Hoa. Giới trí thức
trẻ, nhiều người đã vào đại học, đã tốt nghiệp hoặc mới du học ở Pháp về, đang
khao khát phổ biến các kiến thức, tư tưởng mới, vượt lên trên khuôn khổ của những
nhóm Nam Phong hay Phong Hóa, Ngày Nay.
Đầu
thập niên 1940, sau thời kỳ Tự Lực Văn Đoàn, văn học Việt Nam bước vào một giai
đoạn mà Phạm Thế Ngũ gọi là giai đoạn Phục Hưng. Phạm Thế Ngũ giải thích: “Phục
Hưng đây không chỉ có cái nghiã phục cổ (restauration) mà còn có cái nghĩa phục
sinh (renaissance). Văn học Việt Nam sau 1940 bày ra một cảnh tượng phát
sinh rộn ràng và mới mẻ. Không những phái già tha thiết với những giá trị cổ tưởng
như gặp thời sống lại, mà phái trẻ cũng hăng hái góp phần. Nhiều thanh niên tân
học đứng ra giải quyết lại các vấn đề mà Nam Phong còn bỏ lửng: Vấn đề học thuật và
giáo dục quốc gia, vấn đề tổng hợp văn hoá đông tây, vấn đề thâu nhập khoa học
tây phương, giải quyết với tất nhiên tinh thần mới bản lĩnh mới của họ.”
(Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên, Quốc Học Tùng Thư, Sàigòn
1961-1965, tập 3, trang 613).
Hai
tạp chí nổi bật trong giai đoạn Phục Hưng này là Thanh Nghị và Tri
Tân. Nhóm Hàn Thuyên trẻ trung hơn, mang tinh thần tranh đấu mạnh hơn, do
Nguyễn Đức Quỳnh cùng Trương Tửu thành lập, quy tụ những Nguyễn Đình Lạp, Đặng
Thái Mai, Nguyễn Tuân, Phạm Ngọc Khuê, Nguyễn Hải Âu, Lương Đức Thiệp, Nguyễn Tế
Mỹ, Lê Văn Siêu, vân vân. Nhóm Hàn Thuyên xuất bản tạp chí Văn Mới, một
nguyệt san văn học. Theo Trương Tửu tiết lộ sau này thì Nguyễn Công Tiễu, anh rể
Trương Tửu, bỏ vốn mở nhà in trên phố Tiên Tsin- nhờ Nguyễn Đức Quỳnh quen biết
Cousseau, là Giám đốc Nha báo chí Tuyên truyền của chính quyền Pháp ở Bắc Việt.
Tên Thằng Cu So nhại theo tên Cousseau, cho thấy mối liên hệ gần gũi.
Sau năm 1940 Quân đội Nhật vào Đông Dương, Cousseau muốn lấy lòng các nhà trí
thức hoạt động tại Việt Nam, trong đó có cả các cán bộ cao cấp của Cộng Sản Đệ
Tam.
Những
người viết và in nhiều sách nhất trong nhóm Hàn Thuyên là Nguyễn Đình Lạp (tiểu
thuyết), Nguyễn Đức Quỳnh, Trương Tửu (lý luận). Lương Đức Thiệp viết Việt
Nam tiến hóa sử (1943), Xã hội Việt Nam (1943), Văn học và xã hội
(1944). Theo Giáo sư Trần Ngọc Ninh thì Triều Sơn (Bùi Duy Sinh), một người bạn
của ông, tác giả Tương Lai Văn Hóa Việt Nam và tiểu thuyết Nuôi Sẹo,
là một người gia nhập nhóm này trễ nhất (VNTD, đã dẫn, trang 10).
Nhóm
Hàn Thuyên cho thấy một nỗ lực văn chương vượt ra ngoài khuôn khổ Tự Lực Văn
Đoàn của thập niên 1930. Các nhà văn Tự Lực Văn Đoàn chú trọng vạch ra những
cái xấu ở nông thôn Việt Nam và chế nhạo các hủ tục để thúc đẩy việc thay đổi.
Hàn Thuyên không nhắm đả kích những hủ tục mà chú ý đến việc phân tích cuộc sống
xã hội cũ với nhãn quan mới, một phần dưới ảnh hưởng Mác xít. Trần Ngọc Ninh nhận
thấy các cuốn tiểu thuyết về tuổi thơ của Nguyễn Đức Quỳnh có “những cái gì đặc
sắc đầm ấm trong một gia đình thông lưu của Việt Nam giao thời, đã được kể một
cách đáng yêu và có phần rí rỏm chứ không bị coi là lố lăng để mà chế riễu,”
khác với lối nhìn của các tác giả Tự Lực Văn Đoàn.
Nhiều
người cho rằng nhóm Hàn Thuyên theo khuynh hướng Mác xít thuộc Đệ Tứ Quốc Tế.
Theo Trần Ngọc Ninh thì ngoài Triều Sơn là đảng viên Cộng sản Đệ Tứ, nhóm Hàn
Thuyên chỉ gồm những người “cảm tình” với khuynh hướng Đệ Tứ. Sau này, trong thập
niên 1960 tại Đàm Trường Viễn Kiến ở Sài Gòn, khi nói đến đảng Cộng sản, hoặc
chính quyền cộng sản ở miền Bắc, Nguyễn Đức Quỳnh không bao giờ gọi họ với danh
hiệu “cộng sản” mà luôn luôn gọi là “Đệ Tam,” bọn Đệ Tam, “anh em Đệ Tam,” vân
vân. Nguyễn Đức Quỳnh coi chế độ Liên Xô, Stalin và Đệ Tam Quốc tế là phản bội
chủ nghĩa của Marx, và đảng Cộng sản Việt Nam phản bội dân tộc.
