19/02/2015
“...
Kẻ có chữ bất mãn thường chọn cách viết sớ tâu lên... Những lá sớ lâm ly thảm
thiết này thường không được nghe. Có kẻ dâng sớ nhiều lần nhưng không thấy cởi
bỏ áo mũ trở lại làm phó thường dân mà vẫn ung ung tại vị hưởng bổng lộc của
triều đình. Một đôi kẻ chấp bút có đôi chút tự trọng thì chọn con đường ở ẩn,
không chọn con đường làm giặc nên không có tên trong Sưu Tặc Ký.” Từ Hải Ngoại Truyện,
Dương Nghiễm Mậu, 2005.
1975_
Bùi Giáng và Dương Nghiễm Mậu
Sau
30 tháng 4, 1975 các văn nghệ sĩ không đi thoát, hoặc chọn ở lại như Dương Nghiễm
Mậu, nếu không phải đám nằm vùng thì ai cũng chờ cái ngày đi vào nhà giam, các
trại tù cải tạo. Giữa những ngày căng thẳng và ảm đạm ấy, có một người vẫn
nhởn nhơ, đi tìm thăm bạn bè văn nghệ cũ. Không ai khác hơn đó là nhà thơ Bùi
Giáng Lá Hoa Cồn. Trung niên thi sĩ lúc nào cũng gầy và già hơn tuổi,
râu tóc sơ sác như từ bao giờ. Giữa một Sài Gòn thảng thốt, không biết anh đã
lượm ở đâu trên đường mà có được bộ quân phục nguỵ với quân hàm Đại tá, Bùi
Giáng đem vận ngay vào người, chân thấp chân cao đi nghêu ngao như diễn binh
trên hè phố. Có lẽ đây là hình ảnh tuyệt đẹp cuối cùng của cuộc chiến tranh
Việt Nam, với một tân binh tình nguyện gia nhập đạo quân đã hoàn toàn rã ngũ.
Rồi Bùi Giáng cũng tới được khu nhà thờ Ba Chuông, nơi có căn nhà Dương Nghiễm
Mậu. Bùi Giáng hồn nhiên đi sâu vào con hẻm chật chội ấy đã thấp thoáng màu cờ
đỏ. Anh vẫn tỉnh táo nhớ đúng nhà, tới đập cửa rầm rầm đòi vào thăm cho được cố
tri. Trầm tĩnh và bản lãnh như Nghiễm, mà trước tình huống ấy cũng vẫn như gái
ngồi phải cọc; được cái lúc ấy chòm xóm còn là thân quen, mạng lưới công an
chưa đủ dầy đặc để gây nỗi phiền hà. Ra khỏi nhà Dương Nghiễm Mậu, không biết
Bùi Giáng còn đi gõ cửa tới thăm những ai khác, hay anh lại ra nơi đầu cầu
Trương Minh Giảng như một người tỉnh táo đứng làm cảnh sát công lộ chỉ đường
“trên dòng luân lưu hỗn mang của lịch sử” và để rồi sau đó nếu anh không bị
đám “cách mạng 30” hay bọn công an đánh tả tơi sưng mặt mũi thì rồi cuối cùng
chắc anh cũng lại tìm về với “mẫu hậu” Kim Cương, ngồi trước cửa phóng bút làm
thơ tặng nàng.
Dương Nghiễm Mậu trên
cầu Trường Tiền 1968
1975_
Toà Soạn Bách Khoa và anh Lê Ngộ Châu
Tuần
lễ trước 30 tháng 4, 1975, nhân viên Đài Mẹ Việt Nam và những cây viết cộng tác
đã được Mỹ lên kế hoạch di tản khỏi Việt Nam – để tránh bị trả thù. Trước ngày
lên tàu ra đảo Phú Quốc, nhà văn Võ Phiến tới thăm toà soạn Bách Khoa, nơi vùng
“xôi đậu” có Võ Phiến Bắt Trẻ Đồng Xanh ngồi chung với Vũ Hạnh Bút
Máu; cũng là nơi mà Võ Phiến đã gắn bó suốt 18 năm cùng với tuổi thọ của tờ
báo. Anh Lê Ngộ Châu chủ nhiệm Bách Khoa kể lại: Võ Phiến thì phải đi,
nhưng linh cảm không có ngày về, vẻ mặt buồn thảm, anh chỉ ngồi khóc lặng lẽ
không nói nổi lời giã từ và rồi đứng dậy bước ra khỏi toà soạn.
Trước
một ngày mất Sài Gòn, thì hầu như toàn bộ nhân viên Đài Mẹ Việt Nam trong đó có
gia đình Võ Phiến Giã Từ, Lê Tất Điều Phá Núi, Viên Linh Hoá
Thân, Tuý Hồng Tôi Nhìn Tôi Trên Vách, Thanh Nam Bóng Nhỏ Đường
Dài từ Phú Quốc đã được đưa lên con tàu lớn Challenger đậu sẵn ngoài khơi.
Khi bờ biển Phú Quốc xa mờ trong tầm mắt, lần này thì Lê Tất Điều thấy Võ Phiến
khóc. Cùng với những con tàu thuộc Đệ Thất Hạm đội, họ lênh đênh trên Biển Đông
trong cuộc hải trình nhiều ngày để tới đảo Guam. Guam đã từng là căn cứ xuất
phát của các đoàn phi cơ B52 trong cuộc chiến tranh Việt Nam với những trận mưa
bom trải thảm/ carpet bombing có sức tàn phá của một cơn địa chấn. Đảo
Guam chỉ rộng 550 km2 sau tháng Tư 1975, là chặng dừng chân đầu tiên
của hàng trăm ngàn người Việt
tỵ nạn trước
khi vào đất Mỹ. Vũ Khắc Khoan Thần Tháp Rùa, Nghiêm Xuân Hồng Người
Viễn Khách Thứ 10, Mặc Đỗ Siu Cô Nương nhóm Quan Điểm cũng đi
thoát và trước sau đặt chân tới các trại tỵ nạn trên đất Mỹ.
Chưa
đến một tuần lễ sau, ngày 5 tháng 5, 1975 một trong những cây viết lâu năm của
Bách Khoa, Phạm Việt Châu Trăm
Việt Trên Vùng Định Mệnh đã tuẫn tiết tại tư gia khi cộng sản hoàn
toàn chiếm Miền Nam. Cái chết rất sớm và tức tưởi của một tác giả có viễn kiến
về lịch sử dân tộc, sức sáng tạo đang sung mãn mới bước vào tuổi 43, đã như một
hồi chuông báo tử cho bao nhiêu tang thương diễn ra sau đó.
