“Boys and Girls” của Alice
Munro
Trần Bình Nam phóng dịch
12:19:pm 20/02/15
“Con
trai, con gái” là chuyện ngắn phóng thuật từ chuyện ngắn “Boys and Girls”
của bà Alice Munro. Bà Munro, 82 tuổi, người Canada được giải Nobel văn chương
năm 2013 do toàn bộ công trình viết văn của bà gồm 14 tuyển tập chuyện ngắn. Bà
được xem là một nhà văn đương thời có biệt tài về chuyện ngắn. “Boys and Girls
” là một trong hằng trăm chuyện ngắn của bà. ** Trần Bình Nam **
---------------
Cha
tôi nuôi chồn. Những con chồn bạch kim nuôi trong những dãy chuồng gỗ. Đến mùa
thu hay đầu mùa đông khi lông chồn đủ dày cha tôi giết chồn lột da bán cho công
ty Hudson hoặc các thương gia buôn da chồn ở Montréal. Sau cánh cửa nhà bếp cha
tôi treo đầy lịch quảng cáo của công ty Hudson và của các thương vụ này. Vào tiết
thu đông bầu trời Canada xanh ngắt, xa xa bên kia bờ một con sông vắng bóng
thuyền là rừng thông phủ một màu đen ảm đạm.
Vài
tuần trước trước lễ Giáng sinh, sau bữa cơm chiều hôm nào cha tôi cũng làm việc
dưới “basement” điện thắp sáng choang. Có khi ông Henry Bailey, một người
giúp việc cùng làm với cha tôi. Em tôi, Laird và tôi thường ngồi nơi bậc cấp dẫn
xuống “basement” xem cha tôi làm việc. Cha tôi lột và lật da chồn trong ra
ngoài trông trắng hếu. Thân chồn còn lại nhỏ chỉ bằng một con chuột đồng không
còn vẻ dữ tợn như chồn còn sống được bỏ vào một bị lác sẽ được đem chôn.
Có một lần ông Henry mang bao chồn đi chôn, qua chỗ chúng tôi ngồi ông huơ huơ
cái bị thịt trước mặt tôi và nói đùa “quà sinh nhật của cô đây.” Mẹ tôi không
thích kiểu đùa đó. Mẹ tôi không thích cha tôi giết chồn trong nhà. Lột da
xong cha tôi trải da trên một tấm ván cẩn thận bào sạch mỡ và máu. Trong nhà phảng
phất mùi thịt. Mẹ tôi không thích mùi thịt tươi, nhưng với tôi là một mùi quen
thuộc hằng năm chẳng khác gì mùi cam mùa hè hay mùi lá thông mùa xuân.
Henry
Bailey bị bệnh suyễn. Đang làm việc nhiều khi ông ho mặt đỏ tía, nước mắt ứa ra
không ngăn được. Những lúc đó ông không ngần ngại khạc đờm vào lò sưởi đốt bằng
củi. Thỉnh thoảng thấy khuya cha tôi bảo chúng tôi đi ngủ. Mùa đông bên ngoài tối
om, gió thổi rào rạt, mái nhà đầy tuyết đông cứng phủ xuống như những ngón tay
phù thủy nhưng không làm chúng tôi sợ bằng căn phòng nơi chị em chúng tôi ngủ.
Phòng
ngủ của chúng tôi ở ngay trên basement và rất luộm thuộm. Một ống khói
hình vuông bằng gạch bên tường. Giữa phòng là đầu cầu thang đi xuống basement
nơi cha tôi làm việc. Đối diện bên kia là một cuộn linoleum to bự
dựng đứng, và những thứ không còn dùng nữa: một cái xe bằng mây, một cái rá đan
bằng thân dương xỉ khô, một cái ché Tàu và một tấm hình vẽ trận thảm bại
Bataclava trông rất buồn. Khi Laird lớn hơn một chút tôi giải thích gốc gác các
vật lỉnh kỉnh đó và dọa Laird rằng có lần một tù nhân vượt ngục đã leo qua cửa
sổ lẻn vào núp sau cuộn linoleum.
Chị
em tôi có một quy tắc an toàn. Vào giờ đi ngủ, khi còn đèn chúng tôi không ra
khỏi căn phòng. Và sau khi tắt đèn thì không ra khỏi chiếc giường ngủ.