Có
thể nói Đệ Tứ Quốc Tế ở Việt Nam cũng chỉ là một danh hiệu hơn là một tổ chức,
mối liên hệ còn lỏng lẻo. Chúng ta biết Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch
ở miền Nam thuộc khuynh hướng Đệ Tứ Quốc Tế, hoặc gọi là Trốt kít theo tên lãnh
tụ Leo Trostky, chống lại Đệ Tam Quốc tế theo Stalin. Nhóm Hàn Thuyên thực sự
có liên lạc với những nhóm Đệ Tứ khác ở ngoài Bắc hay trong Nam không, điều này
còn khó xác định. Có thể đoán rằng họ không liên hệ. Vì từ năm 1946 và trong thời
kháng chiến Hồ Chí Minh đã cho thủ tiêu tất cả các đảng viên Đệ Tứ nổi tiếng
như Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, vân vân, trong khi đó những người trong nhóm Hàn
Thuyên như Trương Tửu, Đặng Thái Mai, vân vân, đều còn được sống khi theo kháng
chiến.
Nếu
Nguyễn Đức Quỳnh có thiện cảm với Cộng sản Đệ Tứ Quốc tế thì có thể chỉ vì Leo
Trotsky là một hình ảnh lãng mạn, lôi cuốn, hình ảnh một người làm “cách mạng
thường trực,’ nhất là sau cái chết bi thảm của ông do tình báo của Stalin hạ thủ
một cách tàn nhẫn là đập búa vào đầu trong lúc ông ngồi bên bàn viết. Nguyễn Đức
Quỳnh đã biểu lộ tình cảm này nhiều lần, như khi khuyên nhà văn Kiêm Đạt hãy đặt
tên “Nhà xuất bản Bạn Đường,” cái tên Trotsky đã dùng khi sống lưu vong ở
Mexico (VNTD đã dẫn, trang 16).
Một
điều biết chắc là Nguyễn Đức Quỳnh có nghiên cứu chủ nghĩa Mác xít, một trong
những người Việt Nam hiếm hoi có đọc sách Karl Marx. Ông đã dịch bộ Tư Bản,
(Das Kapital) của Karl Marx sang tiệng Việt, dịch từ bản tiếng Pháp Le
Capital với tên Tư Bản Luận. Ông hoàn tất việc dịch thuật này năm
1950; đã nộp bản dịch cho đảng Cộng sản Việt Nam. Ông biết rằng bản dịch này được
Hồ Chí Minh cho đóng hộp gửi sang Nga để chứng tỏ lòng trung thành với Đệ Tam
Quốc tế.
Từ
Chiến Khu Tư đến Sài Gòn
Sau
năm 1945, Nguyễn Đức Quỳnh trở lại Thanh Hóa, nơi Nghiêm Xuân Hồng còn nhớ, “tôi
đã thấy một hình ảnh anh Quỳnh hồi 1940-41. Thấy anh người cao, quắc thước, mặc
chiếc áo dài ta rộng, tay cầm chiếc quạt, đương đi rảo bước trên hè phố tỉnh lỵ
Thanh Hóa, theo sau mấy bước là chị Quỳnh.” Nguyễn Đức Quỳnh tham gia cuộc
kháng chiến chống Pháp tại Chiến khu Tư (số IV), vùng Thanh Nghệ. Ở Chiến khu
Tư, Tướng Nguyễn Sơn rất kính trọng các nhà trí thức và nghệ sĩ, họ tương đối
được tự do. Cho nên trong vùng này có những nhà văn, họa sĩ, nhạc sĩ, có Hoàng
Văn Chí, nhóm Hàn Thuyên còn có Nguyễn Đình Lạp, Đặng Thai Mai, Trương Tửu,
Nguyễn Tuân, Phạm Ngọc Khuê. Họ đã hoạt động và cộng tác với Tướng Nguyễn Sơn,
một người sau này Nguyễn Đức Quỳnh vẫn nói đến với những lời kính trọng, có thể
nói là ngưỡng mộ. Ông trở thành bạn của nhạc sĩ Phạm Duy, Mai Thảo, Thái Tuấn,
những người này sau đều bỏ cộng sản, “vượt tuyến” về vùng “quốc gia” cùng một
khoảng thời gian, sau khi Tướng Nguyễn Sơn bị gọi về Việt Bắc rồi qua đời.
Mai Thảo đã viết về Nguyễn Đức Quỳnh
trong bài “Ngôi sao Hàn Thuyên,” đăng trên tạp chí Văn, số tháng 6, năm 1974, có đoạn nhắc đến lời đề tặng do Nguyễn
Đức Quỳnh viết cho anh như sau: “Mai Thảo ơi ! Sông Mã sông
Chu có cầu không nhỉ? Đó là câu đề tặng sau này, cuốn Ai Có Qua Cầu, anh
Quỳnh viết cho tôi, trong cái ý gợi tôi nhớ lại cùng anh mấy lần gặp mặt giữa
hai giòng Chu, Mã chảy song song trên địa hình Thanh Hoá.”
Mai
Thảo nhớ lại cuộc gặp gỡ Nguyễn Đức Quỳnh: “Bấy giờ là mùa Hè 1948. Năm kháng
chiến thứ ba. Pháp … tổng càn quét… Tôi chạy vào Khu Tư … được phái đi tham dự
hội nghị văn nghệ liên khu tổ chức tại làng Quần Tín, tỉnh Thanh Hóa. Trong cái
đám hai trăm đại biểu từ khắp nơi đeo bạc đà, vượt tiêu thổ, về họp mặt dưới những
chùm hoa gạo đỏ thắm trên mái đình làng Quần Tín, người Hàn Thuyên gần đủ mặt,
chỉ thiếu Lê Văn Siêu (...) Đã ngót ba mươi năm. Tôi còn như đang nhìn thấy anh
đến. Tráng kiện, mạnh mẽ. Khuôn mặt rám nắng, vầng trán mênh mông. Cái nhìn
sáng và sắc, chém đinh chặt sắt (...) và nụ cười, nụ cười thân yêu bè bạn sau
này không bao giờ quên của cả một lớp người văn nghệ trẻ tuổi ở miền Nam, anh
Nguyễn Đức Quỳnh tức khắc là “người” của đám người viết mới như tôi trong đại hội.