1975_
Chiến Dịch Đốt Sách
Những
ngày sau 30 tháng 4, 1975, hai đứa con Vũ Hạnh trong bộ bà ba đen, tay cuốn
băng đỏ, tới toà báo Bách Khoa cũng là nơi cư ngụ của anh chị Lê Ngộ Châu. Trước
khách lạ, đứa con gái nói giọng hãnh tiến: “Tụi con mới từ Hóc Môn về, cả
đêm qua đi kích tới sáng.” Người dân lành nào vô phước đi lạc trên đường ruộng
đêm đó có thể bị tụi nó coi là nguỵ. Những tên nằm vùng cùng với đám “cách mạng
30” này chỉ như phó bản đám Hồng vệ binh của Mao nhưng lại sau cả thập niên.
Cũng chính những đám này là thành phần kích động chủ lực trong chiến dịch lùng
và diệt tàn dư văn hoá Mỹ Nguỵ, chúng dẫm đạp những cuốn sách, nổi lửa đốt từng
chồng sách rồi tới cả tới những kho sách. Những cuốn sách mà đa phần chúng chưa
hề đọc, trong đó có cả một tủ sách “Học Làm Người”. Sách của những “tên
biệt kích văn nghệ” còn được trưng bày trong toà nhà triển lãm Tội ác Mỹ Nguỵ
cùng với vũ khí chiến tranh và chuồng cọp, dĩ nhiên có sách của Dương Nghiễm Mậu,
có cả cuốn Vòng Đai Xanh của người viết.
Cảm
khái với câu thơ Nguyễn Du trong Độc Tiểu Thanh kí: văn chương vô mệnh cũng
tro than/ văn chương vô mệnh luỵ phần dư. Hơn hai ngàn năm sau, chẳng ai
quên chuyện “đốt sách chôn nho/ phần thư, khanh nho” của Tần Thuỷ Hoàng,
nhưng không biết chỉ 100 năm tới đây, các thế hệ tương lai có ai còn giữ được“bộ nhớ” Đã Có
Một Thời Như Thế – tên một bài viết của Nhật Tiến, về giai đoạn người Cộng
sản Việt Nam đốt sách giam tù cả một thế hệ văn nghệ sĩ của Miền Nam?
1975_
Nhà hàng Givral và Phạm Xuân Ẩn
Trước
1975, La Pagode, Brodard, Givral là nơi tôi, Phạm Đình Vy [chủ nhiệm Tình
Thương] và các bạn y khoa thỉnh thoảng có dịp lui tới kể cả khi đã ra trường.
Givral cũng là nơi thường gặp gỡ các nhà báo như Phạm Xuân Ẩn, Cao Giao, Nguyễn
Tú, Như Phong Lê Văn Tiến... Phạm Xuân Ẩn, là bạn đồng môn với nhà văn Sơn Nam
thời trung học Cần Thơ, Ẩn gốc người Nam dáng chân quê mộc mạc. Trong suốt cuộc
chiến tranh Việt Nam, Phạm Xuân Ẩn chỉ được biết tới như phóng viên của
Reuters, sau đó chuyển sang tuần báo Times, trụ sở trong Continental Palace bên
kia đường. Cũng không thể không nhắc tới khách sạn Caravelle, gần toà nhà Quốc
hội cũ, nơi tập trung đông đảo nhà báo ngoại quốc, nơi đặt văn phòng của các
hãng thông tấn và truyền hình Mỹ như ABC, NBC, CBS... Cũng chính Morley Safer
trong một buổi phát hình CBS Evening News ngày 5 tháng 8, 1965 chiếu cảnh
lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ trong cuộc hành quân xua dân ra khỏi làng và sau đó
bật quẹt Zippo đốt nhà của họ, những hình ấy đã làm rúng động Toà Nhà Trắng và
cả nước Mỹ như một vết hằn sâu của một cuộc chiến bắt đầu thất nhân tâm. Bảy
năm sau, Nick Ut phóng viên AP với bức hình “Napalm Girl” chụp trong trận
giao tranh Trảng Bàng Tây Ninh ngày 8 tháng 6, 1972, cũng là thời điểm
Quốc Hội Mỹ dứt khoát cắt viện trợ quân sự cho Miền Nam.
Đội
quân báo chí hùng hậu ấy, trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam, có khả năng điều
kiện hoá dư luận với “những tin tức xấu từ một phía”, đủ làm nản lòng
dân Mỹ, cùng với đám GI’s đang cầm súng từ phía bên kia nửa vòng trái đất; truyền thông Mỹ có phần công lao
không nhỏ gián tiếp đưa tới mất Miền Nam Tự Do và cũng là một thất trận đầu
tiên trong lịch sử các cuộc chiến tranh của Hoa Kỳ. Và rồi, tất cả bọn họ
cũng đã kịp tháo chạy trước khi Sài Gòn đổi chủ.
Và
rồi mấy ngày đầu tháng 5, 1975, Givral lại như điểm hẹn của những người bạn còn
kẹt lại, tới đó để biết ai ở ai đi và nghe ngóng tin tức. Từ những chiếc bàn
nhìn qua khung kính trong suốt ấy, tình cờ gặp lại Phạm Xuân Ẩn. Ẩn cũng đã từng
tới thăm toà soạn báo sinh viên Y khoa Tình Thương trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm
ngày nào. Vợ con Phạm Xuân Ẩn đã được tuần báo Times cho di tản trước đó nhiều
hôm, nhưng Ẩn thì ở lại. Với hơi chút ngạc nhiên và vẻ quan tâm, Ẩn hỏi tôi: “Vinh,
tại sao toa không đi?” Lúc đó chỉ như một câu hỏi xã giao, nhưng phải sau
này, khi đã ở trong vòng rào các trại tù cải tạo, tôi mới thấm thía vỡ lẽ được
câu hỏi ấy của Phạm Xuân Ẩn, nó đã như lời báo bão về những năm tháng tù đầy từ
một chính sách mà Ẩn thì biết rất rõ. Trong vỏ bọc của một nhà báo làm cho tuần
báo Times danh tiếng của Mỹ, thực chất trước đó nhiều năm Phạm Xuân Ẩn là một
điệp viên chiến lược đơn tuyến của Cộng sản Hà Nội. Sau này cũng chính Phạm
Xuân Ẩn tâm sự với Morley Safer chương trình 60 Minutes của CBS rằng khi
Sài Gòn xụp đổ không dễ gì để nói với đám “cách mạng 30” đeo súng AK lúc đó rằng,
tôi là đại tá quân đội của họ, không phải CIA. Có thể tôi bị tụi nó giết và cả
con chó của tôi cũng bị nướng sống. [Flashback, Vietnam Revisited 1989, The
Spy in Winter]
1975_
Nhà báo Như Phong
Chỉ
sau cụ Hoàng Văn Chí Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc, người hiểu rõ cộng sản
sau này không ai hơn nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến. Cô Thần cũng là bút hiệu
khác của Như Phong Khói Sóng trên nhật báo Tự Do, một chuyên mục viết về
cộng sản Miền Bắc. Hiểu cộng sản như vậy, với biết trước những tháng năm tù đầy,
vậy mà anh vẫn chọn ở lại. Gặp lại anh tại nhà luật sư Mai Văn Lễ, trước bệnh
viện Sùng Chính trên đường Trần Hưng Đạo. Anh Mai Văn Lễ có một thời làm Khoa
trưởng Luật khoa Huế thời Phật giáo Tranh đấu, bây giờ chỉ còn lại mình anh, chị
và hai con thì đã đi trước đó một tuần lễ.
