S.T.T.D. Tưởng Năng
Tiến
Sun, 02/08/2015 - 20:07 —
tuongnangtien
Tự do cho
mỗi đời nô lệ
Sữa để em thơ, lụa tặng già
Tố Hữu
Sữa để em thơ, lụa tặng già
Tố Hữu
*
Có bữa, đang ngồi hớt tóc,
tôi chợt nhìn thấy vài đốm tóc trắng (li ti) chen lẫn với tóc đen
trên chiếc khăn choàng. “Cái ông thợ cúp này làm biếng, không thay khăn
mới, cũng không rũ sạch cái cũ nên nên mới còn sót lại tóc tai tùm
lum của người khách trước – một khứa lão (mắc dịch) nào đó,” tôi
nghĩ vậy.
Vài phút sau, tôi hốt hoảng
nhận ra rằng: những vụn tóc đen, lấm tấm cùng với tóc trắng xuất
hiện mỗi lúc một nhiều. Té ra, đó là tóc bạc của chính mình
chớ còn “khứa lão” (mắc dịch) nào vô đó nữa!
Chèn ơi, vậy mà tui cứ tưởng
là mình còn trẻ. Mái tóc của tôi, cách đây chưa lâu, chừng vài tuần
hay vài năm gì đó, vẫn còn xanh (xanh) mà. Chớ tụi nó bạc hồi nào
vậy, Trời? Sao kỳ cục vậy, mấy cha? Khi khổng, khi không cái tất cả
chúng ta đều già cái rụp, và già (ngang) hết như vậy sao?
Mà tuổi già thì như chuối
chín, càng chín nó càng mềm. Muốn cương cũng không được nữa, đành
phải yên phận chịu (già) thôi.
- Ủa, mà già thì đã sao
kìa? Làm gì mà nẫy giờ cứ chối đây đẩy, và cứ rẫy nẩy lên – như
đỉa phải vôi – vậy cha nội?
- Ý, đừng có tưởng chuyện
giỡn chơi à nha. Già thì lôi thôi lắm, lôi thôi lâu, và lôi thôi (luôn)
cho đến chết. Coi: tuổi già đâu có khi nào chịu tới mình ên. Nó đi
cặp kè với đủ thứ những chuyện (rất) bà rằn và lằng nhằng khác
nữa: bệnh tật, chán chường, cô đơn, thiếu hụt...
Đã vậy, cuối năm, ông bạn Huy
Phương kể chuyện (nghe) sao mà rầu muốn chết luôn:
“Trước
ngày Giáng Sinh tôi có dịp vào viếng thăm một người bạn sắp qua đời trong một
nursing home. Trên hành lang dẫn vào phòng người bạn, và ngay trước chỗ làm việc
của nhân viên ở đây, tôi thấy nhiều ông bà cụ ngồi trên những chiếc xe lăn,
nhìn những người qua lại. Các cô y tá đã sắp xếp cho các cụ ra ngồi trên hành
lang đối điện với văn phòng làm việc, một phần để trông chừng các cụ, một phần
cho các cụ đỡ buồn. Nhưng các cụ nhìn sự vật một cách dửng dưng, đôi mắt đờ đẫn,
có người đã gục đầu xuống ngủ...”
Thiệt là ớn chè đậu!
Tui biết chắc là ông Huy
Phương không đặt chuyện để hù em út nhưng, cùng lúc, tôi cũng biết rõ
rằng cái cảnh “tầng đầu địa ngục” – vừa được mô tả – không phổ biến
lắm ở Hoa Kỳ hay Gia Nã Đại. Cách phân chia chia tuổi già, và những
công trình nghiên cứu khoa học, ở hai quốc gia này, cho chúng ta những
con số tương đối khả tín và khả xác hơn – về vấn đề này.
Người ta chia ra tuổi già
làm ba loại:
·
Chớm già (young - old) là nhóm lớn nhất, chiếm 70 %.
·
Già (old-old) 20 %, kém hơn năng động hơn lớp trên thấy rõ.
·
Già quá cỡ thợ mộc (oldest-old) chừng 10 %. Trong số này chỉ có
4 % – chớ không phải là 20 %, như nhiều người vẫn nghĩ – đang
sống ở nursing home hay bệnh viện (Palmore et al. 2005 Encyclopedia of
ageism, Binghamton, NY: Haworth).
Như vậy, chính xác, chỉ có
4 % người già – thuộc nhóm cuối cùng – sống ở viện dưỡng lão thôi.
Đa phần còn lại đều có cuộc sống bình thường trong cộng đồng. Nhưng
khách quan mà nói thì sống ở đâu chăng nữa thì khi đời đã về chiều
cũng khó mà vui.