Trong bóng tối chúng tôi hát để bớt sợ. Laird luôn luôn hát “Jingle Bells” dù
vào mùa Giáng sinh hay không. Tôi hát “Danny Boys.” Nghe giọng mình hát vang
trong bóng tối tôi yên tâm.
Hát
một lúc, Laird ngủ say. Và bây giờ là thế giới của riêng tôi . Cuộn chặt mình
dưới tấm chăn tôi tự thuật lại câu chuyện đêm nào tôi cũng lượt qua như một cuốn
phim. Tôi tưởng tượng lớn lên, người chung quanh nhận ra sự hiện diện của tôi,
một cô gái can đảm, bạo dạn và biết hy sinh cho người khác. Tôi cứu người bị
bom chôn trong đống gạch. Tôi bắn chết hai con chó sói đến rình sau lưng trường
trong khi cô giáo sợ đứng núp sau lưng. Tôi tưởng tượng cỡi ngựa chạy khắp xóm
để mọi người có dịp cám ơn hành động anh hùng của tôi. Cỡi ngựa và bắn súng là
đề tài quen thuộc trong câu chuyện của tôi mặc dù trên thực tế tôi chỉ leo lên
lưng ngựa hai lần. Một lần quên lót yên đít còn đau, và một lần leo lên chưa kịp
thúc, ngựa đã quật tôi xuống tuyết. Bắn súng thì tôi có tập nhưng chẳng bao giờ
bắn trúng mấy cái lon treo trên hàng rào với tay cũng tới!
Trại
chồn của cha tôi gồm nhiều dãy chuồng do tự tay ông đóng chạy dọc theo lối vào
cách nhau bởi những đường cỏ, nhìn vào như một cái thành thời trung cổ. Bước
qua cái cổng ban đêm đóng chặt, đi qua lối cỏ hai bên là những chiếc chuồng
hình hộp dài, mỗi chuồng dành cho một chú chồn. Ở đầu mỗi chuồng có ổ sinh đẻ
và chỗ ngủ ban đêm. Ban ngày chồn có thể chạy tới chạy lui trong chuồng. Dọc
theo chiều dài của chuồng có một sợi dây thép cha tôi treo dĩa để thức ăn và nước
uống, có chỗ luồn tay vào để rửa và thay thức ăn mới.
Vật
liệu làm chuồng hầu hết do cha tôi dùng bất cứ gì ông có được. Hộp thiết cũ cắt
ra để làm dĩa thức ăn, gỗ lót chuồng là bất cứ loại ván nào trong nhà
không dùng cha tôi cưa cắt ra. Cha tôi làm như Robinson Crusoe ở hoang đảo! Mùa
hè tôi giúp cha tôi châm nước uống cho chồn mỗi ngày hai lần, sáng và chiều .
Cha
tôi đặt cho mỗi chú chồn một cái tên và viết tên trên một tấm thiếc gắn nơi cửa
chuồng. Sinh ra chồn con phải chờ một năm, sau khi đủ lớn để có thể lột da hay
sinh đẻ mới được đặt tên. Cha tôi đặt tên Prince, Bob, Wally và Betty. Tôi đặt
tên Star, Turk, Maureen hay Diana. Laird đặt tên có xuất xứ: Maude là tên
một cô bé gái từng giúp việc trong nhà, Harold, tên một bạn trai ở trường. Và
có một chú được đặt tên Mexico thì Laird không giải thích tại sao.
Đặt
tên cho các chú chồn không có nghĩa chúng tôi được chơi với chúng . Chỉ có cha
tôi mới được thò tay vào chuồng riêng của chồn khi cần, và cha tôi đã bị chồn cắn
máu nhiễm độc mấy lần. Khi tôi đứng ngoài chuồng đổ nước uống cho chúng, chúng
chạy tới chạy lui vừa rình rập vừa đề phòng, đôi mắt vàng rực chòng chọc nhìn
như muốn cắn. Ban đêm thỉnh thoảng chúng cùng hú lên như có hẹn.
Ngoài
khuôn mặt và đôi mắt ít thiện cảm, thân chồn có bộ lông mềm mại di chuyển nhẹ
nhàng uyển chuyển, cái đuôi ngoe nguẩy một cách quý phái.