Trưa
ngày 30 tháng Tư, ngay sau khi lệnh đầu hàng được phát đi, có thể thấy từ mấy tầng
lầu cao là một cơn mưa confetti, chỉ một màu trắng của những mảnh vụn giấy tờ
tuỳ thân của quân cán chính cần được xé huỷ trước khi cộng quân hoàn toàn kiểm
soát Sài Gòn. Không kể những giày nón quân phục được cởi bỏ vội vàng vứt tả tơi
trên đường phố. Là người đi trước thời cuộc, anh Như Phong tiên đoán đúng những
gì sắp diễn ra: chiến dịch đánh tư sản, kế hoạch đổi tiền cho mỗi hộ khẩu và rồi
những cuộn giấy bạc sau đó trở thành rẻ rách và rồi sẽ là quần đảo ngục tù / Gulag
Archipelago một tên sách của Solzhenitsyn. Dư tiền cũ thiên hạ đổ xô đi mua
vàng, đôla chợ đen không dễ gì có trong thời điểm này. Anh Như Phong thì chỉ gợi
ý mua những cuộn len quý nhồi trong các bộ nệm sa lông giống như ngoài Bắc, sau
này khi cần có thể gỡ dần ra bán để kiếm sống. Nói vậy thôi chứ thái độ của cả
mấy anh em vẫn là “chờ xem”.
Và
rồi vang lên tiếng xích sắt nghiến trên mặt nhựa, nhìn qua khung cửa là những
chiếc tăng T54 treo cờ giải phóng hối hả chạy về phía trung tâm Sài Gòn.
...
1980_
Cũng đừng tới thăm
Ra
tù ba năm sau, trở về một Sài Gòn đã đổi khác. Nếu còn chút gì thân quen thì là
mấy người bạn, không nhiều còn ở lại. Anh ấy là một trong những cố tri đầu tiên
tôi nghĩ tới thăm. Là giáo sư đại học, anh tốt nghiệp ở Mỹ, trở về Việt Nam từ
cuối thập niên 1960, đầy lý tưởng, ôm mộng lớn về một cuộc cách mạng xã hội –
theo anh công bằng xã hội/ social justice phải là giải pháp rốt ráo cho
một cuộc chiến tranh bế tắc đang diễn ra khốc liệt giữa hai miền Bắc Nam. Tôi
cũng đã từng gặp anh ở Mỹ và cả những năm sau này ở Việt Nam. Sự xụp đổ mau
chóng của Miền Nam với anh là cả một “giấc mộng lỡ”. Tuy không phải chịu những
năm tháng tù đầy, nhưng cuộc sống gia đình anh, cũng như cả Miền Nam rõ ràng là
khó khăn. Từng bước, anh đã bán những bộ tự điển quý lúc đó rất có giá, cho đám
học giả đói sách từ Bắc vào mua; tiếp đến là đồ đạc tranh tượng, cuối cùng
là còn lại là một tủ sách khoa-học-xã-hội đồ sộ mà anh đem từ Mỹ về
thì nay trở thành vô giá – no value, chỉ có thể đem cân ký bán lạt-son để
làm bột giấy. Vợ anh là cô giáo cũng phải ra giữa chốn chợ trời tần tảo kiếm sống.
Anh thì quá nhậy cảm để thấy nỗi đau và nhục.
Gặp
lại anh, vẫn nét mặt trí thức và đôn hậu như ngày nào, nhưng trong ánh mắt thì
lộ rõ vẻ bất an. Thoáng nét vui mừng nhưng anh kịp kìm hãm, vừa nói vừa canh chừng
nhìn ra cửa : “Biết toa được ra trại thì mừng nhưng cũng xin toa đừng tới
thăm”. Sự thẳng thắn rất trực tiếp của anh, thoáng như một gáo nước lạnh,
nhưng tôi cảm thông và vẫn rất thương anh. Gia đình bên vợ anh ở Mỹ đang làm thủ
tục bảo lãnh, nghĩ rằng việc có liên hệ với lính nguỵ với tù cải tạo có thể là
cản trở cho cuộc hành trình hy vọng của gia đình anh tới bến bờ tự do ấy. Anh
phản ứng theo hoàn cảnh, không chút phán đoán tôi vẫn dành cho anh sự kính trọng,
và mai mốt đây nếu có ngày gặp lại anh thì chắc chắn phải là trên một lục địa
khác. Rất sớm trên toàn Miền Nam đã bắt đầu có một mạng lưới tai mắt tổ dân phố
và công an đủ để gây hoài nghi và cả sự sợ hãi.
Ra
khỏi nhà anh, có lại được niềm vui ấm lòng khi gặp người bạn tấm cám Nghiêu Đề.
Nghiêu Đề cho biết mới gặp Sao Trên Rừng đi xe gắn máy từ Đà Lạt xuống, ngạc
nhiên thấy Nguyễn Đức Sơn lần đầu tiên ăn vận đồ lớn complet cravate, hỏi tại
sao thì Sơn cười giọng khinh mạn: “có vậy mới khỏi lẫn với tụi nó”.
