February
5, 2015 6:57 AM
Một
ngày hè như thế này 29 năm trước, người anh cùng sở làm và cũng cùng quê Đà Nẵng
ghé qua hỏi tôi có thích đi Côn Đảo một chuyến với anh. Không giống như khi được
các anh chị khác rủ đi thăm miền bắc trong những lần họ nghỉ phép về thăm nhà
mà tôi đã từ chối trước đây, Côn Đảo có một hấp lực mạnh khiến tôi gật đầu
không chút gì ngần ngại.
Chiếc
ghe vượt biên anh đóng sắp hoàn tất và đã hứa dành cho tôi một chỗ. Nghĩ đến việc
ra đi không hẹn ngày trở lại, thăm Côn Đảo là dịp hiếm hoi không thể bỏ qua.
Côn Đảo là đất lịch sử của cách mạng Việt Nam, điểm hẹn của những tâm hồn yêu
nước và cũng là nơi nhà cách mạng Phan Chu Trinh từng tả “Bốn mặt dày vò oai
sóng gió / Một mình che chở tội non sông” trong bài thơ “Đập đá Côn Lôn” nổi tiếng
của ông. Người anh cùng sở làm lo hết các phương tiện cần thiết, và như thế
chúng tôi đi. Anh có vài việc phải đi, còn tôi chỉ đi theo cho biết chứ không
làm gì cả.
Khi
anh làm xong việc, thời gian còn lại anh em chúng tôi đi vài nơi trên đảo. Côn
Đảo ngày chúng tôi đến còn rất hoang vắng. Những khu tù chính trị đã giải tán từ
lâu. Tù chính trị mới không bị đưa ra đây mà vào Chí Hòa, Phan Đăng Lưu hay các
trại tù miền Bắc. Các khu trại giam Côn Đảo đã trở thành một viện bảo tàng
nhưng ít có người thăm. Bên cạnh những xà lim nơi các đảng viên Cộng sản cấp
trung ương từng bị giam giữ, Côn Đảo còn có những khu nổi tiếng vì được báo chí
phản chiến Mỹ và Việt khai thác tận tình như chuồng cọp, chuồng bò. Khu chuồng
cọp được xây từ thời thực dân, cũ kỹ, kích thước rộng bằng những lớp học nối tiếp
nhau. Đặc điểm của khu chuồng cọp là phòng giam không có mái che mà chỉ có những
bờ tường dày và thanh sắt lớn. Chị coi sóc ở đây, vốn là một tù nhân Côn Đảo,
cho biết trên bờ tường dựng sẵn nhiều thùng vôi bột, nếu tù nhân la ó, phản đối,
trật tự tù sẽ đổ vôi xuống.
Trên
đường ra về chúng tôi đi theo chị coi sóc nhà tù đến nghĩa địa Hàng Dương. Nắng
đã dịu nhiều. Mặt trời đang xuống dần bên kia đỉnh núi. Được gọi là Hàng Dương
có lẽ vì chung quanh nghĩa địa có rất nhiều dương liễu. Nghĩa địa có nhiều khu.
Mỗi khu có vài trăm ngôi mộ. Chị trịnh trọng giới thiệu một ngôi mộ mà chị gọi
là rất linh thiêng: mộ chị Võ Thị Sáu.
Tôi
không biết gì nhiều về chị Sáu ngoài bản nhạc bắt đầu với “Mùa lêkima nở, ở quê
tôi miền đất đỏ” và đọc đâu đó chuyện chị bị xử bắn khi còn trong tuổi vị thành
niên. Tấm bia trên mộ chị Sáu hướng về phía biển và nỗi bật lên vì ngày đó đã
được xây cao hơn các ngôi mộ khác. Phía sau mộ chị Sáu có một cây dương liễu cụt
ngọn, cằn cỗi, trên tàn cây có những chồi xanh nhú lên. Việc một cây bị chặt ngọn
nên sinh ra những nhánh non là chuyện bình thường nhưng qua lời giải thích của
chị hướng dẫn thì đó là một điều kỳ diệu, một dấu chứng linh thiêng, điềm báo của
một cái cũ tàn đi nhưng những cái mới ra đời. Ngay cả một cây dương liễu cũng
được giải thích bằng lý luận và niềm tin Cộng Sản.