Mùa
hè tôi giúp cha tôi cắt cỏ trên những luống đường trong trại chồn. Cha tôi cắt
cỏ bằng một chiếc liềm lớn cán dài, cào lại thành đống rồi phủ lên chuồng cho
mát để cho lông chồn không biến thành màu nâu vì nắng. Cha tôi ít nói chuyện
này chuyện khác với tôi ngoại trừ những gì liên quan đến công việc đang làm. Mẹ
tôi thì khác, khi vui bà nói với tôi trăm thứ chuyện. Nào chuyện về tên con chó
bà nuôi hồi nhỏ, tên của những người bạn trai thời thơ ấu, chuyện màu sắc những
chiếc áo đã dùng. Tôi không dám hỏi cha tôi ông nghĩ gì về thời trai trẻ như
chuyện của mẹ, nhưng tôi rất tự hào làm việc dưới sự chỉ dẫn của ông.
Một
hôm cha tôi giới thiệu tôi với người mang thực phẩm tới giao hàng:
“Người giúp việc
không thể thiếu của tôi kìa” làm tôi vừa tự hào vừa sung sướng. Nguời giao
hàng nói với cha tôi:
“Cô ta chỉ là một cô
gái nhỏ thôi mà!”
Cỏ
cắt xong, trời bắt đầu vào Thu. Chiều chiều bước qua những lối cỏ đã cắt ngắn để
châm nước cho chồn tôi có thể thấy những ráng mây đỏ nơi chân trời. Và sau khi
tôi đẩy thùng nước ra khỏi cổng mang bỏ vào kho vật liệu thì trời vừa tối. Một
buổi tối tôi thấy cha và mẹ tôi đứng trước cửa kho vật liệu thì thầm nói chuyện
với nhau, thỉnh thoảng liếc mắt nhìn tôi. Cha tôi vừa ở tiệm bán thịt về, áo
choàng còn dính máu, trên tay cầm mấy cân thịt.
Tôi
ngạc nhiên vì mẹ tôi thường làm việc trong nhà bếp, ít ra ngoài trừ khi
đi phơi áo quần hay đào khoai tây. Mẹ tôi chân trần nổi lên từng cục u vì
ít ra mặt trời, áo choàng rửa bát chén dính nước còn choàng trước ngực. Bà cột
tóc bằng một chiếc khăn. Mẹ tôi nói bà không có thì giờ trang điểm, cột vậy cho
tiện.
Mùa
lạnh sắp tới, trong nhà đầy những rổ đào, bưởi và lê mua ở chợ về, những rá
hành, cà chua và dưa leo lấy trong vườn chờ làm mứt và dưa chua. Mẹ tôi làm việc
suốt ngày bên lò lửa trong nhà bếp. Bà giao tôi việc gọt đào, nhúng vào nước
sôi, và thái hành. Mắt tôi cay xè. Thái xong, tôi chạy nhanh ra ngoài hy vọng mẹ
không kịp sai làm việc khác. Tôi không thích ngồi làm việc trong nhà bếp vừa
nóng vừa tù túng. Tôi thích giúp việc cha tôi hơn. Vào mùa này mẹ tôi bận không
có thì giờ nói chuyện nhiều với tôi ngay cả những chuyện mẹ tôi rất thích như
chuyện bà nhảy dạ vũ vào đêm mãn khóa tại trường Sư Phạm hơn một chục năm về
trước.
Từ
nhà kho tôi nghe mẹ nói với cha tôi: “Chờ thằng Laird lớn chút nữa để giúp
ông.” Tôi không nghe cha tôi trả lời, nhưng hình như cha tôi đồng ý.
Tôi
tự hỏi tại sao mẹ nhắc đến Laird. Nó còn nhỏ chưa làm được việc gì cả. Suốt
ngày chơi, hết xích đu, thì đi bơi, hết bơi thì đi bắt châu chấu. Nó chỉ đến gần
tôi khi tôi hết việc làm rảnh để có thể chơi với nó .
“Khi đó tôi có thể nhờ
nó nhiều việc ở trong nhà,” và bà nói tiếp, “Ỷ
phải giúp ông, nhờ làm gì trong nhà bếp hễ tôi quay lưng là nó biến mất, như thể
nó không phải là con gái trong nhà.”