Bên cạnh một Trương Tửu lè phè, xập xệ, một Đặng Thai Mai nhợt nhạt đau yếu,
anh là khuôn mặt sống động và nghệ sỹ nhất của nhóm Hàn-Thuyên chúng tôi thấy mặt
lần đầu. Thực ra, tới năm đó, Hàn Thuyên không còn nữa… Hàn-Thuyên đã chia
lìa.”
Mai
Thảo nhắc lại “Người ta thường nói đến một từ trường Nguyễn Đức Quỳnh. Đến sức
hấp dẫn kỳ lạ toát ra ở ông … lớp người trẻ tuổi tìm đến ông, đơn giản vì ông gần
họ nhất… dưới những chùm hoa gạo Quần Tín năm nào, Nguyễn Đức Quỳnh với đám người
trẻ hồi đó, hệt như lớp người trẻ ở đây (Sài Gòn), sau tôi. Nguyễn Đức Quỳnh
ngày ấy và của Đàm Trường Viễn Kiến gần đây là một. Một sức hút. Một từ trường.”
“Họp
mặt Quần Tín cũng là một chia lìa. Những người Mác-xít, chưa ra mặt hẳn, đã muốn
áp đặt đường lối chính trị của họ vào hội thảo văn học. Không khí họp mặt thoạt
đầu cởi mở, trở nên trầm trọng, ngột ngạt…. Trên bàn chủ tịch đoàn, Nguyễn
Đức Quỳnh là người duy nhất đánh phá đường hoàng vào sự trầm trọng lệch lạc
này. Bằng những ý kiến phóng khoáng, vui nhộn, tếu nghịch, làm nhẹ hẳn cái
không khí khó thở. Ở dưới, bọn trẻ chúng tôi khoái thích ông vô tả. Thấy ông
vào phòng họp là chúng tôi vỗ tay ào ạt. … Tóm lại Nguyễn Đức Quỳnh vui không
chịu được! … Ông nói xong, chúng tôi cười rộ từng hồi…”
Với
một nhân cách hấp dẫn và khả năng thu hút người trẻ như vậy, Nguyễn Đức Quỳnh
có thể còn sống được vào năm 1948; nhưng chắc chắn ông sẽ không thể sống dưới
chế độ văn nghệ chỉ huy của đảng Cộng sản. Nếu còn theo đuổi kháng chiến, không
“về thành” sớm thì tới những năm 1956, 57 Nguyễn Đức Quỳnh cũng sẽ chịu chung số
phận “phản động” như những Phan Khôi, Trần Dần, Nguyễn Hữu Đang, vân vân. Mai
Thảo viết: “… một đêm ngủ ở chân cầu Hàm Rồng, tôi được một người bạn nói nhỏ
cho hay Nguyễn Đức Quỳnh sau nhiều lần vào Hà Nội trở ra, lại vào. Vào hẳn.”
Năm
1951 Nguyễn Đức Quỳnh từ giã kháng chiến, từ Thanh Hóa đi thuyền ra Hải Phòng rồi
về Hà Nội. Sau đó ông vào Huế, dự tính làm một tờ báo với Phan Văn Giáo, một
người thân cận cựu hoàng Bảo Đại, lúc đó là “quốc trưởng” của chế độ “Quốc gia
Việt Nam,” đặt tên là “Dân Trên Hết”. Nhưng việc đó không thành, có giả
thuyết nói rằng vì bà mẹ của ông Bảo Đại, lúc đó ở Huế, không đồng ý. Ông vào
Sài Gòn, cộng tác với một số nhật báo, rồi đứng chủ trì báo Đời Mới của
Trần Văn Ân. Ông làm cho tờ tuần báo này khởi sắc, ông viết đủ các mục trong tờ
báo này, ký nhiều tên khác nhau, và viết truyện dài Làm lại cuộc đời dưới
tên Hà Việt Phương.
Trong
giai đoạn “nhoá nhem” trước và sau Hiệp định Geneve, 20 tháng Bảy 1954, cho đến
ngày ông Ngô Đình Diệm dẹp hết các vụ chống đối của các giáo phái, Nguyễn Đức
Quỳnh trực tiếp tham dự vào một số vận động chính trị. Một nhân sĩ Phật Giáo
Hòa Hảo là ông Nguyễn Long Thành Nam đã kể lại (trong tạp chí VNTD năm 1986) những
lần gặp gỡ Nguyễn Đức Quỳnh tại các buổi sinh hoạt với các nhà trí thức miền Bắc
di cư mà ông đi tìm gặp để cùng tìm con đường chung cho miền Nam Việt Nam sau
hiệp định đình chiến. Trong các cuộc họp mặt đó ông Thành Nam còn nhớ có giới
hoạt động cả ba vùng: Nghiêm Xuân Hồng, Nguyễn Đức Quỳnh (Bắc), Lê Kiểu, Hồ Hán
Sơn (Trung), Trần Văn Ân, Hồ Hữu Tường và đại diện một số giáo phái như Cao
Đài, Hòa Hảo (Nam). Nguyễn Long Thành Nam thuật lại “mọi người lúc đó đều bị ám
ảnh bởi thời hạn tuyển cử năm 1956, phải làm thế nào bảo vệ tiềm lực quần chúng
miền Nam, đối phó với cộng sản, và bảo vệ lấy miền Nam tự do” (VNTD, trang 13).
Trong số những người này chỉ có Hồ Hán Sơn quyết định ủng hộ ông Ngô Đình Diệm
(nhưng sau cùng Hồ Hán Sơn bị chính quyền ông Diệm thủ tiêu cùng với Nguyễn Bảo
Toàn, một nhân sĩ miền Nam khác cũng giúp ông Ngô Đình Diệm trong phong trào
truất phế vua Bảo Đại). Theo Nguyễn Long Thành Nam thì, trong thời gian Tướng
Nguyễn Văn Hinh còn đang chống ông Ngô Đình Diệm, các nhà chính trị và các giáo
phái đã cử Nguyễn Đức Quỳnh đi Pháp để gặp ông Bảo Đại. Trước khi đi Nguyễn Đức
Quỳnh còn dịch một bài báo cho Tướng Bảy Viễn, và Nguyễn Long Thành Nam đang có
mặt nghe, theo đó ông thấy chính sách của chính phủ Mỹ đã dứt khoát ủng hộ thủ
tướng Ngô Đình Diệm, và “bài toán của chúng ta sẽ hỏng bét” (trang 14). Nhưng
chắc chuyến đi Pháp này không thành, sau này không bao giờ thấy Nguyễn Đức Quỳnh
nhắc tới.