Anh
tôi không thích cảnh nghĩa trang buồn tẻ nên đã đi dạo nơi khác. Cả chị hướng dẫn
cũng đi ra ngoài. Tôi ngồi một mình nhìn mấy trăm ngôi mộ, có tên và không tên,
được đắp và không được đắp, cao thấp không đều. Bên cạnh một số mộ có bia, tên
tuổi và vừa được chỉnh trang, hẳn là của các đảng viên Cộng sản cao cấp, rất
nhiều ngôi mộ không có ngay cả tấm thẻ gỗ ghi tên, cỏ mọc đầy sau nhiều năm
chưa được một lần chăm sóc. Phần lớn các ngôi mộ trong nghĩa địa Hàng Dương là
dấu tích tàn ác của thực dân Pháp. Thời Việt Nam Cộng hòa, chuyện ở tù Côn Đảo
cho đến chết là chuyện hiếm hoi. Hầu hết tù chính trị chỉ ở một thời gian ngắn
trước khi được đưa ra Thạch Hản, Thiện Ngôn, Lộc Ninh, Bồng Sơn để trao trả về
phía bên kia như đã ghi lại một cách chi tiết trong tác phẩm ký sự Tù binh và
hòa bình của nhà văn Phan Nhật Nam.
Hôm
qua, khi bắt đầu viết bài này tôi vào Google tìm mộ chị Võ Thị Sáu. Cây dương
liễu đã chết và được thay vào đó bằng cây phượng đỏ. Ngôi mộ của chị cũng được
xây bằng đá đen, cao hơn ngôi mộ cũ nhiều và không phải sơn màu vôi trắng như lần
tôi đến. Nghĩa địa Hàng Dương bây giờ là một trung tâm du lịch, màu sắc lòe loẹt,
không còn những mộ cỏ hoang vu, những con đường đất hẹp và những hàng dương cằn
cỗi chung quanh. Tôi không cảm thấy chút nào xúc động khi nhìn lại cảnh nghĩa địa
Hàng Dương mà chỉ tội nghiệp cho các em học sinh đang sắp hàng vào xem các di
tích được gọi là cách mạng ở Côn Đảo. Các em đi xem kịch mà tưởng mình đang tìm
về lịch sử cha ông.
Một
trong những đặc điểm của chế độ Cộng sản là lừa dối. Không phải chỉ Việt Nam mà
mọi quốc gia Cộng sản đều như thế. Khi chế độ Cộng sản Đông Đức sụp đổ, báo chí
khám phá trong cơ sở dữ liệu của cơ quan an ninh Stasi một hệ thống lừa dối có
tầm vóc quy mô ngoài giới hạn đạo đức của con người. Việc nghi kỵ, lừa dối
không chỉ ở nằm trong hệ thống đảng, các cơ quan nhà nước, mà cả trong mỗi gia
đình ruột thịt, máu mủ thân yêu. Anh lừa dối em. Vợ lừa dối chồng. Cha mẹ lừa dối
con cái. Cháu chắt lừa dối ông bà. Lừa dối là phương tiện duy nhất để tồn tại
trong xã hội Cộng Sản.
Tại
Việt Nam cũng thế. Vở kịch tuyên truyền mà Đảng đã đóng suốt mấy chục năm qua
làm thui chột nhận thức của nhiều thế hệ Việt Nam. Từ chuyện Lê Văn Tám lấy
thân mình làm đuốc đến chuyện Tôn Đức Thắng kéo cờ Cộng sản trên Hắc Hải đều là
những chuyện hoang đường nhưng nghe riết cũng quen tai, nghe riết nên tin là
chuyện thật.
Có
một thời không ít người dân miền bắc còn tin rằng những khẩu CKC, AK47 của mấy
chị dân quân đã từng bắn hạ những F-4 Fantom, F-111 của Mỹ. Theo lời kể của cựu
Trung Tướng Yevgeni Antonov, nguyên trưởng đoàn cố vấn quân sự của Liên Xô tại
Việt Nam trong một bài báo trên tờ Pravda nhân dịp đánh dấu 30 năm cuộc chiến
Việt Nam chấm dứt, Liên Xô đã gởi nguyên một trung đoàn phòng không với đầy đủ
vũ khí và trang bị sang Việt Nam tham chiến và 13 người lính phòng không Liên
Xô đã chết trên đất bắc. Những chiếc máy bay Mỹ đầu tiên bị bắn rơi trên bầu trời
Hà Nội, kể cả chiếc chiến đấu cơ của Thượng Nghị Sĩ John McCain, cũng từ hỏa tiễn
của các đơn vị Hồng quân Liên Xô chứ không phải từ “Bộ đội phòng không anh
hùng”, nói chi là các chị dân quân núp bên bờ ruộng như trong mấy bức ảnh tuyên
truyền của đảng.