Tôi
ngồi một góc trong nhà kho, không muốn nghe những gì mẹ tôi nói. Mẹ tôi dễ tính
hơn cha tôi và ai nói gì cũng nghe, nhưng tôi không hiểu mẹ tôi nói vậy là ý
gì. Mẹ tôi thương tôi lắm. Bà có thể thức suốt đêm may chiếc áo theo kiểu tôi
thích để dùng trong ngày khai giảng sắp tới, nhưng bà cũng có những nhận xét bất
lợi cho tôi. Mẹ tôi muốn thuyết phục cha tôi để tôi giúp việc trong nhà mặc dù
mẹ tôi biết tôi không thích việc bếp núc. Tôi nghĩ mẹ tôi làm vậy để tỏ với cha
tôi bà cũng có quyền hành trong nhà. Tôi không nghĩ mẹ tôi cô đơn vì có con gái
mà không làm việc với bà. Ngồi im tôi đá nhẹ và đều đều vào bao thực phẩm dành
cho chồn trước mắt cho đỡ chán chờ mẹ tôi đi vào nhà bếp.
Tôi
không nghĩ cha tôi quan tâm nhiều đến ý kiến của mẹ tôi. Laird còn nhỏ và ham
chơi không làm gì được. Ai tin Laird có thể kéo thùng nước từ trại chồn vào nhà
kho mà không té. Ai tưởng tượng được Laird có đủ kiên nhẫn lau chùi các dĩa đựng
thức ăn của chồn? Mẹ tôi hoàn toàn không biết gì ngoài cái nhà bếp của bà.
Tôi
chưa nói chuyện chồn ăn gì. Nhìn cái áo choàng dính máu của cha tôi mới nhớ.
Chúng ăn thịt ngựa tươi. Vào thời gian đó nông dân còn nuôi ngựa . Khi có một
con ngựa già hay bị thương không làm việc được nữa, họ gọi cha tôi. Cha tôi và
Henry lái xe đến bắn chết xẻ thịt mang về với giá từ 5 đến 12 đồng một
con. Nếu ở nhà còn thịt thì cha tôi dùng xe truck chở ngựa về nhốt vào
chuồng năm ba ngày hay một tuần khi nào cần thịt thì giết .
Mùa
Đông năm tôi 11 tuổi, trong chuồng ngựa nhà tôi có hai con ngựa. Tôi đặt tên
Mack và Flora. Mack là ngựa cỡi, hiền lành, lông đen tuyền. Flora là một con ngựa
cái kéo xe màu nâu và khó tính. Một buổi sáng thức dậy tôi nghe mẹ tôi nói chuyện
với cha trước cửa nhà kho, vẫn với nội dung xa gần liên quan đến tôi. Tôi cảm
thấy khó chịu khi nhận ra rằng những người chung quanh tôi, ngay cả cha mẹ có
những ý nghĩ phân biệt con trai và con gái. Danh từ “con gái” từ nhỏ đối với
tôi là một danh từ vô can như một người, một đứa bé thì ra không phải như vậy.
Con gái lớn lên khác con trai. Và khi cha hay mẹ tôi nhắc đến tôi ông bà tiếc
tôi là con gái, đôi khi có chút châm biếm làm tôi rất buồn . Một hôm tôi và
Laird đánh lộn nhau. Tôi thường áp đảo nó, nhưng lần này tôi ráng hết sức mới
hơn nó. Có lúc nó bẻ quặt tay tôi tưởng chừng không gỡ ra được. Henry cười và
nói : “Cô phải coi chừng, không bắt nạt Laird được mãi đâu. Nó lớn rồi.” Tôi thầm
nghĩ “Nó lớn thì tôi cũng lớn chứ bộ !”
Bà
nội tôi đến thăm ở lại mấy hôm. Tôi nghe loáng thoáng những nhận xét như
“con gái mà đóng cửa ầm ầm!” hay “con gái sao ngồi không để hai đầu gối
sát vào nhau.” Nhưng khó chịu nhất là nhiều khi tôi hỏi cái gì đó, người lớn trả
lời tỉnh bơ, “đó không phải chuyện của con gái.” Phản ứng bất mãn của tôi là cứ
đóng cửa mạnh, cứ ngồi theo cách nào tôi muốn, cứ hỏi những câu hỏi tôi muốn hỏi
để chứng tỏ tôi là một người tự do.