1980_
Trần Phong Giao ngoài chợ
Trần
Phong Giao dáng vạm vỡ, da sậm có vẻ công nhân lao động ngoài nắng hơn là người
làm việc chữ nghĩa văn phòng. Nổi tiếng là thư ký toà soạn báo Văn trong 8 năm
từ 1963 tới 1971, một tờ báo có vị trí đặc biệt trong sinh hoạt văn học Miền
Nam với phát hiện những cây bút mới và không ít sau này đã trở thành những tên
tuổi. Sau Văn, anh thử làm nhiều công việc khác cũng trong lãnh vực báo chí, xuất
bản, rồi thủ thư nhưng đã không để lại nhiều dấu ấn như ở Văn. Không lâu
sau 30 tháng 4, cả hai anh chị đã phải chạy chợ kiếm sống với chiếc xe ba bánh,
đậu trên đường Lê Thánh Tôn đứng bán từng bó củi, mấy nải chuối hay những bó
rau tươi để nuôi đàn con. Ngày ra tù, tới thăm anh, vẫn ở trong con hẻm gần Cầu
Kiệu, bên Tân Định, anh gầy sút đi nhiều hai chân đã rất yếu. Gia tài của anh
đáng giá vỏn vẹn còn một tủ sách, quý nhất là trọn bộ báo Văn đóng bìa da, một
sự nghiệp của Trần Phong Giao nhưng rồi anh cũng đã không giữ được và phải đem
bán cho một Việt kiều từ Mỹ về để có tiền chạy gạo và thuốc men. Trần Phong
Giao mất trong sự túng quẫn và bạo bệnh (2005), anh cũng bước qua được ngưỡng
tuổi cổ lai hy.
1981_
Và những bữa cơm gia đình
Ngôi
nhà Nghiễm trong con hẻm với mặt tiền hẹp nhưng khá sâu. Nghiễm mặc quần soóc,
áo thun trắng, đôi mắt rất tinh anh lúc nào cũng như mỉm cười, trông trẻ hơn tuổi
của một người sinh năm 1936.
Tuy
sống gần khu Chợ Cũ, sẵn những quán ăn vỉa hè và nhà hàng, rất tiện cho nếp sống
cơm hàng cháo chợ, nhưng thường sau một ngày làm việc, thay vì về nhà tôi ghé
nhà Nghiễm, được chị Trang vợ Nghiễm cho thêm chén thêm đũa với những bữa ăn đạm
bạc nhưng ngon miệng vì là bữa cơm hạnh phúc gia đình. Trong tù, tôi và Nghiễm
thì đã quen với những bữa ăn đói ngày đêm, ra ngoài tuy rau đậu nhưng cũng là bữa
tạm no. Người lớn thì không sao, nhưng với trẻ nhỏ đang tuổi “mau ăn, chóng lớn”
thì khẩu phần ấy phải xem là suy dinh dưỡng. Nếu không là ngày phải ra trễ, tôi
ghé qua chợ mua một món ăn gì đó, đem tới bày thêm vào mâm cơm gia đình. Có
thêm món thịt, thêm chút chất đạm thì hôm đó với hai đứa nhỏ như là bữa tiệc.
Những lần gặp nhau, tôi và Nghiễm đều ít nói. Hình như Nghiễm có viết ở đâu đó
là những điều không cần nói ra nhưng cũng đã hiểu nhau rồi. Chỉ có cô giáo
Trang vợ Nghiễm sau một ngày dạy học mệt nhọc nhưng lúc nào cũng có đôi chuyện
vui từ trường đem về gia đình. Miền Nam tài nguyên thì vẫn nguyên vẹn, nhưng đã
có chính sách bần cùng hoá kiểm soát từng bao tử của người dân qua khẩu phần và
sổ lương thực của họ.
1982_
Dương Nghiễm Mậu và một Thanh Tâm Tuyền khác
Đã
gặp Thanh Tâm Tuyền ở những ngày 30 tháng Tư 1975 nơi một căn nhà nhỏ bên Gia Định.
Vợ Tâm lúc đó cũng vừa sinh đứa con trai út trong cảnh tán loạn bệnh viện Nguyễn
Văn Học. “Một Chủ Nhật Khác” cuốn tiểu thuyết cuối cùng của “một thời
để yêu một thời để chết” cũng vừa mới in xong, chưa kịp phát hành. Ra tù
1982, gặp lại Thanh Tâm Tuyền của Bếp Lửa, bằng tuổi Dương Nghiễm Mậu
nhưng trông anh già hơn nhiều, da sậm đen sắc diện của một người bị bệnh sốt
rét kinh niên. Khó có thể tưởng tượng với vóc dáng mảnh mai ấy anh sống sót qua
suốt bảy năm tù đầy ngày nào cũng đói lạnh nơi những vùng sơn lam chướng khí ấy
ở các trại giam Miền Bắc. Bảy năm đốn tre trảy gỗ trên ngàn, bị tre nứa đâm
xuyên đùi không giải phẫu thuốc men nhưng anh vẫn sống sót, trong tù chống rét
anh tập hút thuốc lào, không giấy bút anh vẫn làm thơ qua trí nhớ nhưng là những
bài thơ trở về với các thể thơ truyền thống. Thơ ở Đâu Xa là tập thơ cuối
cùng làm trong tù TTT cho xuất bản ở bên Mỹ (1990).
Trong
một cuộc phỏng vấn rất hiếm năm 1993, Thanh Tâm Tuyền đã giải thích sự chuyển
biến trong thi ca của anh:“Làm thơ trong trại cải tạo, cũng là trở về với thi
ca truyền thống dân gian/ Faire de la poésie dans un camp de
redressement, c’est aussi retourner à la poésie de tradition populaire.” [Thanh
Tam Tuyen, la poésie entre la guerre et le camp; par Le Huu Khoa, Publications
de l’Université de Provence]
Trong
chỗ rất riêng tư, anh tâm sự: Thái Thanh bạn anh đã dứt khoát không hát từ sau
1975. Khi biết Thanh Tâm Tuyền vừa ra tù đến thăm, cô ấy cầm đàn và hát lại những
bài thơ phổ nhạc của anh: Đêm màu hồng, Nửa hồn thương đau, Lệ đá xanh…
tuy ấm lòng gặp lại cố tri nhưng rồi anh đã không còn nguyên vẹn cảm xúc để
nghe lại những thanh âm ngày cũ. Anh đã nói không với những người mới muốn gặp
anh. Anh vẫn giữ thái độ đó khi sang định cư ở Mỹ. Sự khép kín ấy khiến Mai Thảo
đôi khi cũng phản ứng giận lẫy.