Cũng
theo lời kể của cựu thiếu tướng Liên Xô Yevgeni Antonov, chỉ huy lực lượng
phòng không Liên Xô tại Việt Nam từ 1969 đến 1970, Việt Nam chỉ là một phòng
thí nghiệm cho vũ khí Liên Xô. Họ muốn đích thân xử dụng vũ khí để chuẩn bị cho
việc máy bay Mỹ và NATO oanh tạc vào nội địa Liên Xô trong trường hợp có chiến
tranh giữa hai khối sau này. Cuộc chiến đã tàn, chế độ cũng đã tan, ngọn đèn đời
sắp tắt, những người lính già Nga chẳng bị áp lực nào để phải nói dối, để tuyên
truyền, để bảo vệ cho đảng, hay cho cả chính mình. Họ chỉ còn kỷ niệm, và kỷ niệm
của tuổi về chiều thường thành thật, trong sáng như những ngày mới lớn.
Bên
cạnh Liên-Xô, vào thời điểm 1967 ngoài hàng vạn tấn đạn dược, vũ khí, đã có 16
sư đoàn với 170 ngàn quân Trung Quốc tại miền Bắc Việt Nam để yểm trợ cho đảng
Cộng sản Việt Nam nhưng đồng thời để bảo vệ vòng đai an ninh của Trung Quốc. Tội
ác của đảng Cộng sản Trung Quốc đối với dân tộc Việt Nam, từ các tư tưởng độc hại
đến võ khí giết người, từ cải cách ruộng đất đến đến Hoàng Sa, Trường Sa, từ
chiến tranh biên giới đến trận chiến Lão Sơn, không thể viết hết trong một bài,
trong một cuốn sách mà phải xây dựng một trung tâm dữ kiện.
Máu
đổ, thây rơi, nhà tan, cửa nát ở Hà Nội, Hải Phòng là điều có thật. Những mất
mát đau thương vô cùng to lớn của đồng bào miền Bắc đã chịu đựng dưới đạn bom Mỹ
là điều có thật. Căm thù, phẫn uất vì thế là những phản ứng tự nhiên. Tuy nhiên
không phải chỉ vì đế quốc Mỹ đã đơn phương xâm lược Việt Nam như các thế hệ
sinh viên học sinh đã và đang được dạy. Hơn ba mươi năm là một thời gian đủ dài
để đồng bào miền bắc, các thế hệ trẻ miền bắc có gia đình chịu đựng đau thương
bất hạnh trong chiến tranh, nhìn lại cuộc chiến một cách khách quan và so sánh
với thực tế đất nước để qua đó biết rõ những ai và học thuyết nào chính là
nguyên nhân của chiến tranh, độc tài và chậm tiến hôm nay.
Đảng
Cộng sản có thể tùy thích tạo ra hàng trăm đảng viên cỡ Lê Văn Tám, Tôn Đức Thắng.
Đó là chuyện nội bộ của đảng nhưng họ không có quyền biến Côn Đảo thành tài sản
riêng của đảng, không có quyền mê hoặc của các thế hệ trẻ Việt Nam bằng các mẫu
chuyện hoang đường kiểu Lê Văn Tám như bộ máy tuyên truyền Liên Xô đã từng tô
điểm lên một cậu bé nhà nông Pavlik Morozov bất hiếu trước đây. Côn Đảo cũng
không phải là đất hương hỏa của Marx, Lenin để lại cho đảng Cộng sản Việt Nam
mà là đất thiêng của cách mạng Việt Nam nơi nhiều thế hệ đã lấy xương thịt mình
làm phân bón cho mầm xanh tương lai dân tộc.
Trong
nghĩa địa Hàng Dương, bên chiếc cầu đá phía bên phải dinh chúa đảo, trước những
xà lim chật hẹp, một ngày không xa, các thế hệ Việt Nam sẽ đến đó, không phải để
nghe kể công, nghe tuyên truyền mà đến để im lặng cúi đầu tưởng niệm các anh
hùng dân tộc.