Báo
Đời Mới đóng cửa vì ông Trần Văn Ân cộng tác với Tướng Nguyễn Văn Viễn,
thủ lãnh nhóm Bình Xuyên chống Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Trần Văn Ân và Hồ Hữu
Tường bị án tử hình khi Bẩy Viễn thua chạy, cả hai bị giam ở Côn Đảo cho tới
năm 1963. Nguyễn Long Thành Nam trốn được ra nước ngoài. Nguyễn Đức Quỳnh có thể
bị chính quyền ông Diệm nghi ngờ vì những liên hệ cũ của ông, nhưng ông vẫn được
tự do, cho thấy chắc ông không đi Pháp liên lạc với ông Bảo Đại.
Trong
năm 1954, với làn sóng di cư một triệu người từ Bắc vô Nam, Nguyễn Đức Quỳnh
góp mặt trên tuần báo Người Việt của nhóm văn nghệ sĩ di cư . Trong Người
Việt bộ mới (ra được 4 số, năm 1955) ông thường dùng bút hiệu Âu Âu Thành
Đô, viết bài “Góp phần xây dựng văn nghệ” in trong hai số 3 và 4. Với suy tưởng
và kinh nghiệm của chính bản thân, Nguyễn Đức Quỳnh chứng minh chủ nghĩa Mác là
một ngụy thuyết. Ông viết: “Chủ nghĩa Mác đã rèn luyện môn đồ
thành con người chỉ biết suy nghĩ (luận) theo có một chiều (duy vật biện chứng),
chỉ biết có hành động (luật) theo có một hướng (độc tài vô sản) nên tất nhiên
con người đó phải thui chột hết tình cảm. Mà con người đã không rung động thì
làm gì còn có tính chất ... con người nữa (...) Hậu quả tất nhiên của nền Triết
học duy lý khiên cưỡng ấy phải là một chế độ chính trị xu thời, tiền hậu bất nhất,
luôn luôn bẻ quẹo thực tế khách quan đi cốt sao cho phù hợp với chủ quan lệch lạc
của mình.”
Nguyễn
Đức Quỳnh cùng các nhà văn khác lập nhóm Quan Điểm, trong đó có Nghiêm Xuân Hồng,
Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Lê Văn Siêu. Nhà xuất bản Quan Điểm đã in sách của
Nghiêm Xuân Hồng, Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, vân vân. Một chủ đề họ đồng ý nêu cao
là vai trò của giai cấp trung lưu, còn gọi là tiểu tư sản, đặc biệt nhấn mạnh đến
vai trò của giới trí thức dù không kêu gọi “Giới trung lưu toàn thế giới hãy tập
hợp lại!” Nêu ra ý kiến chủ đề này là một phản ứng trước chủ thuyết cộng sản, họ
coi giai cấp vô sản là đầu tầu của lịch sử; và họ coi giai cấp “tiểu tư sản”
không có một giá trị nào, gọi bằng một cái tên bỉ báng là “tạch tạch sè.” Chủ đề
của nhóm Quan Điểm là một “viễn kiến” phát xuất từ giới trí thức Việt Nam rất
đáng chú ý; vì từ nửa sau thế kỷ 20 thì cả thế giới đồng ý giới trung lưu là đầu
tầu trong các cuộc cách mạng dân chủ, sang thế kỷ 21 cảng thấy rõ. Các quốc gia
khi đạt tới lợi tức bình quân trên 4,000 đô la một năm thì người dân đều có
khuynh hướng nổi dậy đòi dân chủ, tự do. Nhưng trong không khí chính trị và văn
hóa ở miền Nam Việt Nam thời gian đó, chính quyền đề cao lý thuyết Nhân Vị, một
chủ nghĩa được giới trí thức Công Giáo Pháp đề xướng. Cho nên những nỗ lực của
nhóm Quan Điểm không gây được ảnh hưởng, và những người trong nhóm cũng không đủ
các kiến thức kinh tế học, xã hội học để khai triển “viễn kiến” này.
Đàm Trường Viễn Kiến
Sức
hấp dẫn của con người Nguyễn Đức Quỳnh ở Quần Tín mà Mai Thảo nhắc tới vẫn biểu
hiện khi ông vào sống ở Sài Gòn. Nhà văn Kiêm Đạt kể lại ông đã hợp tác với báo
Đời Mới, ngay sau khi từ chiến khu Bình Trị Thiên trở về thành phố Huế, tháng
Tư năm 1954. Sau đó, ông vào Sài Gòn, đến tòa soạn, nhìn thấy Nguyễn Đức Quỳnh
“thong dong, thoát sáo trong bộ bà ba mầu nâu” chỉ cho Kiêm Đạt thư viện của
tòa báo, nói: “Chưa lúc nào mà chúng ta cần nghiên cứu tư tưởng hơn lúc này.”