Hình : Thanh Tâm Tuyền & Doãn Quốc Sĩ
Rồi
cũng có một buổi gặp gỡ cuối 1982, từ nhà Nghiễm có Doãn Quốc Sĩ, Thanh Tâm Tuyền
và tôi cùng đi bộ tới một quán cóc cũng trên đường Trương Minh Giảng nơi gần đường
xe lửa. Thức uống của Nghiễm bao giờ cũng là một chai bia. Nhắc tới Tô Thuỳ Yên
Trường Sa Hành thì vẫn còn ở trong tù. Rồi chẳng ai nhắc tới nỗi
khổ hiện tại mà câu chuyện lại xoay quanh những người bạn may may mắn ở phương
xa. Những người đi thoát trước 1975, vài tên tuổi được nhắc tới: Thanh Nam Tuý
Hồng, Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Võ Phiến, Lê Tất Điều, Viên Linh... Nhưng rồi tên
Mai Thảo Bản Chúc Thư Trên Ngọn Đỉnh Trời vẫn như điểm hội tụ của những
tin tức. Anh là nhà văn duy nhất hiếm hoi thoát các vụ ruồng bắt của cộng sản
trong suốt hai năm sống lẩn lút ở Sài Gòn. Vẫn có nhiều người liều mạng che chở
cho anh. Trần Dạ Từ Tỏ Tình Trong Đêm cùng với rất nhiều nhà văn nhà báo
thì đang trong tù, Nhã Ca Giải Khăn Sô Cho Huế ra tù sớm phải cưu mang một
đàn con nhỏ nhưng cũng chính mấy mẹ con Nhã Ca đã bất chấp hệ luỵ cất giấu bác
Mai Thảo trong nhà, một căn phố lầu trên góc đường Tự Do, đây cũng là chặng ẩn
náu cuối cùng của Mai Thảo cho đến khi anh vượt biển rất sớm thoát được tới đảo
Pulau Besar Mã Lai đầu tháng 12, 1977.
Hai
năm sau Mai Thảo 1979, phải kể tới chuyến đi thừa sống thiếu chết của 81 thuyền
nhân trong số đó có Nhật Tiến Người Kéo Màn và thầy Từ Mẫn Lá Bối,
vợ chồng ký giả Dương Phục Vũ Thanh Thuỷ... và con tàu đã gặp nạn hải tặc Thái Lan trên biển rồi trên
đảo Kra, và cũng rất sớm qua ngòi bút của người chứng Nhật Tiến đã ghi lại những
thảm cảnh ấy và bắt đầu làm rúng động lương tâm thế giới. Cũng khởi đầu cho
phong trào Cứu Người Vượt Biển về sau này.
Sau
lần gặp gỡ nơi nhà Nghiễm, Thanh Tâm Tuyền chuẩn bị đi Mỹ theo diện HO, cho dù
“tâm thái” – chữ của TTT, vẫn gắn bó với một quê hương mà anh không muốn xa rời,
riêng tác giả Ba Sinh Hương Lửa lại vào tù tổng cộng 14 năm trước khi đi
định cư 1995 và gặp lại Mai Thảo ở Quận Cam.
Trên đường đi, tôi không thể không có ý
nghĩ nếu làm một con toán cộng những năm tù đầy của mỗi văn nghệ sĩ Miền Nam,
con số ấy phải vượt trên nhiều thế kỷ. Không phải chỉ có oan nghiệt giam cầm huỷ
hoại những thân xác, họ còn giết chết sức sáng tạo của văn nghệ sĩ trong khoảng
thời gian sung mãn nhất. Một nỗ lực huỷ diệt cả một nền văn hóa đến tận gốc:
trước lịch sử, ai phải nhận lãnh trách nhiệm cho những tội ác thiên thu ấy?
...
Tiểu
sử:
Dương Nghiễm Mậu tên
thật là Phí Ích Nghiễm, sinh năm 1936 tại Hà Đông, cùng năm sinh với Thanh Tâm
Tuyền, Thảo Trường. Học tiểu học trường Hàng Than, trung học Chu Văn An Hà Nội.
Cùng học 2 trường ấy nhưng Nghiễm hơn tôi 5 tuổi, có lẽ trên nhiều lớp nên
không được biết anh. 1954 di cư vào Nam. Từ 1957 viết nhiều tùy bút, đoản văn,
truyện ngắn, truyện dài cho Sáng Tạo, Thế Kỷ 20, Văn, Văn Học, Bách Khoa, Giao
Điểm, Chính Văn. Có một giai đoạn ngắn, Nghiễm sinh hoạt nơi Đàm Trường Viễn
Kiến của Nguyễn Đức Quỳnh Ai Có Qua Cầu. Từ 1962, làm tạp chí Văn
Nghệ với Lý Hoàng Phong, anh của nhà thơ Quách Thoại. Tập truyện ngắn đầu tay
Cũng Đành, Văn Nghệ xuất bản năm 1963. Truyện dài Gia tài Người Mẹ, giải thưởng
Văn Chương Toàn Quốc 1966. Nhập ngũ 1966 với cấp bậc hạ sĩ đồng hoá, làm phóng
viên chiến trường đến tháng 4/1975. Sau 1975 bị bắt, ra tù 1977, sống bằng nghề
sơn mài tại Sài Gòn.
Hình : Dương Nghiễm Mậu
2006_
Những Cơn Mưa Sài Gòn
Từ
một khách sạn nhỏ gần đường Tự Do, để tới khu nhà thờ Ba Chuông, đi bộ thì quá
xa, taxi thì nạn kẹt xe, tôi chọn Honda ôm, nhưng đã không tránh khỏi thót tim
vì mấy tay lái xe quá liều mạng: chạy nhanh len lách, ngược dòng xe cộ, cắt cả
lên vỉa hè đông người đi bộ mà anh ta cho là an toàn hơn đi theo luật giao
thông. Tuy không có mẩu giấy địa chỉ trên tay, nhưng có trí nhớ tốt về hình ảnh
/ photographic memory, tôi nghĩ vẫn có thể tìm ra nhà Dương Nghiễm Mậu vẫn
trong ngõ hẻm ấy cho dù đã nhiều năm không gặp. Nhà đã được xây lại, cất thêm một
từng lầu. Nghiễm nay là nghệ nhân sơn mài, chị Trang vợ Nghiễm thì vẫn dạy Anh
văn ở Marie Curie, hai con Nghiễm đã trưởng thành tốt nghiệp đại học và đi làm.