Họ
là ai? Họ là những đảng viên Việt Nam Quang Phục Hội, Phong trào Đông Du, Phong
trào Duy Tân, Tân Việt Cách mạng Đảng, Việt Nam Quốc dân Đảng, Đại Việt Quốc
dân Đảng, Đại Việt Dân chính, Dân Xã Đảng, Đảng Lập hiến, Đại Việt Duy dân và
nhiều tổ chức, phong trào không Cộng sản khác.
Họ
là ai? Họ là tín đồ các tôn giáo, nhất là Cao Đài và Hòa Hảo, hai tôn giáo được
ra đời tại miền Nam, có truyền thống kiên quyết chống cả thực dân lẫn Cộng sản.
Nếu
họ đã từng là đảng viên Cộng sản thì sao? Không sao cả. Như tôi đã có dịp viết
vài lần trên diễn đàn này, việc tham gia vào đảng Cộng sản của một số người Việt
Nam, chủ yếu là để được tổ chức hóa nhằm mục đích hợp đồng chiến đấu, đạt đến
chiến thắng dễ dàng hơn chứ không phải vì tin vào chủ nghĩa Cộng Sản. Ngày đó,
vì điều kiện giao thông khó khăn, núi non cách trở, sự phát triển của các đảng
phái chống thực dân ít nhiều bị giới hạn bởi các đặc tính địa phương, bà con
giòng họ, hoàn cảnh trưởng thành. Nếu họ sinh ra ở Quảng Nam họ sẽ gia nhập Việt
Nam Quốc dân Đảng, sinh ra ở Quảng Trị họ sẽ gia nhập Đại Việt, sinh ra ở Cần
Thơ, Vĩnh Long, An Giang họ sẽ gia nhập Dân xã Đảng. Đó là trọng điểm của các đảng
phái chống Pháp trong những thập niên đầu của thế kỷ 20. Ông bà chúng ta có
súng dùng súng, có gậy dùng gậy, và trong nhiều trường hợp chỉ là những bàn tay
không gầy yếu.
Những
người Việt yêu nước thời đó chọn lựa đảng phái như chọn một chiếc phao để đưa
dân tộc sang bờ độc lập. Những nông dân hiền hòa chất phát , nhưng công nhân đầu
tắt mặt tối làm sao biết được con đường họ đi không dẫn đến độc lập, tự do, hạnh
phúc mà dẫn đến nghèo nàn, lạc hậu, độc tài và làm sao biết được chiếc phao họ
bám cũng là chiếc bẫy buộc chặt chẳng những cuộc đời họ mà còn gây hệ lụy cho cả
dân tộc đến ngày nay.
Tôi
tin, phần lớn những người yêu nước đã chết trong giấc mơ về một Việt Nam hòa
bình, độc lập chứ không phải trong giấc mơ về một xã hội Cộng sản đại đồng. Người
yêu nước bằng tình yêu trong sáng, không đánh thuê, đánh mướn cho một chủ
nghĩa, một ý thức hệ ngoại lai vong bản hay cho một quyền lợi đế quốc nào sẽ
không bao giờ chết, không bao giờ bị lãng quên. Lịch sử sẽ đánh giá, dân tộc sẽ
ghi ơn họ một cách công bằng.
Tôi
tin, cuộc chiến chống thực dân Pháp là cuộc chiến chính nghĩa. Đó là cuộc đấu
tranh đầy gian khổ nhưng anh hùng của một dân tộc bị nô lệ đã đứng lên chống lại
một thực dân tàn bạo. Trong suốt gần một thế kỷ trong bóng tối thực dân, hàng vạn
đồng bào thuộc nhiều thế hệ Việt Nam đã bị bắt, tra tấn và đã hy sinh trên Côn
Đảo. Ngoài một Nguyễn An Ninh để lại thịt xương, một Trần Cao Vân, một Phan Chu
Trinh để lại những bài thơ viết bằng máu và mồ hôi trong những ngày đập đá, còn
có hàng ngàn, hàng vạn đồng bào đã chết trong âm thầm, không để lại họ tên.