Mùa
Xuân đến, tuyết tan dần. Hằng ngày cha tôi cho ngựa ra sân chuồng có hàng rào
bao quanh. Mack thường cọ cổ nơi hàng rào cho đã ngứa, trong khi Flora đi quanh
sân hiên ngang như nhớ lại những ngày kéo xe chạy tung tăng trên đường phố.
Một
sáng Thứ Bảy, tôi thấy cửa chuồng ngựa mở toang, ánh sáng ban mai và không khí
mát rượi chan hòa trong chuồng ngựa. Henry đang lật xem các tấm lịch ông để
dành mỗi năm một tấm trên một kệ gỗ khuất trong chuồng ngựa. Thấy Laird bước
vào chuồng, Henry bụm một nắm thóc đổ vào hai bàn tay của Laird và nói: “đem thóc đến cho Mack ăn.”
Mack
chậm rãi nhai, hàm răng đã hư day qua day lại để tìm vị trí nghiến thóc. Henry
nói, “Tội nghiệp Mack. Răng hư là hết.”
Tôi hỏi, “Hôm nay ông giết Mack hả ?”
Henry
không trả lời. Ông hát một điệu hát buồn. Mack đang liếm mấy hạt thóc cuối cùng
trên đôi bàn tay của Laird.
Tôi
chưa thấy bắn ngựa như thế nào, nhưng do một tình cờ tôi biết cha tôi và Henry
bắn ngựa ở đâu. Một hôm đi chơi với Laird nơi cánh đồng gần nhà không xa chuồng
ngựa bao nhiêu tôi thấy một đống ruột ngựa chưa chôn. Đống ruột đen như một con
trăn cuộn mình ngủ say giữa mùa Đông. Tôi nghĩ nếu núp trong nhà kho chứa rơm
nhìn qua khe hở tôi có thể thấy cha tôi và Henry làm gì. Tôi không thích việc
giết chóc, nhưng tò mò nghĩ nếu đó là việc thường xẩy ra quanh mình, sao không
xem cho biết!
Cha
tôi mang súng bước khỏi nhà . Thấy tôi ông hỏi:
“Con làm gì quanh quẩn
ở đây?”
Tôi
trả lời: “Dạ không làm gì cả”
“Vào nhà mà chơi.” Ông bảo
Ông
ta vào chuồng ngựa, bảo Laird ra ngoài .
Thấy
Laird ra tôi nói, “mày có muốn xem cha và Henry bắn ngựa không? Không chờ
Laird trả lời, tôi kéo nó đi lẻn vào nhà kho để rơm. Tôi dặn Laird: “Đừng
gây tiếng động, nếu không cha biết chị em mình lẻn vào đây.”
Từ
nhà kho tôi nghe cha tôi nói chuyện với Henry, rồi tiếng bước chân chậm chạp của
Mack ra khỏi chuồng .
Nền
nhà kho đầy rơm và lạnh. Những tia sáng vàng rực len vào nhà kho qua các khe hở
gần mái kho. Một thanh gỗ lớn gối trên nhiều cột gỗ chạy quanh kho ở độ cao chừng
hơn một thước. Tôi dồn rơm lại đủ cao leo lên thanh gỗ rồi kéo Laird lên theo.
Tôi bò theo thanh gỗ cho đến lúc tìm được kẽ hở có thể quan sát bên ngoài. Tôi
thấy được một góc kho rơm, cánh cổng mở ra đồng và một phần cánh đồng. Loay
hoay mãi Laird chưa tìm ra khe hở nào càu nhàu. Tôi chỉ chỗ hở cho Laird và dặn
đừng làm ồn. Cha nghe tiếng là hỏng hết!
Tôi
thấy cha tôi mang súng đi trước trên một lối nhỏ cạnh một bờ rào. Henry cầm
dây dẫn Mack theo sau. Bỏ dây ra, Henry vấn thuốc lá cho cha tôi và ông ta mỗi
người một điếu.