Cả gia đình đều làm việc cật lực để tạo được một cơ ngơi như hôm nay.
Khi
Nhà Văn là Con Bệnh
Tháng
9, 2006 gặp lại Nghiễm sau bao năm, khi anh vừa bước vào ngưỡng tuổi cổ lai hy.
Thanh Tâm Tuyền vừa mất trước đó 6 tháng [03/2006]. Như Phong Khói Sóng
mất đã 5 năm [12/2001], Mai Thảo Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền cũng mất
trước đó 8 năm [01/1998], cùng năm với Nghiêu Đề Ngọn Tóc Trăm Năm [11/1998].
Họ là những nghệ sĩ Việt Nam chọn tự do phải sống lưu vong và vùi thân ở một
nơi không phải quê nhà.
Nghiễm
thì vừa gặp nạn ở cái tuổi 70, khi đang đi bộ trên lề anh bị một xe gắn máy chắc
cũng lại xe ôm leo lên tông gẫy xương cổ chân, phải phẫu thuật bó bột gần 2 tuần
lễ rồi mà còn sưng đau, vẫn phải chống nạng. Nghiễm giỏi chịu đựng, không hề
than đau chính điều ấy khiến tôi quan tâm. Nghiễm cần được tái khám để có một ý
kiến thứ hai / second opinion. Tôi nghĩ tới một bạn đồng môn còn ở lại,
chuyên khoa chỉnh trực, giảng dạy ở Y khoa, bạn bè gọi anh là người có bàn tay
vàng trong phẫu thuật chấn thương chỉnh hình. Anh cũng có phòng mạch tư ngoài
giờ và tôi đề nghị đưa Nghiễm tới đó. Nghiễm thì lưỡng lự không muốn nhưng vì
tình bạn anh đã không thể nói không.
Không
có địa chỉ, nhưng biết phòng mạch Bs Võ Thành Phụng trên đường Lê Văn Duyệt, đối
diện với trụ sở Tổng Liên Đoàn Lao Công cũ. Với một cổ chân bị gẫy còn rất xưng
đau, thì lên và xuống taxi lúc này không phải là dễ dàng đối với Nghiễm. Cơn
mưa nhiệt đới thì vẫn cứ tầm tã từ nhà cho tới khi Nghiễm bước chân được vào
phía trong phòng mạch. Gặp chị Võ Thành Phụng, khi biết người bệnh là nhà văn
Dương Nghiễm Mậu, thì tôi hầu như không còn vai trò gì nữa. Chị là độc giả lâu
năm và rất quen thuộc với các tác phẩm của Dương Nghiễm Mậu, từ thời báo Văn,
Văn Nghệ và cả Sáng Tạo ngày nào, không kể những cuốn sách của Nghiễm mà chị đã
đọc. Phòng mạch đông khách, do sắp xếp của chị Phụng, Nghiễm là bệnh nhân mới
được ưu tiên khám trước. Anh Phụng cùng tôi đọc những tấm phim chỉ rõ xương cổ
chân gẫy chưa lành nhưng không nhiều di lệch nên không cần thêm phẫu thuật mà
là điều trị bảo tồn. Quá bận bịu với chuyên môn, anh Phụng có lẽ không là độc
giả của Dương Nghiễm Mậu như chị Phụng nhưng Nghiễm đương nhiên trở thành người
bệnh đặc biệt của phòng mạch anh chị hôm đó. Trời vẫn không ngớt mưa, trong
taxi trên đường về, tôi nói đùa với Nghiễm, trong cuộc đời viết văn, tôi chưa
bao giờ có hạnh phúc được gặp được một nữ độc giả tâm đắc và yêu văn chương đến
như vậy. Rất ít bày tỏ, như từ bao giờ Nghiễm chỉ đáp lại bằng một nụ cười hiền.
Hình : Dương Nghiễm Mậu
2012_
Từ Hải Ngoại Truyện.
Trước
1975, đọc Kinh Kha với con chủy thủ trên đất Tần bất trắc trong Nhan Sắc
để thấy truyện Dương Nghiễm Mậu là những tình huống và thái độ lựa chọn, rất biểu
tượng và nhiều ẩn dụ. Nghiễm viết truyện xưa mà nói tới nay. Kinh Kha
qua sông Dịch, chàng lọt vào được cung điện, khi đã kề đoản đao vào cổ Tần
Vương, nhưng thay vì run sợ, thì Tần Vương lại ngửa mặt cười. Và Kinh Kha chợt
hiểu ra tất cả: giết bạo chúa này sẽ lại có một bạo chúa khác… Và hình ảnh Kinh
Kha lầm lũi rời khỏi cung điện vẫn là nỗi đau không cùng, như một dự báo oan
khiên cho ngày hôm nay.
Từ
Hải Ngoại Truyện được Dương Nghiễm Mậu viết khoảng 10 năm sau 1975, [Gia Định,
2005]. Từ Hải là nhân vật được Dương Nghiễm Mậu khá nâng niu. Phí Ích Bành em
Nghiễm, trao cho tôi một phong bì với 16 trang chữ có ít dòng thủ bút của Nghiễm.
Đọc ngay những trang viết ấy để thấy một Từ Hải Ngoại Truyện nửa anh
hùng nửa thảo khấu, rất khác với nhân vật chính truyện khi chọn con đường bổng
lộc giam thân về chốn triều đình.
Hình : Thủ bút của
Dương Nghiễm Mậu
Một
trích đoạn về bối cảnh xã hội trong Từ Hải Ngoại Truyện: “một hôm thầy Khổng
ngồi xe đi trên đường thì thấy một bô lão bước tới vái chào, thầy Khổng cho dừng
xe lại, trong chốc lát cả một đám đông trẻ con gầy còm nhếch nhác vây quanh.
Ông lão nói: nghe thiên hạ nói thầy nhiều chữ nên tới xin một ít. Khổng Tử liền
mở cái hòm gỗ lấy ra một cuốn sách trao tận tay cụ già. Cụ già cầm lấy ngắm
nghía rồi lật những trang sách nhìn trên nhìn dưới rồi gấp lại đứa trả thầy Khổng
và nói: tôi không biết dùng cái này để làm gì. Có tiếng cười khả ố vang lên từ
một người trung niên ở trần, đóng khố: sách chẳng có giá trị gì đối với những
người không có cơm ăn và mù chữ. Ông hãy bước chân xuống ruộng, đi cày trồng
lúa rồi lấy thóc mà cho họ thì có ích hơn. Chuyện chỉ kể tới đó không cho biết
hành xử của thầy Khổng ra sao”.