Nhưng
cho dù họ có để lại đủ họ tên đi nữa, các thế hệ Việt Nam sau 1975 cũng không
có quyền biết đến họ, không có cơ hội để cám ơn họ, để thắp một nén hương, và
phần mộ họ một mai có thể sẽ bị san bằng theo mưa nắng. Đảng Cộng sản không chỉ
nhuộm đỏ miền Nam, nhuộm đỏ Việt Nam mà còn cố tình nhuộm đỏ cả lịch sử.
Côn
Đảo ngày nay gắn liền với tên tuổi của các đảng viên Cộng sản trung ương Tôn Đức
Thắng, Lê Duẩn, Phạm Hùng, Hà Huy Tập, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh, Lê Quang
Vịnh v.v. Các em học sinh đang sắp hàng chờ vào xem những xà lim kia làm sao biết
được, với số đảng viên vỏn vẹn 5 ngàn vào mùa thu 1945, đảng Cộng Sản, dù bị bỏ
tù và chết gấp mười lần trong hai cuộc chiến, cũng không thể bằng với con số
khoảng 200 ngàn người Việt Nam yêu nước đã từng ở tù Côn Đảo theo nhiều nguồn ước
lượng.
Các
em cũng không biết rằng hàng trăm lãnh tụ cách mạng không Cộng sản mà đức độ và
tài năng bao trùm nhiều lãnh vực như Đức Huỳnh Giáo Chủ, Trương Tử Anh, Phạm Quỳnh,
Khái Hưng, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Bùi Quang Chiêu, Hồ Văn Ngà, Nguyễn Thế
Nghiệp v.v., đã không ở tù hay chết ngoài Côn Đảo chỉ vì họ bị Cộng sản thủ
tiêu ngay tại đất liền.
Khác
với đảng Cộng sản được thành lập từ nước ngoài theo chỉ thị của quốc tế Cộng sản
và nhiều đảng viên được đưa sang Trung Quốc, Liên Xô huấn luyện một cách bài bản
nhằm thực hiện các mục tiêu ngắn hạn cũng như dài hạn của trung ương đảng đề
ra, phần lớn đảng phái không Cộng sản đã sinh ra và lớn lên ngay trong lòng dân
tộc với tất cả khó khăn, thiếu thốn về mọi mặt. Họ không chỉ bị chết dưới lưỡi
đao phong kiến, máy chém thực dân mà còn chết trong bàn tay của những người
cùng máu mủ với mình.
Đọc
lại diễn tiến của cuộc khởi nghĩa Yên Thế, quá trình thành lập các đảng phái
không Cộng sản và lắng nghe các nhà cách mạng trải lòng qua thơ văn đẫm đầy máu
lệ, mới cảm thấy lòng yêu nước của thế hệ cha ông thật vô bờ bến.
Bằng
hành trang duy nhất trên vai là lòng yêu nước, các nhà cách mạng không Cộng sản
dấn thân vào con đường giải phóng dân tộc trên chuyến xe chạy bằng máu của
chính mình.
Chiều
mùa hè năm đó, lần đầu tiên trong đời tôi xúc động đứng im lặng trước anh linh
của những anh hùng đã ngã xuống cho độc lập tự do thật sự của dân tộc. Xương thịt
của những người đã hy sinh từ phong trào kháng thuế miền Trung, Hà Thành đầu độc,
khởi nghĩa Duy Tân, Thái Nguyên, Yên Bái hẳn đã hòa tan vào lòng đất mẹ nhưng
anh linh họ vẫn là ngọn đuốc soi sáng giấc mơ Việt Nam độc lập, tự chủ của dân
tộc.
Như
tôi có lần đã viết. Giấc của họ là giấc mơ của những người để lưng trần, tóc cắt
ngắn, đóng khố che thân, dắt bầy con, vượt bao nhiêu núi rừng ghềnh thác trong
cuộc nam tiến đầy gian nan nhưng vô cùng hiển hách, từ dọc bờ Dương Tử di dân
xuống lưu vực sông Hồng cách đây gần 50 thế kỷ. Trong lúc bao nhiêu bộ tộc Bách
Việt khác đã hoàn toàn bị tiêu diệt hay đồng hóa vào những tỉnh, những huyện
như Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Vân Nam, Phúc Kiến của Trung Quốc ngày nay,
giòng giống Lạc Việt qua bao độ thăng trầm, vẫn tồn tại và trưởng thành như một
nước Việt Nam.
Giấc
mơ của họ là giấc mơ của những người đã tạo nên nền văn minh Việt Nam rất sớm.