Xã hội, rõ ràng, chưa bao
giờ chuẩn bị chu đáo cho những công dân lão hạng để họ bước vào giai
đoạn (hụt hẫng) còn lại của kiếp người. Đến tuổi nghỉ hưu,
chúng ta bỗng dưng trở nên một người nào khác, không còn vai trò gì
rõ rệt nữa trên cuộc đời này. Và hoàn cảnh sống (rồi) cũng khác
luôn, thời giờ thì dư mà tiền thì thường thiếu. Đôi khi, lơ ngơ không
biết làm gì cho nó hết một ngày. Nói chi tới một tuần, một tháng,
hay cả một (hay hai) ... chục năm sắp tới!
Làm sao sống an vui và có
ý nghĩa, cho những năm tháng còn lại, là một câu hỏi khó – đối với
phần lớn những công dân lão hạng – ở những quốc gia phú túc. Những
định chế xã hội hiện hữu không có câu trả lời, và cũng không có
những chức năng hổ trợ, cho sự an lạc của tuổi già.
Đây là chuyện riêng
của từng cá nhân. Vị tha hay vị kỷ? Thủ cho nó chắc ăn hay xả láng,
sáng về sớm là tùy ý mỗi người. Không có tổ chức, cũng không có
cá nhân nào – kể cả vợ chồng con cái – có thể đóng góp gì nhiều,
cho bất cứ ai, vào giai đoạn cuối cùng của kiếp nhân sinh.
Ở nước ta thì khác. Câu
hỏi thiết thân của tuổi già không phải là sống ra sao mà làm sao để
sống? Vấn đề, xem chừng, có vẻ giản dị hơn nhưng vẫn là một câu hỏi
khó đối với rất nhiều người dân cao tuổi – ở Việt Nam.
Những định chế xã hội (cơ
quan, ban ngành, đoàn thể, hội hè ... thổ tả gì đó) thì có rất
nhiều và cũng rất thừa. Chúng hoàn toàn vô can, cũng như vô trách
nhiệm, với cuộc sống của những công dân lão hạng.
Đảng, Nhà Nước và Nhân Dân
là ba phạm trù luôn luôn đi liền, và gắn bó mật thiết với nhau, khi
có nhu cầu tuyên truyền hay đóng góp. Đâu cần nhân dân có, đâu khó có
nhân dân. Khó trăm lần, dân liệu cũng xong. Nhưng chuyện sống còn và an
sinh của mỗi công dân – vào lúc cuối đời – lại là chuyện thuần túy
có tính cá nhân. Đảng và Nhà Nước tuyệt đối không dính dáng gì
(ráo) vào chuyện đời của Nhân Dân khi trăm họ đến giai đoạn sức cùng,
lực kiệt.
Cách đây chưa lâu, báo chí
trong nước đồng loạt đăng tin (Cụ ông gần trăm
tuổi đạp xích lô) của phóng viên Văn Nguyễn:
“98 tuổi, cụ Đặng Huyền vẫn
được người dân quen gọi là cụ Huần, ngày ngày vẫn đạp xích lô chở khách kiếm sống.
Cụ thường bắt đầu một ngày làm việc từ khi trời còn mù sương.Trong hội thi diễu
hành xích lô ở Festival làng nghề truyền thống Huế 2007, cụ Huần được vinh danh
là người lái xích lô có tuổi nghề nhiều nhất tại Huế.”
“Con trai duy nhất bỏ quê vào Nam làm ăn, hơn 30 năm
nay mất liên lạc, giờ cuộc sống gia đình cụ chỉ biết nhờ vào đồng công đạp xích
lô và sự đùm bọc của làng xóm...Ngoài kiếm tiền nuôi bản thân, cụ Huần còn nuôi
cụ bà Trần Thị Lặc, 86 tuổi, thường xuyên đau ốm.”
Cụ Đặng Huyền.
Nguồn:vnexpress
Kiểu “vinh danh” của những vị tổ chức Festival
làng nghề truyền thống Huế 2007, xem ra, hơi lạ. Phản hồi của
độc giả Lê Thu Hiền, dưới bài báo thượng dẫn, cũng lạ lùng không
kém:
“ Cụ Huần thực sự là người đáng khâm phục vì sức khỏe,
sự bền bỉ và dẻo dai của mình. Cuộc sống thêm lần nữa được minh chứng rằng
không cần sự giàu sang phú quý, nghèo mà vẫn bền bỉ lao động vẫn tạo ra cuộc sống
có ý nghĩa, sức khỏe niềm tin và hạnh phúc cho riêng mình.”