Được
tự do, Mack gặm những ngọn cỏ ươn ướt còn sót lại bên bờ rào. Cha tôi mở cửa
cánh đồng bước vào. Henry dẫn Mack đến giữa cánh đồng nơi khoảng đất trống. Hai
người nói nhau những gì tôi không nghe rõ. Mack tìm cỏ ăn, nhưng ở chỗ trống trải
đó không còn gì cả. Cha tôi bước xa ra một khoảng cách vừa tầm súng.
Henry nới dần dây và đi xa Mack, tay vẫn giữ dây. Cha tôi nâng tầm súng.
Mack ngẫng đầu chờ đợi. Cha tôi nổ súng.
Mack
không khuỵa xuống ngay. Lằn đạn mạnh làm xoay mình nó, trước khi nó ngã ngang
xuống bên sườn, bốn chân còn động đậy chới với giữa khoảng không. Tôi nghe
Henry cười như ý nói, “chết rồi còn dọa sao?” Khi cha tôi nổ súng, Laird ngạc
nhiên kêu thành tiếng: “Mack chưa chết! Mack chưa chết!” Nhưng chân Mack ngưng
cử động, các bắp thịt giật giật rồi bất động.
Cha
tôi và Henry đến gần quan sát xem Mack chết thật chưa. Hai người cúi nhìn vết đạn
vào đầu và tôi thấy máu của Mack chảy ra trên nền đất .
“Thôi đi về. Bây giờ
chỉ còn việc lột da và xẻ thịt” Vừa nói tôi vừa nhảy xuống đống rơm dưới
chân, và bằng giọng bà chị tôi nói với Laird: “Mày đã thấy bắn một con ngựa như thế nào rồi đấy nhé” như thể tôi
đã thấy nhiều lần. Không trả lời, Laird im lặng nhảy xuống. Thái độ ngoan ngoãn
của Laird làm tôi nhớ lại hồi hắn còn nhỏ có một lần tôi dẫn nó vào kho
rơm bắt thang bảo nó leo lên thanh gỗ làm dàn nhà kho cao nhất. Và khi không
giúp nó trụt xuống được tôi hoảng hốt đi tìm cha tôi nói, “thằng Laird leo
thang lên gác thượng nhà kho.” Cha tôi bình tĩnh vào nhà kho bảo nó đừng
nhúc nhích và ông leo lên bậc thang ẵm nó xuống. Mẹ tôi sợ đứng tựa mình
nơi chiếc thang chỉ chực khóc. Cha tôi mắng tôi sao không coi em để nó leo như
vậy. Tôi không biết nên cười hay khóc. Laird thì còn quá nhỏ để kể lại sự thật
với cha mẹ tôi.
Tôi
nhìn Laird da mặt hơi tái. Nó có vẻ suy nghĩ. Tôi nói “mày không mét với cha chị em mình đã lén xem bắn ngựa chứ ?”
Laird
trả lời “Không” như không có gì quan
trọng cả.
“Mầy hứa chứ?”Tôi nói
“Ừ thì hứa “ Laird trả lời
Để
làm dịu cơn xúc động của Laird tôi lấy tiền để dành chiều hôm đó rủ Laird đi xem
tuồng do Judy và Canova diễn và cả hai chị em cười thoải mái.
Hai
tuần sau tôi biết Flora sắp bị giết thịt. Đêm trước tôi nghe mẹ tôi hỏi
cha tôi khi nào thì đem rơm lót chuồng ngựa ra phơi được. Cha tôi nói “Ngày mốt thì chỉ còn một con bò trong chuồng,
và mình có thể thả cho nó ăn cỏ ngoài trời một tuần”
Tôi
không có ý định lén xem bắn Flora. Tôi không suy nghĩ nhiều sau khi thấy Mack bị
giết. Nhưng đôi khi ở trường học, hay đứng trước gương chải tóc chuẩn bị đi học,
suy nghĩ vẩn vơ, hình ảnh Mack ngã xuống bỗng hiện ra. Tôi thấy cha tôi bắn vào
đầu Mack một cách dễ dàng quá, và tiếng cười vô tâm của Henry khi thấy Mack giật
gân chân trước khi chết. Tôi không thấy sợ hay thắc mắc cha tôi sao giết súc vật.