Kiêm
Đạt nhớ lại Nguyễn Đức Quỳnh đã tổ chức các buổi họp hàng tuần mặt ở tòa soạn Đời
Mới, với những người tham dự như Tô Thùy Yên, Nguyễn Khắc Ngữ, Hồ Hán Sơn, Hồ
Nam (cũng ký Vương Tân khi làm thơ), Chế Tần Lĩnh, Trần Thanh Hiệp, Quách Thoại,
Thế Phong, vân vân. Kiêm Đạt còn nhớ
“Bước chân lãng đãng của Nghiêm Xuân Hồng, khuôn mặt huyền bí của Lý Đại Nguyên,
chiếc (xe) solex bệnh hoạn của Trần Lê Nguyễn, vân vân. Những nhà văn,
nhà thơ trên sau đó cũng họp mặt
trong Đàm Trường Viễn Kiến. Ngoài ra
còn những người tới trễ hơn như Dương Nghiễm Mậu, Đỗ Ngọc Yến, Trần Dạ Từ, Nguyễn
Hữu Đông,Nguyễn Thụy Long, Viên Linh, Đỗ Quý Toàn, Nguyễn Khắc Nhân, Trần Tuấn
Kiệt. Khoảng những năm trước sau 1960 Nguyễn Đức Quỳnh lập Đàm Trường ngay trong nhà ông, bên cạnh ngôi
chùa Từ Quang do Thượng tọa Thích Tâm Châu trụ trì, trong một ngõ hẻm trên “Đường
20,” tức đường Phan Thanh Giản cũ. Dương Nghiễm Mậu hồi tưởng về căn nhà
này: “Sau những chuyện liên can đến những điều thật lớn cho tới
những điều thực nhỏ; tôi nhắc tới căn nhà cũ của anh. Ngôi nhà nhìn thẳng ra
con hẻm của chùa Từ Quang, căn nhà có một khoảng hiên hẹp, mái ngói thấp và một
cây ổi với hàng rào cây.”
Đàm
Trường Viễn Kiến họp tại nhà riêng của Nguyễn Đức Quỳnh, sinh hoạt công khai mỗi
buổi tối Thứ Sáu thường có hàng chục văn nghệ sĩ đến ngồi trò chuyện, đọc thơ
và văn trong nhiều năm trước và sau năm 1960. Đó là thời gian chính phủ Ngô
Đình Diệm đang kiểm soát gắt gao cả xã hội miền Nam, các đảng phái chính trị
không được hoạt động dù có khuynh hướng quốc gia, chống cộng sản. Phòng hội họp
của Đàm Trường Viễn Kiến trông thẳng ra con đường nhỏ trong cái ngõ hẻm Chùa Từ
Quang, những cánh cửa gỗ luôn luôn mở rộng, cố ý chứng tỏ sinh hoạt này không
có điều gì cần giấu diếm. Nguyễn Đức Quỳnh thường nói công khai rằng ông không
coi các ông Diệm, ông Nhu là đối tượng. Đối tượng chính của ông là chủ nghĩa
Mác xít, và phe “Cộng sản Đệ tam.” Ông giao dịch với những nhà chính trị như Hồ
Hữu Tường, Hồ Hán Sơn, Châu Sơn Thái Vị Thủy, Trần Văn Ân (chủ nhiệm báo Đời Mới),
Phạm Xuân Thái và Ngô Trọng Hiếu (hai bộ trưởng thông tin trong chính phủ Ngô
Đình Diệm), Bác sĩ Trần Ngọc Ninh, một tổng trưởng Văn hóa Giáo dục thời Đệ nhị
Cộng Hòa; nhưng Nguyễn Đức Quỳnh vẫn đứng ngoài các hoạt động chính trị. Ông bị
bắt bỏ tù trong “hầm” mấy tháng trước cuộc đảo chánh lật đổ ông Diệm năm 1963,
có lẽ vì nhà ông ở bên cạnh các chùa Từ Quang và Giác Minh, nơi hai vị trụ trì
Thích Tâm Châu và Thích Đức Nghiệp trong phong trào Phật Giáo thường tiếp xúc với
ông. Năm 1964 ông đã nói với Nguyễn Long Thành Nam: “… tôi không sinh hoạt
chính trị. Từ lâu tôi để giành thời giờ và suy tư cho văn hóa.”
Trong
Đàm Trường, mọi người được yêu cầu gọi Nguyễn Đức Quỳnh là anh, tất cả mọi người được yêu cầu gọi nhau là
anh, em, không có ai là chú, bác. Như chúng ta thấy, khi nhắc tới Nguyễn
Đức Quỳnh cả Mai Thảo và Dương Nghiễm
Mậu đều gọi là “Anh” mặc dù hai người này tuổi tác cách nhau, Dương Nghiễm Mậu
kém thua Nguyễn Đức Quỳnh gần ba chục tuổi, còn trẻ hơn con lớn của ông là nhà
văn Duy Sinh. Hai người đóng vai thư ký mỗi tối Thứ Sáu, lúc đầu là Đinh Hữu,
sau là Đỗ Ngọc Yến.
Tại Đàm Trường Viễn Kiến, mà cụ Quỳnh nhận chức
“thủ từ” (người giữ đền thờ) chúng tôi gặp Đinh Hữu (cũng ký tên Lương Quân),
Dương Nghiễm Mậu, Trần Dạ Từ, Viên Linh, Đỗ Ngọc Yến, Nguyễn Thụy Long, Sa
Giang Trần Tuấn Kiệt, Nguyễn Khắc Giảng, Đào Mộng Nam, Nguyễn Nghiệp Nhượng, Hà
Thế Ruyệt, Nguyễn Nhật Duật, cả các nhà chính trị rất thân với Nguyễn Đức Quỳnh
như Phạm Xuân Thái, Ngô Trọng Hiếu (Paul Hiếu). Ngoài các nhà văn, nhà thơ, Đàm
Trường Viễn Kiến cũng thu hút nhạc sĩ Phạm Duy, các họa sĩ Nguyễn Trung, Đỗ
Quang Em, các nhiếp ảnh gia Nguyễn Cao Đàm, Trần Cao Lĩnh, cũng đều hay lui tới.
Có thể nói Đàm Trường Viễn Kiến là một hiện tượng đặc
biệt ở miền Nam Việt Nam, trong thời gian chính phủ Ngô Đình Diệm đã xây dựng một
chế độ độc tài khá chặt chẽ mà vẫn có một nhóm tư nhân độc lập tập họp với nhau
mỗi tuần, trong một ngôi nhà nghèo nàn, mở rộng cửa trông ra một ngõ hẻm, mà
không gặp khó khăn nào.