Cũng
trong Từ Hải Ngoại Truyện, Dương Nghiễm Mậu viết về giới quan lại khoa bảng: “Trong
Sưu Tặc Ký những kẻ nổi lên làm giặc thường xuất thân là dân thuyền chài, kẻ cầy
ruộng, người chăn trâu, kẻ đốn củi; tuyệt nhiên không thấy có kẻ nào đậu tiến
sĩ, trạng nguyên. Không tên giặc nào có làm thơ làm phú, hoặc từng làm quan,
làm thầy giáo mà đi làm giặc. Ở những sách khác có viết về kẻ có chữ bất mãn
thường chọn cách viết sớ tâu lên: khi thì đòi chém tham quan ô lại, khi kêu ca
sưu cao thuế nặng khiền dân đen chết đói, khi kêu oan cho lương dân bị chết
chém... Những lá sớ lâm ly thảm thiết này thường không được nghe. Có kẻ dâng sớ
nhiều lần nhưng không thấy cởi bỏ áo mũ trở lại làm phó thường dân mà vẫn ung
ung tại vị hưởng bổng lộc của triều đình. Một đôi kẻ chấp bút có đôi chút tự trọng
thì chọn con đường ở ẩn, không chọn con đường làm giặc nên không có tên trong
Sưu Tặc Ký.”
Dương
Nghiễm Mậu viết những dòng cuối: “Từ những trang sách tới thực tế của chuyến
đi làm ta hoài nghi những ghi chép của người xưa... nhiều sách truyện đã để cho
Từ Hải chết đứng giữa trận tiền. Một anh hùng phải có cái chết anh hùng. Trong
ngoại truyện Từ Hải, cuối cùng Từ Hải đã chết nhưng chết một cách khác, không
phải cách chết đứng giữa trận tiền.”
Rồi
từ chuyện xưa mà hóa ra nay, Dương Nghiễm Mậu viết tiếp: “Nhiều sách tạo ra
những anh hùng như mô tả kẻ tự biến mình thành cây đuốc sống, lấy thân mình bịt
họng súng thần công, ôm bom lao vào quân giặc mà chết. Hầu hết những anh hùng
trong sách đó chẳng bao giờ người ta tìm ra tung tích.”
Tưởng
cũng nên nói thêm, căn nhà của gia đình Nghiễm không xa cây cầu Nguyễn Văn Trổi
trên đường Công Lý thời chống Mỹ, rồi không thể không nhắc tới “cây đuốc sống”
Lê Văn Tám đốt kho xăng Thị Nghè 1945 thời chống Pháp: một nhân vật mà sau này
Trần Huy Liệu, bộ trưởng Bộ Thông tin Tuyên truyền của Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa vào những ngày cuối đời đã trối trăng lại với đám môn sinh: Lê Văn Tám chỉ
là sản phẩm của tuyên truyền và không có thật.
Ba
mươi hai năm sau 1975, qua liên lạc vận động của nhà thơ Nguyễn Quốc Thái,
[cũng là người giới thiệu Phạm Duy đến với Công ty Phương Nam], nhà xuất bản
Phương Nam đã tái bản 4 tập truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu (Đôi Mắt Trên
Trời, Cũng Đành, Nhan Sắc, Tiếng Sáo Người Em Út), và truyện dài Nguyệt
Đồng Xoài của Lê Xuyên. Ngay sau đó, Vũ Hạnh, tuổi đã ngoài 80, như một đao
phủ đã không nương tay viết bài đấu tố Dương Nghiễm Mậu, Lê Xuyên, và quy tội
Công ty Phương Nam.
Vũ
Hạnh viết: “Sách của Dương Nghiễm Mậu thì nổi bật tính phản động tha hóa lớp
trẻ hầu đưa đẩy họ vào sự chống phá cách mạng, chống lại sự nghiệp giải phóng đất
nước khỏi sự thống trị của bọn đế quốc xâm lược, còn sách của Lê Xuyên là tính
đồi trụy." Vũ Hạnh viết tiếp: “Vì những lẽ đó, rất nhiều bức xúc,
phẫn nộ của các bạn đọc khi thấy Công ty Phương Nam ấn hành sách của ông Dương
Nghiễm Mậu… Đem những vũ khí độc hại ra sơn phết lại, rêu rao bày bán là một
xúc phạm nặng nề đối với danh dự đất nước.” Và rồi cũng Vũ Hạnh kể lể: “các
tác giả Dương Nghiễm Mậu, Lê Xuyên sống lại ở thành phố này vẫn được đối xử
bình đẳng, không hề gặp bất cứ sự quấy phiền nào." [Sài Gòn Giải
Phóng, 22/4/2007].
Tưởng
cũng nên ghi nhận ở đây, trước 1975 đông đảo thế hệ văn nghệ sĩ Miền Nam không
thiếu lòng nhân ái đã hơn một lần cùng vận động ký tên yêu cầu thả Vũ Hạnh. Vũ
Hạnh cũng được Văn Bút Việt Nam che chở, và khi bị kết án tù thì chính linh mục
Thanh Lãng, Chủ tịch Văn Bút đứng ra bảo lãnh, để rồi sau đó Vũ Hạnh lại công
khai ra ngoài họat động.
Sau
1975, nhiều nhà văn nhà báo miền Nam ấy đã chết rũ trong tù như Hiếu Chân Nguyễn
Hoạt, Hoàng Vĩnh Lộc, Nguyễn Mạnh Côn, Phạm Văn Sơn, Trần Văn Tuyên, Trần Việt
Sơn, Vũ Ngọc Các, Anh Tuấn Nguyễn Tuấn Phát, Dương Hùng Cường... hay vừa ra khỏi
nhà tù thì chết như Hồ Hữu Tường, Vũ Hoàng Chương. Nếu còn sống sót, đều nhất
loạt phải gác bút: Dương Nghiễm Mậu sống bằng nghề sơn mài, Lê Xuyên ngồi bán
thuốc lá lẻ ở đầu đường, Trần Lê Nguyễn tác giả kịch Bão Thời Đại thì phải
đứng sạp bán báo để độ nhật, Nguyễn Mộng Giác Đường Một Chiều làm công
nhân sản xuất mì sợi, Trần Hoài Thư Ngọn Cỏ Ngậm Ngùi ba năm ở tù ra trở
thành Người Bán Cà Rem Dạo.