Ở đồng quê hằng ngày tôi thấy súc vật bị giết chết và đối với gia đình tôi đó
là một cách sinh sống. Nhưng tôi không ngăn được một cảm nghĩ bất an và tự
hỏi cha mình có thể chọn cách khác để sinh sống và nuôi nấng chị em mình không
.
Hôm
đó trời tốt, tôi và Laird được giao việc lượm cành gãy trong vườn vừa bị một
gió mạnh mùa đông làm gãy, và tôi có ý dùng các cành cây gãy xếp một cái lều
hình nón như lều của người mọi da đỏ để chơi. Tôi bỗng nghe tiếng hí của Flora,
rồi tiếng nói lớn của cha tôi và Henry. Tò mò, tôi và Laird cùng chạy băng qua
vườn vào sân chuồng ngựa.
Cửa
chuồng mở. Henry cầm dây dẫn Flora ra thì Flora tung dây chạy dọc theo chiều
dài sân chuồng từ đầu này đến đầu kia về phía hai chị em tôi. Chúng tôi leo qua
hàng rào ra ngoài để tránh Flora vừa chạy vừa hí, chân sải dài trông đẹp mắt giống
như trong phim cao bồi. Cha tôi và Henry chạy theo sau cố chụp sợi dây Flora
kéo lòng thòng theo sau .
Chạy
đến cuối sân Flora quay lại lách mình chạy giữa cha tôi và Henry đôi mắt giận dữ
rồi nhảy băng qua rào ra ngoài đồng. Cánh đồng của gia đình tôi còn một chiếc cổng
nữa dẫn vào xóm. Cổng đó thường đóng nhưng sáng nay Henry mở mang xe
truck ra chưa kịp đóng. Nếu Flora vượt qua cổng đó nó sẽ tự do như ngựa hoang.
Henry kêu lên: Flora ra đồng rồi! Thấy tôi ở ngoài rào cha tôi bảo : “Con chạy
lại đóng chiếc cổng nhanh lên!”
Tôi
chạy như bay đến chiếc cổng còn mở, thấy Flora đang phi nước đại chạy tới. Tôi
nâng chiếc cửa bằng gỗ khá nặng định khép lại. Cửa khép nửa chừng Flora chạy đến
gần hơn tôi thấy đôi mắt Flora trừng trừng nhìn tôi. Tôi có thể đóng cổng kịp
không cho Flora chạy ra ngoài, nhưng không biết nghĩ sao thay vì đóng tôi mở rộng
cổng ra. Flora chạy vụt qua cổng. Tôi nghe Laird kêu ơi ới, “đóng cổng lại,
đóng cổng lại!”mặc dù Laird biết trễ rồi.
Cha
tôi và Henry không thấy tôi đã làm gì. Khi cả hai chạy ra đến cổng thì Flora đã
chạy ra ngoài xóm và nghĩ là tôi không đóng cổng kịp.
Không
để mất thì giờ, cha tôi và Henry lấy súng và dao nhảy lên xe rồ máy chạy đi.
Laird chạy theo kêu lên “Cho con đi với” . Cha tôi ngừng xe kéo Laird lên rồi
lái xe chạy vào xóm. Tôi đóng cổng rồi vào nhà .
Tôi
nghĩ thế nào Laird cũng kể chuyện cho cha tôi biết và không biết cái gì sẽ
xảy đến cho tôi. Từ trước đến nay tôi chưa hề làm trái lời cha tôi. Tôi không
biết tại sao lần này tôi làm như vậy. Tôi đủ thông minh để biết chạy ra ngoài
xóm Flora cũng không thoát. Ngoài xóm không phải là rừng hoang. Trước sau cha
tôi cũng bắt được và giết thịt cho chồn ăn để nuôi sống chúng tôi .
Những
gì tôi đã làm không thay đổi gì cả ngoại trừ thêm việc cho cha tôi vốn đã quá bận
rộn. Và cha tôi sẽ không tin cậy vào tôi nữa. Nhưng tự hỏi mình có hối hận đã mở
rộng chiếc cổng cho Flora chạy thoát không, tôi không thấy hối hận. Trong
thoáng chốc tôi đã làm một việc hợp với bản năng.