Đàm Trường tồn tại là nhờ sức thu hút của cá nhân
Nguyễn Đức Quỳnh. Ông luôn luôn ân cần khuyến khích các văn nghệ sĩ trẻ. Nhà
thơ Du Tử Lê kể lại ông không hề quen biết Nguyễn Đức Quỳnh; nhưng khi ông in tập
thơ thứ ba, năm 1968, có người bạn nói với anh: “Anh Quỳnh muốn gặp cậu. Anh Quỳnh
bảo anh thích một bài thơ của cậu.” Nhà thơ kể tiếp: “Ngay ở cái nhìn đầu tiên
lần gặp gỡ thứ nhất, tôi đã bị khuất phục hoàn toàn bởi đôi mắt sáng quắc và vầng
trán thông minh, với bộ đồ nâu sồng.” Lần thứ hai Du Tử Lê được mời đến vì
một truyện ngắn, Đời Ta, mới in ra. “Ông Quỳnh nói về cái ‘khí hậu’ của truyện
ngắn đó. Ông giải thích cho tôi nghe về chính cái truyện ngắn do tôi viết.”
Cách sử thế, tiếp vật của Nguyễn Đức Quỳnh rất dễ
chinh phục lòng người. Cao Thế Dung kể (VNTD đã dẫn, trang 18-20) “Đối với anh
em, cụ rất thật tâm tuy ai cụ cũng khen, ai cụ cũng tìm một đặc điểm nào đó để
khen nhưng nếu xét cho kỹ cái khen của cụ thật là tài tình, nhân hậu, không một
lần giả dối …” Cao Thế Dung cũng chứng kiến cảnh, “Thế Phong công kích bậc thầy
trước cả mặt tôi, trước mặt cả Thầy Đức Nhuận, cụ vẫn hỷ hả…. Một anh luật sư nọ
đến thăm cụ mũ cao áo dài ra vẻ ta đây cụ cũng coi như một Trần Dạ Từ xộc xệch
lê đôi dép cao su, áo bỏ ngoài quần … Đối với cụ, … chỉ có anh em giới cầm bút
là thượng khách…”
Nhà văn Thanh Nam cũng trải qua kinh nghiệm này khi
còn rất trẻ, vào năm 1953 ở Hà Nội. Ông và nhà văn Nguyễn Minh Lang được ông
giám đốc nhà xuất bản “đưa đến gặp anh Quỳnh,” sau khi hai người mới in hai cuốn
tiểu thuyết. “Khi gặp anh tôi không hề nghĩ là anh đã đọc văn của mình … nhưng
chúng tôi sửng sốt khi thấy anh Quỳnh đề cập tới hai cuốn tiểu thuyết kia và
nói tới từng chi tiết một chứ không phải chỉ là nói phớt qua để lấy lòng hai
đàn em. Anh đưa cuốn sách ra và chỉ cho tôi thấy từng đoạn viết sai, viết láo của
tôi. Chưa bao giờ tôi thấy xúc động trước một nhà văn đàn anh như vậy.”
Dương Nghiễm Mậu kể: “Khoảng năm 1960-1962,
mỗi chiều thứ sáu ở nhà ông, có sinh hoạt của" Đàm trường Viễn kiến".
Khoảng tháng 9 năm 1963, ông bị bắt; sau ngày 1 tháng 11 ông được trả tự do. …" Khi anh Quỳnh mất có người hỏi:
Nguyễn Đức Quỳnh là ai?" Tôi thấy không đáng trách,
vì đã 20 năm nay, anh đã gần như mai danh ẩn tích; đời sống của anh là một đời
sống thanh đạm, cho nên chỉ có những người gặp anh mới biết anh là ai, một ai
không rõ ràng. Tôi nghĩ, đến lớp người như tôi; chắc là lớp người chót được biết
anh, và từ đó tôi nghĩ: sau này chắc chắn sẽ có nhiều huyền thoại về anh.
Trong bước đầu viết văn, tôi chịu ơn anh đã khuyến khích. Sau này có gần
10 năm, tôi không gặp anh. Tôi cũng không hiểu vì sao tôi không muốn gặp anh.
Nay anh đã mất, nhưng tôi vẫn muốn được dùng hai tiếng "ANH QUỲNH",
như khi anh còn sống mà tôi xưng hô, để viết một ít dòng về anh. Điều ấy
cũng có nghĩa: "Tôi không
quên được anh"!”
Nhân cách Nguyễn Đức Quỳnh cũng được Cao Thế Dung
mô tả rõ: “Cụ Nguyễn sống như một ông đồ xứ quê; cụ không có một nhu cầu nào
riêng cho cụ, suốt tháng năm cụ vận bộ bà ba nâu, đi đôi dép Nhật, cụ ăn uống
đơn giản, đơn giản hơn cả một nhà tu. … Cụ không như ai dấu tài, dấu nghề; cụ
chỉ dẫn từng chi tiết nếu anh em thật lòng cầu học…. Cụ có lối lý luận của một
người ‘siêu Mác xít’ nhưng trong thái độ xử thế tiếp vật của một nhà Nho.”
Nguyễn Long Thành Nam, một người cùng thế hệ, cũng
nhận xét khi gặp lại nhau vào năm 1964: “… nhà văn hóa Nguyễn Đức Quỳnh mặc bộ
bà ba nâu là mặc cái mầu sắc thanh đạm của con người Việt Nam, của kẻ sĩ Việt
Nam. Và như thế, cái Đạo anh Quỳnh đi tìm hẳn phải là Đạo Việt Nam.”
Đàm Trường Viễn Kiến là nơi Nguyễn Đức Quỳnh mở cửa
mời các nhà văn và giới trí thức tới cùng xây dựng một thứ “Đạo Việt Nam.” Như Nguyễn Mộng Giác viết:
“…ông không dùng văn chương như một cách phụng sự cái đẹp.” Từ Thằng Kình cho tới
Ai Có Qua Cầu, Nguyễn Đức Quỳnh viết để
phụng sự một thứ khác văn chương, gọi nó là một thái độ sống, một “đạo” hay một
ý thức hệ cũng được.