Cụ Phạm Đờn, một công dân Việt Nam lão hạng
khác, lại ở vào một hoàn cảnh sống khác, kém “ý nghĩa” hơn. Bà
cụ, xem chừng, đã không có khả năng tạo được “niềm tin và hạnh phúc cho
riêng mình” – theo như tường thuật của ký giả Hải
Luận:
“Đêm mùa đông rét như cắt da cắt thịt, cụ Phạm Thị
Đờn, 76 tuổi, thôn Quảng Hội, xã Vạn Thắng, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa, cơ
thể chỉ như da bọc xương, thức dậy từ 1 giờ khuya, lọ mọ xuống ngâm mình dưới
biển mò cua bắt ốc kiếm gạo ăn qua ngày... Từ 1 giờ sáng đến gần 11
giờ trưa trong bụng không có hột cơm, ngâm mình trong giá rét... nhưng chỉ bán
được 17.000 đồng. Giá trị cả ngày lam lũ chỉ thu được 10.000-20.000 đồng, gặp
lúc sóng to gió lớn chỉ được 5.000-7.000 đồng.”
Cụ Phạm Đờn cũng không được đoàn thể, hay tổ
chức nào, “vinh danh” hết trơn hết trọi. Lý do, có lẽ, vì “mò cua
bắt ốc” không phải là loại hình lao động được coi là vinh quang – theo
tiêu chuẩn văn hoá của dân làng Ba Đình, Hà Nội.
Cụ Phạm Đờn.
Nguồn: Tuổi
Trẻ Online
Ông Nguyễn Văn Thành, còn có tên gọi là Lão
Thành – một người mù, đang bán vé số để làm kế sinh nhai – cũng rơi
vào trường hợp (không nằm trong tiêu chuẩn được vinh danh) tương tự.
Phóng viên Giang Uyên – báo Bưu
Điện Việt Nam – đã không quá lời khi dùng từ ngữ “quăng quật” để
mô tả cuộc sống vất vả (ngoài sức tưởng tượng) của người đàn ông
khuyết tật, xấu số này:
“... đến giờ tên tuổi của cụ cũng chỉ còn
là ký ức... mỗi ngày ông vẫn phải tự đi kiếm ăn qua tấm vé số và cuộc sống ‘tự
lập’ nơi đầu đường xó chợ... Dù đã già yếu lắm rồi nhưng ngày ngày lão Thành vẫn
phải lê bước đi khắp nơi để bán vé số tự nuôi thân. Có những hôm lão ốm nằm một
chỗ nhiều ngày liền. Bụng đói không chịu đựng nổi, lão lại lọ mọ dậy bước liêu
xiêu ra đường tìm đến đại lý vé số lấy vé đem bán."
Ông
Nguyễn Văn Thành. Nguồn: ictnews.
Tương tự như hai bài phóng sự viết về cuộc
đời của cụ Phạm Đờn và cụ Đặng Huần, bên dưới bài viết về ông
Thành cũng có những dòng chữ cuối – chỉ dẫn cách giúp đỡ đương sự
– như sau:
“Mọi sự hỗ trợ của cộng đồng, độc giả đối với trường
hợp ông Nguyễn Văn Thành có thể chuyển đến tận tay ông trước cửa Trung tâm tư vấn
pháp luật công đoàn, thuộc Liên đoàn lao động tỉnh Đồng Nai, địa chỉ số 14, Bùi
Văn Hòa, phường Hòa Bình - TP Biên Hòa.”
Không thấy ông nhà báo gì đến sự hổ trợ của
Đảng, Nhà Nước, hay những ban ngành hội hè vớ vẩn gì đó – của Mặt
Trận Tổ Quốc. Trong cả ba bài phóng sự thượng dẫn cũng đều có không
một chữ nào đề cập đến nguyên nhân, và trách nhiệm – của bất cứ ai
– về những mảnh đời te tua và bầm dập của những công dân lão hạng
kể trên. Cứ như thể họ là những người thuộc một quốc gia hay hành
tinh nào khác, chứ không phải là những công dân của nước Cộng Hoà Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Tôi chợt nghĩ: lỡ sáng mai bà Phạm Đờn hay
ông Nguyễn Văn Thành khi mở mắt ra và (bỗng) thấy mình đang sống trong
một cái nursing home ở California – giường êm nệm ấm, cơm bưng
nước rót, cam tươi sữa hộp cạnh bên, cả đống y tá bác sĩ lăng xăng
kế cận – mà không dưng muốn... rơi nước mắt! Hai vị dám tưởng là
mình đã lên tới thiên đường dù thực sự là họ vừa lạc vào tầng
đầu địa ngục, theo như cách nhìn của nhiều người đang sống ở
những quốc gia không có Độc Lập -Tự Do - Hạnh Phúc – như ở Việt Nam.
No comments:
Post a Comment