Nơi đó, từ nhiều thế kỷ trước Công nguyên, tổ tiên chúng ta đã biết trồng cây
ăn trái, biết làm đồ gốm, biết đẽo đá thành những lưỡi cuốc nhọn, biết đắp đất
ngăn bờ để đưa nước sông vào ruộng. Tổ tiên chúng ta đã biết xây dựng các cơ xấu
xã hội, lấy thôn làng làm căn bản, lấy nông nghiệp làm nền tảng kinh tế, lấy
tình nghĩa đồng bào làm sức mạnh, lấy nguồn gốc tổ tiên (một mẹ trăm con, chung
cùng bọc trứng) làm nơi nương tựa tinh thần. Những hình ảnh thân thương quen
thuộc của cây đa, bến nước, sân đình gắn liền trong tâm thức của mỗi người Việt
Nam. Những chiếc trống đồng Đông Sơn, Ngọc Lữ được chạm trổ tinh vi đánh dấu một
thời đại vàng son trong tiến trình phát triển văn minh nhân loại. Chính tinh thần
văn hóa Hòa Bình, Đông Sơn đã hun đúc thành sức mạnh dân tộc, để các thế kỷ sau
đó, đủ sức đối kháng với sự xâm lăng thô bạo của các nguồn văn hóa mang ý đồ đồng
hóa phát xuất từ phương Bắc.
Giấc
mơ của họ là giấc mơ của một dân tộc hơn một ngàn năm trong bóng đêm nô lệ nhà
Hán, nhà Ngô, nhà Đường, nhà Minh qua bốn lần bắc thuộc với bao nhiêu cực hình
đày đọa, sáng xuống bể tìm ngọc châu, chiều lên non săn ngà voi, trầm hương,
châu báu, dân tộc Việt vẫn bảo vệ được tính độc lập, vẫn giữ được bản sắc văn
hóa Việt trong sáng và thuần nhất.
Đất
nước chúng ta đã hơn một lần bị mất đi và giành lại được nhưng chúng ta hãnh diện
nói lớn rằng dân tộc Việt Nam chưa bao giờ bị mất gốc. Hình ảnh những chiếc
búa, những chiếc rìu, những mũi thương, mũi đao, mũi tên bằng đồng đào được ở
vùng Trung Châu, Bắc Việt, ở sông Bạch Đằng, dọc Ải Nam Quan không chỉ là những
cổ vật mà còn là chứng tích của bao nhiêu trận mạc, bao nhiêu cuộc chiến đấu,
bao nhiêu máu xương và nước mắt của tổ tiên đã đổ xuống trước các cuộc xâm lăng
của các triều đại Bắc phương khác.
Lịch
sử bao giờ cũng mang tính kế tục nhưng trước hết là lịch sử của thời đại. Mỗi
thế hệ có một trách nhiệm để hoàn thành những trách nhiệm mà lịch sử giao phó
cho thời đại của họ nhưng dù không hoàn thành, ngọn đuốc lịch sử vẫn phải được
chuyển sang bàn tay thế hệ khác. Giấc mơ về Việt Nam tự do, dân chủ và giàu mạnh
dù sớm hay muộn sẽ phải thành hiện thực.
Thời
gian gần đây, tôi có dịp đọc nhiều bài viết từ những tấm lòng đang băng khoăng
vì đất nước. Phần lớn bắt đầu bằng nhóm chữ “chưa bao giờ …như hôm nay”. Chưa
bao giờ con người Việt Nam bị khinh thường như hôm nay. Chưa bao giờ lãnh thổ
Việt Nam bị chiếm đoạt trắng trợn như hôm nay.
Chưa
bao giờ chủ quyền đất nước bị đe dọa như hôm nay. Chưa bao giờ tài nguyên thiên
nhiên bị thất thoát như hôm nay. Tất cả đều đúng cả. Tôi chỉ muốn thêm vào một
“chưa bao giờ” nữa, đó là, chưa bao giờ ranh giới giữa dân tộc và phản dân tộc
rõ ràng như hôm nay. Biên giới đó rõ ràng đến mức một người Việt Nam có thể chọn
lựa đứng về phía chính nghĩa, phía dân tộc mà không phải lo lầm lỡ về sau.