Trong bài tưởng niệm Nguyễn Đức Quỳnh sau tang lễ,
năm 1974, nhà văn Nguyễn Mạnh Côn đã nhận xét: “Ông Quỳnh mất là chấm dứt một
thế hệ (những)
người theo đuổi mộng tưởng vĩ đại.” Mộng tưởng vĩ đại của Nguyễn Đức Quỳnh là xây dựng một “ý thức hệ”
vượt trên chủ nghĩa Mác xít mà Cộng sản Việt Nam theo đuổi. Mối quan tâm của
ông không phải là Hồ Chí Minh hay Ngô Đình Diệm, mà là tìm một con đường đi cho
dân tộc, cũng như loài người. Thế hệ trước ông đã có nhiều người nuôi giấc
mộng lớn đó. Phan Bội Châu đã tâm phục Chủ nghĩa Tam Dân khi thành lập Việt Nam
Quốc Dân Đảng. Phan Châu Trinh đã chọn không ngần ngại con đường Dân Chủ, Dân
quyền. Trước năm 1940, những nhà cách mạng như Lý Đông A đã sáng tạo “Chủ nghĩa
Duy Dân,” Trương Tử Anh đã đề thuyết “Dân tộc Sinh tồn,” vân vân. Tại miền Nam,
Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ khai sáng Phật Giáo Hòa Hảo cũng đi trên một con đường
tương tự.
Những
dự án lớn về học thuyết, tư tưởng đó đều là phản ứng đối với hành động tuyên
truyền chủ nghĩa Cộng sản, từ thập niên 1930. Cộng sản Đệ tam đã biến chủ nghĩa
Mác xít thành một thứ tín ngưỡng, với những tên tuổi của Marx, Lenin như các vị
thánh, hứa hẹn một thiên đường là Liên bang Xô viết. Những nhà cách mạng Việt
Nam biết ý thức hệ cộng sản không thích hợp với cuộc tranh đấu của dân tộc, họ
thấy nhu cầu đề xướng ra những chủ nghĩa, những ý thức hệ khác cộng sản.
Từ
năm 1954, khi nước ta bị chia đôi, vấn đề ý thức hệ càng sôi nổi. Vì thế giới
đang sống trong một cuộc “chiến tranh ý thức hệ,” giữa khối cộng sản và hệ thống
kinh tế tư bản. Nếu bên cộng sản họ có chủ nghĩa Marx làm căn bản ý thức hệ,
thì phe bên này có cái gì? Các đảng chính trị vẫn giữ các lý thuyết Tam
Dân, Duy Dân, hay Dân tộc Sinh tồn, chính quyền miền Nam lấy lý thuyết Nhân Vị
làm tiêu chuẩn. Ông Ngô Đình Nhu và các bạn ông đã mô phỏng chủ nghĩa Nhân Vị
(Personalisme) của Emmanuel Mounier (1905–1950), đã được những triết gia như
Gabriel Marcel, Jacques Maritain khai triển. Tư tưởng của họ ảnh hưởng trong giới
trí thức Công giáo Pháp và Việt Nam qua tạp chí Esprit. Chủ nghĩa Nhân Vị
của Mounier hoàn toàn thuộc phạm vi triết học, nhưng được phong trào Lao Động
Công Giáo coi như kim chỉ nam nên có thêm đặc tính “dấn thân.” Những nhà trí thức
ở miền Nam không theo đạo Công Giáo và đứng ngoài chính quyền cũng nuôi mộng lớn xây dựng một “ý thức hệ”
mới. Cùng thế hệ với Nguyễn Đức
Quỳnh có các “lý thuyết gia” như Hồ Hữu Tường, năm 1964 ông chủ trương tạp chí Hòa
Đồng sau khi từ Côn Đảo trở về. Nguyễn Mạnh Côn cũng là một người từng
đi tìm con đường lớn như vậy, diễn tả qua hình thức tiểu thuyết. Sau đó đến Lý
Đại Nguyên, với bộ sách Tổng Thức Vận, muốn trình bầy một hệ thống tư tưởng
bao trùm mọi lãnh vực sống trong nhân loại, được các bạn hữu in ronéo xuất bản
năm 1965.
Mối
thao thức xây dựng ý thức hệ còn nổi lên tại Việt Nam một lần nữa, từ năm 1990
sau khi chế độ cộng sản sụp đổ ở Liên xô. Giới trí thức Việt Nam, nhất là ở miền
Bắc, bỗng nhiên tỉnh dậy sau một giấc ngủ dài, nhìn thấy ý thức hệ cộng sản
trong thực tế chỉ là một tòa lâu đài bằng cát, đã sụp đổ khi hệ thống kinh tế
thất bại. Người ta biết rằng tin theo chủ nghĩa cộng sản là đã lầm đường, nhưng
không biết từ nay về sau sẽ đi theo con đường nào. Nhiều người đặt thẳng câu hỏi:
Lấy cái gì làm ý thức hệ mới thay thế cho chủ nghĩa Marx?
Một
điều giới trí thức nước ta không biết, là ngay trong thời gian “Chiến tranh Lạnh,”
mà chúng ta gọi là “Chiến tranh ý thức
hệ,” từ giữa thập niên 1950 giới trí thức quốc tế đã nhìn ra “Thời đại của ý thức
hệ đã chấm dứt”, đặc biệt ở các nước nói tiếng Anh.
Daniel
Bell, giáo sư Đại học Columbia University, đã viết một tiểu luận nhan đề “Sự
chấm dứt của Ý thức hệ,” (The End of Ideology) với những ý kiến được
trình bày lần đầu tại “Hội nghị về Tự do Văn Hóa” (Congress for Cultural
Freedom) họp năm 1955 tại Milan, nước Ý. Trong cuộc gặp gỡ đó, các triết gia
như Bell, Raymond Aron, Seymour Martin Lipset bàn về sự thất bại của ý thức hệ
Mác xít, sau khi Stalin qua đời, và Khrushchev đang chuẩn bị tố cáo các tội ác
của nhà độc tài này.