Nghiễm
vốn tâm lành, nếu có ai nhắc đến chuyện Vũ Hạnh thì anh chỉ cười, giọng vẫn bao
dung, anh tin trên đời người tốt nhiều hơn kẻ xấu, kẻ xấu như vậy rốt cuộc họ
cũng tự thấy sai. Nghiễm có lạc quan quá không vì đã hơn 40 năm chịu khổ ải do
họ gây ra, nay đã tới tuổi gần đất xa trời mà sao họ vẫn“chưa tự thấy sai”
chưa hề biết sám hối. Một người bạn rất quen biết Vũ Hạnh nhận định: sự hung
hãn ấy chỉ như tấm bình phong – một thứ raison d’être, biện minh cho sự
hiện hữu của Vũ Hạnh còn như một người cộng sản.
“Ngày
Xưa Vũ Hạnh”
cộng sản nằm vùng vẫn được sống thênh thang, vẫn được đối xử như một nhà văn [Lý
Đợi, talawas 10.5.2007] “Ngày Nay Vũ Hạnh” bên thắng cuộc – tên bộ sách của
Huy Đức, thì vô cảm vênh váo, là tiếng nói hung hãn nhất trong Hội đồng
đánh giá Văn Học Miền Nam tại Thư Viện Quốc Gia. Vẫn một cliché, vẫn một
khẩu hiệu tung hô không suy xuyển: “tác giả là gốc ngụy, nội dung tác phẩm
là nô dịch phản động đồi trụy”. Vũ Hạnh xấp xỉ tuổi Võ Phiến, nay sắp bước
vào cái tuổi 90 vẫn cứ nhân danh “đảng ta, chèo lái con thuyền chở đạo” vẫn
không ngừng truy đuổi cả những thế hệ nhà văn trẻ nối tiếp có khuynh hướng tự
do, điển hình qua bài viết phê phán Nhã Thuyên và Nhóm Mở Miệng với hai cây bút
nổi trội là Lý Đợi và Bùi Chát [Thấy gì từ một luận văn sai lạc, Văn Nghệ
29/2013].
Có
lẽ tấn thảm kịch của Vũ Hạnh cũng như những người cộng sản tha hoá bước vào Thế
Kỷ 21 là sự “nguỵ tín/ mauvaise foi” họ sống với hai bộ mặt, vẫn không
ngừng hô hào cổ võ cho điều mà họ không còn chút tin tưởng. Vũ Hạnh vẫn không ngưng nặng lời
chửi rủa Mỹ, nhưng rồi vẫn gửi con cái đi du học rồi trưởng thành sống ở Mỹ; Vũ
Hạnh vẫn được ra vào nước Mỹ như một con người tự do.
Trở
lại với Nghiễm, nhiều người vẫn nghĩ rằng, sau 1975, ngoài thời gian bị tù đày,
đi làm sơn mài kiếm sống, Dương Nghiễm Mậu không còn viết gì. Điều này có lẽ
không đúng. Nghiễm không có sách mới xuất bản trong nước suốt 40 năm từ sau
1975. Nhưng Dương Nghiễm Mậu như tôi biết, anh vẫn viết, trong đó có “Tự
Truyện Nguyễn Du” như một tác phẩm lớn mà tôi tin là anh vẫn bền bỉ hoàn tất
từng trang sách.
Hình : Tranh sơn mài
của Dương Nghiễm Mậu
2015_
Mưa California Mưa Sài Gòn
California
vẫn khô hạn, nhưng thản hoặc cũng có những cơn mưa đủ tầm tã để gợi nhớ những
cơn mưa Sài Gòn, nhớ ngày tới thăm bạn cũng vào một buổi chiều mưa như vậy, với
những khúc đường xá thì ngập lụt.
Hạnh
phúc ở xa là có được một người bạn như Nghiễm, cho dù ở đâu và bao giờ có biến
động ra sao thì vẫn cứ là một Dương Nghiễm Mậu với Nhan Sắc ấy, nhất
quán và xác tín như thuở nào: có cái dũng để nói không.
Tôi
nghĩ tới Nghiễm, anh đã sống trong dòng chính sinh hoạt Văn Học Miền Nam, từ rất
sớm cho tới 1975, và 40 năm sau anh vẫn thăng trầm với vận nước ngay trên quê
nhà. Anh là một nhân chứng khả tín cho suốt thời kỳ ấy và điều anh viết ra được
mọi người tin.
Lời
Cuối Cho Bài Viết
Dự
định khởi đầu là một bài viết về cố tri Dương Nghiễm Mậu, với cuộc hành trình
40 năm của anh. Bài viết chỉ với hơn bảy ngàn chữ, nhưng rồi không tránh
được, như một flashback, có thêm những khúc phim trắng đen ngắn của hồi tưởng rất
chung và cả rất riêng tư, khá rời rạc đổ tràn theo những trang viết.
Hình : Trần Hoài Thư
Vậy
mà đã 40 năm qua đi 1975-2015, với đời người như một cơn gió thoảng, với lịch sử
chỉ là một chớp mắt, nhưng lại là một chặng đường rất dài trải nghiệm những
tang thương. Thêm một chớp mắt nữa, thế hệ những người cầm bút 1954-1975 đều trở
về với cát bụi, một số có thể còn được nhắc tới qua tác phẩm nhưng rồi cũng phải
kể tới cuộc sống đầy đoạ và cả những cái chết tức tưởi của họ. Nói tới Văn
Học Miền Nam, không thể không có một “cuốn sách trắng/ livre blanc” về thời kỳ
đó, một Wikipedia mở, như một “bộ nhớ” cho các thế hệ Việt Nam tương lai.
Trong
quá trình phục hồi di sản Văn Học Miền Nam, không thể không nhắc tới một tên tuổi:
Trần Hoài Thư – Thư Quán Bản Thảo, anh có hùng tâm và đơn độc trong suốt nhiều
năm nỗ lực khôi phục lại những văn bản của một thời kỳ văn học bị truy lùng và
huỷ diệt.
Không
phải là quá sớm để ghi lại một giai đoạn lịch sử trung thực, chứ không phải là
“phiên bản” nguỵ tạo mà người cộng sản đã và đang làm. Trước khi lịch sử bước
qua một trang khác.
NGÔ
THẾ VINH
Sài
Gòn 1975 – California 2015
No comments:
Post a Comment