Giới
lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam đã chọn một con đường riêng của họ. Con đường đảng
chọn cũng rất rõ ràng: phát triển đất nước theo định hướng Trung Quốc và cùng
lúc bằng mọi giá duy trì chế độ độc tài toàn trị tại Việt Nam.
Bộ
chính trị trung ương đảng Cộng sản Việt Nam không phải là những người không biết
suy nghĩ, không thấy đúng, thấy sai và thậm chí có rất nhiều cơ hội để sửa sai
nhưng quyền lợi cá nhân, phe nhóm và đảng đã che khuất sự sống còn và tương lai
đất nước.
Nhân
dân Việt Nam chịu đựng quá nhiều rồi, nhượng bộ quá nhiều rồi, lùi bước quá nhiều
rồi. Từ xâm lăng Hoàng Sa đến chiến tranh biên giới, các trận đánh khu vực Lão
Sơn, lấn chiếm Trường Sa, bắn chết ngư dân Thanh Hóa và hôm nay Bauxite. Chỉ một
thời gian ngắn thôi mà nhìn ra biển, nhìn lên núi, nhìn xuống phố, nhìn qua
sông, đâu đâu cũng thấy hàng Trung Quốc, đất Trung Quốc, đảo Trung Quốc, người
Trung Quốc, vài chục năm nữa đất nước sẽ ra sao?
Tại
sao Trung Quốc không bắn thủng tàu, không ăn cướp tài sản, đất đai của Thái
Lan, Philippines hay ngay cả của đàn em Bắc Hàn một cách công khai, lộ liễu như
họ đã và đang làm đối với Việt Nam? Một người có ý thức nào cũng biết, đơn giản
bởi vì giới lãnh đạo Cộng sản Trung Quốc sống trong gan ruột của giới lãnh đạo
đảng Cộng sản Việt Nam những kẻ không còn một chọn lựa nào khác ngoài việc núp
dưới chiếc dù Trung Quốc.
Như
tôi có lần mách nước cho bà con ngư dân trong bài “Ai giết 9 ngư dân Thanh
Hóa”, cách hay nhất để khỏi bị hải quân Trung Quốc bắn chết là khi tàu đánh cá
vừa ra khỏi cửa biển thì xin các bác làm ơn hạ cái lá cờ gọi là “cờ tổ quốc” xuống
dùm. Nếu phải treo thì treo đại một lá cờ Phi, cờ Thái Lan, cờ Nhật lên mũi
tàu. Nói ra thì cho là phản động nhưng tin tôi đi, làm như thế bà con ngư dân mới
hy vọng còn đường trở về với vợ con.
Thời
điểm 1958, Pháp đã rút đi và Mỹ thì chưa đến mà Phạm Văn Đồng, còn có thể thay
mặt cho 11 ủy viên bộ chính tri, hạ bút ký một văn kiện nhục nhã như thế thì với
hoàn cảnh phe Cộng sản chỉ còn lại năm anh em trên một chiếc xe tang, trong đó
có đến bốn em đang lâm cảnh hàn vi đói khát, thì chuyện gì mà họ không dám làm.
Lê Khả Phiêu, trong giai đoạn tìm về chủ cũ năm 1991, cũng có thể đã ký những
văn bản tương tự như văn bản của Phạm Văn Đồng, khác chăng, “đồng chí Phạm Văn
Đồng bị lộ” và “đồng chí Lê Khả Phiêu chưa bị lộ” mà thôi.
Người
Do Thái nguyền rủa Hitler, nhân loại kết án Hitler, nhưng nhân dân Đức trước
khi có thái độ tương tự, họ phải biết trách các thế hệ Đức trong thập niên 30 của
thế kỷ 20, bởi vì chính dân Đức thời đó bằng con đường bầu cử hợp pháp đã đồng
ý đặt mình dưới sự lãnh đạo của Hitler và đảng Quốc Xã. Nhân dân Việt Nam chưa
bao giờ bầu đảng Cộng sản để lãnh đạo nhưng chắc chắn cũng sẽ phải trả lời cho
các thế hệ mai sau về thái độ thờ ơ, thỏa hiệp, yếu hèn của các thế hệ hôm nay
trước tình trạng băng hoại đạo đức, lạc hậu kinh tế, thất thoát tài nguyên, mất
mát lãnh thổ và suy yếu chủ quyền đất nước.
Trần Trung Đạo
Nguồn:
talawas 2009, facebook 2015
No comments:
Post a Comment