Trên
thế giới, chủ nghĩa Marx đã bị vượt qua từ lâu rồi, sau khi người ta đọc Karl
Popper The Poverty of Historicism từ năm
1944 trên tạp chí Econometrica (Sự nghèo nàn của Quan điểm Duy lịch sử,
sau này đã được Nguyễn Quang A ở Hà Nội dịch), và The Open Society and Its Enemies
(Xã hội mở và các địch thủ của nó) từ năm 1945. Triết gia người Áo này đã phản
bác những lý luận căn bản của Karl Marx. Cuốn The Road to Serfdom (1944)
và The Constitution of Liberty (1960) của Friedrich von Hayek, cuốn
Capitalism and Freedom của Milton Friedman (1962) đã đóng những chiếc đinh
cuối cùng trên quan tài chủ nghĩa Marx. Họ dùng phân tích kinh tế học chứng tỏ
rằng việc áp dụng chủ nghĩa cộng sản sẽ thất bại và nếu tiếp tục sẽ chỉ đưa tới
cảnh biến con người thành nô lệ.
Có
thể nói trước thập niên 1960 trí thức trên thế giới không còn nêu vấn đề ý thức
hệ nữa. Karl Popper đã chứng minh rằng tất cả các hiểu biết do khoa học đem lại
đều chỉ là những giả thuyết chưa bị thực nghiệm bác bỏ, trong cuốn Logik der
Forschung, Lô Gích của Khám phá Khoa học (1934) bản dịch tiếng Anh,
The Logic of Scientific Discovery
chỉ ra đời vào năm 1959. Nếu tất cả những kiến thức khoa học cũng chỉ là “giả tạm”
thì tất nhiên không thể có một “hệ thống kiến thức” nào có thể giải thích được
cả lịch sử và xã hội loài người.
Nếu
không có ý thức hệ nữa, thì con người sống ra sao và sống với nhau trong xã hội
cách nào? Muốn trả lời cho những câu hỏi đó, người ta phải dùng phương pháp
khoa học, áp dụng trong từng lãnh vực, kinh tế học, chính trị học, tâm lý và đạo
đức học, vân vân. Ý thức hệ chỉ là một ảo tưởng. Người ta đã lợi dụng ý thức hệ
để biến thành tôn giáo, bắt con người làm nô lệ.
Giới
trí thức Việt Nam ở miền Bắc không được phép biết những trào lưu tư tưởng mới
trên thế giới đã xuất hiện; nhưng cả các nhà trí thức miền Nam cũng không nhìn
thấy. Một phần bởi vì họ thường chỉ đọc sách báo tiếng Pháp, không tiếp cận với
sinh hoạt trí thức ở các nước nói tiếng Anh, tiếng Đức. Các giáo sư triết học ở
miền Nam đều được đào tạo trong các đại học Pháp, Bỉ, Thụy Sĩ, họ không biết tới
những điều mà giới trí thức Pháp không chú ý. Cho nên, theo lối suy nghĩ giống
như ở nước Pháp, nhiều người trong giới sinh viên và tuổi trẻ ở miền Nam vẫn tưởng
rằng trên thế giới lúc đó chỉ có ba trào lưu tư tưởng giành ảnh hưởng là Chủ nghĩa
Marx, Chủ nghĩa Hiện Sinh, và Chủ nghĩa Nhân Vị.
Tại Đàm Trường Viễn Kiến, Nguyễn Đức Quỳnh vẫn theo
đuổi “giấc mộng lớn,” như Nguyễn Mạnh Côn nhắc lại. Nhưng ông không chỉ nhắm
vào việc phê phán chủ nghĩa Marx. Ông thường nói tới dự án “Đệ Ngũ Quốc Tế.” Mới
nghe tên có thể hiểu lầm đó là một đề án tiếp nối và thay thế Đệ Tam và Đệ Tứ
Quốc Tế. Nhưng thật ra, ý tưởng Đệ Ngũ Quốc Tế của Nguyễn Đức Quỳnh là tìm một
tổng hợp các trào lưu tín ngưỡng và tư tưởng lớn trong nhân loại. Đó là con đường
mới, sau bốn “phong trào quốc tế” khác của Phật Thích Ca, Chúa Giê Su, Tiên tri
Mohammed, và Karl Marx. Tất nhiên, đề án lớn này chỉ gợi ý cho nhiều thế hệ, một
cá nhân hay một nhóm người không thể thực hiện được. Một điều ông thường nhấn mạnh,
là phải đi tìm con đường riêng cho dân tộc Việt Nam. Ông là người rất mê Truyện
Kiều, cuốn sách duy nhất của ông xuất bản trong thời kỳ này đặt tựa bằng câu“Đoạn trường ai có qua cầu
mới hay.” Khi ông qua đời, nhà văn Mặc Đỗ nói đã “mất một
người Việt Nam có gốc Việt chắc chắn.” Ông đã viết một cuốn “Nhân Minh Luận,”
và tiểu thuyết Mang Mang cả hai
hiện nay không biết đang ở đâu.
Cuối
cùng, chúng ta phải nhắc tới Nguyễn Đức
Quỳnh khi nói đến văn học ở miền Nam Việt Nam từ 1954 đến 1975, vì ông có ảnh
hưởng trên rất nhiều văn nghệ sĩ trong giai đoạn đó. Lớp người trẻ được ông
khích lệ, bị thu hút vì nhân cách và kiến thức rộng rãi của ông, những người
cùng tuổi cũng kính trọng ông. Cuốn sách Ai Có Qua Cầu của ông đáng được
phân tích để tìm hiểu tâm trạng của các người trí thức yêu nước ở miền Nam sau
khi nước Việt Nam bị chia đôi. Đó là một đề tài đáng viết trong tương lai.
No comments:
Post a Comment