Vào
nhà, mẹ tôi hỏi, cái gì mà ngoài đó ầm ĩ vậy. Tôi nói Flora phá cổng chạy thoát
ra ngoài xóm. Mẹ tôi nói “Tội nghiệp cha con, lại phải mất công đi lùng bắt nó.
Hôm nay chắc cả nhà ăn cơm trễ”. Tôi định nói cho mẹ tôi biết tại sao Flora chạy
thoát được ra ngoài, nhưng nghĩ sao tôi thôi, tôi lên phòng ngồi trên giường ngủ
, nhớ lại từng chi tiết của hôm nay chờ cha về mẹ tôi kêu xuống ăn cơm .
**
Laird
trở nên nghiêm chỉnh hơn không như thằng bé chỉ biết ham chơi. Tôi thì biết
chăm sóc chiếc giường ngủ của tôi hơn. Tôi trải thêm một tấm vải bông lên trên
và kê thêm một bàn chải tóc nhỏ và như một bản năng tôi cách dần phần chỗ tôi
ngủ với Laird. Đêm đến chúng tôi không cùng hát nữa. Một hôm nghe tôi hát,
Laird bảo: “Giọng hát của chị nghe như giọng người lớn không thấy hay nữa.”
Tôi vẫn tiếp tục hát hết bài, nhưng hôm sau tôi không hát nữa. Thật ra chúng
tôi cũng không cần hát vì không còn sợ bóng đêm.
Và
sau khi Laird ngủ say tôi vẫn còn thức nằm tưởng tượng những câu chuyện trong đầu
như cũ. Tôi tưởng tượng tôi cứu chó hay mèo khi cháy nhà. Có khi bạn trai cùng
lớp hay thầy Campbell cứu tôi. Tôi tưởng tượng mái tóc tôi dài, chải chuốt, mặc
áo nhiều màu sắc cái hôm thầy Campbell kéo tôi ra khỏi một ngôi nhà đang sụp .
Tôi hồi hộp … và luồng tưởng tượng bỗng nhiên biến mất .
**
Hôm
đó hơn một giờ chiều cha tôi và Henry mới lái xe truck trở về. Một tấm vải lớn
che kín phần chở hàng phía sau. Nhìn biết là che đống thịt ngựa. Mẹ tôi
hâm nóng thức ăn đã làm sẵn và kêu mọi người vào bàn ăn. Cha tôi và Henry đã
thay bộ đồ dính máu bằng bộ đồ làm việc đang rửa mặt và chải tóc. Laird đưa
cánh tay áo còn dính máu khoe với mẹ “Ba
đã bắn chết Flora và con giúp Ba và ông Henry xẻ ra làm 50 miếng thịt.”
Mẹ tôi nói “Thôi đừng nói chuyện đó nữa.
Con thay áo quần rửa ráy để ăn cơm.”
Cả
nhà ngồi vào bàn chuyền tay nhau dĩa xà lách mới hâm còn nóng. Laird ngồi đối
diện với tôi và nói tỉnh bơ: “Hôm nay
Flora sổng chuồng là lỗi của chị Jane.”
Cha
tôi hỏi “Con nói cái gì?”
Laird
trả lời: “Jane có thể đóng cổng khi cha bảo
thì chị lại kéo rộng cổng ra cho Flora chạy ra ngoài”
“Đúng vậy sao?” Cha tôi ngạc nhiên hỏi
“Đúng vậy sao?” Cha tôi ngạc nhiên hỏi
Cả
mấy cặp mắt nhìn vào tôi chờ câu trả lời. Tôi im lặng gật đầu, cố nuốt trôi miếng
bánh mì còn trong miệng, nước mắt trào ra. Tôi bỏ chiếc nỉa đang cầm trên tay
xuống chờ cha tôi đuổi ra khỏi bàn ăn .
Nhưng
không. Không ai nói gì cả. Chỉ có Laird nói “Jane khóc kìa!”
Cha
tôi nói, “Thôi bỏ qua chuyện đó
đi!”. Ngừng một chút cha tôi nói như vừa để tha thứ tôi vừa xác định nguyên
nhân: “Dù sao hắn chỉ là một đứa con
gái!”
Trong
thâm tâm tôi không phản đối nhận xét của cha. Biết đâu đúng là vậy./.
No comments:
Post a Comment