Kalynh
Ngô/Người Việt
Saturday,
December 6, 2014 8:19:21PM
VIDEO
: Hội Thảo 20 Năm Văn Học Miền Nam, 1954 - 1975
WESTMINSTER, CALIFORNIA (NV) – Tám nhà văn, nhà thơ từ Úc Châu, Boston và các thành phố khác ở California tề tựu về tòa soạn Nhật báo Người Việt cho ngày đầu tiên của Hội Thảo 20 Văn Học Miền Nam 1954-1975.
Hội
thảo 20 năm Văn học miền Nam. (Hình: Kalynh/Người Việt)
Hội
thảo 20 năm Văn học miền Nam. (Hình: Trần Triết)
Nguyễn
Hưng Quốc: VHMN, nền văn học “bất hạnh”
“Tổng
quan văn học miền Nam 1954-1975” là nội dung phần khai
diễn của nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc, đến
từ Úc Châu.
Có
ba điều được ông nhắc đến ngay khi bắt đầu phần
thuyết trình. Điều đầu tiên ông gọi là “sự bất
hạnh của văn học miền Nam.”
“Văn
học miền Nam từ 54-75 là một trong những nền văn học
bất hạnh nhất trong lịch sử văn học Việt Nam” khi
tất cả những tác phẩm văn học đã in và xuất bản
trước 75 đều bị tịch thu và tiêu hủy. Thay vào đó,
họ chỉ thừa nhận văn học Việt Nam có một thành phần
duy nhất là “văn học hiện thực XHCN do Đảng và nhà
nước lãnh đạo.”
Văn
Học Miền Nam (VNMN) bị cả một hệ thống truyền thông
hùng hậu đả kích. Có hàng ngàn bài báo khác nhau nhằm
mục tiêu duy nhất là mạ lụy xuyên tạc văn học miền
Nam. Có rất nhiều cuộc hội thảo mang tầm vóc quốc gia
chỉ với một mục đích duy nhất là phản lại văn học
miền Nam.
Họ
cho nền văn học miền Nam là “nền văn học sai lầm,
độc hại, phản lại dân tộc, một tội ác.”
Ghi
nhận thứ hai của ông, mặc dù bị trấn áp, VNMN vẫn
tồn tại, trước hết là ở cộng đồng người Việt
hải ngoại. Những tác phẩm của văn học miền Nam trước
đó được bảo tồn bằng cách được tái bản, nổi
tiếng nhất là Bộ Văn Học Miền Nam của nhà văn Võ
Phiến.
Điều
này, nhà văn Phạm Phú Minh, trong phần thuyết trình về
“Tình hình xuất bản và phát hành tại miền Nam
1954-1975” sau đó cũng nêu lên: “Những tác phẩm ấy bị
dấu diếm trong những gánh ve chai hoặc lưu lạc trong
những tiệm sách cũ.”
Nhờ
vậy mà có những người ở miền Nam được tiếp tục
đọc những tác phẩm họ yêu mến.
“Một
nền văn học lớn và lớn ở nhiều khía cạnh,” là
điều ghi nhận thứ ba của nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc
về tổng quan VNMN 1954-1975. Theo ông, nền văn học đó
“lớn” từ sáng tác, nghiên cứu phê bình, dịch thuật
cho đến những nhà văn tiêu biểu, những người có công
khai phá kỹ thuật mới lạ, phong cách hay và độc đáo
cho đến tận 40 năm sau.
Tuy
nhiên theo ông, đứng về phương diện lý thuyết, kỹ
thuật, chúng ta chỉ thấy được cái hay và lớn của
VHMN với hai điều kiện: nhìn nó trong cả một quá trình
phát triển của văn học miền Nam nói chung và phải so
sánh với nền văn học miền Bắc trong cùng giai đoạn.
Quan trọng là cả hai sự so sánh đó phải dựa trên vấn
đề mỹ học chứ không dựa vào vấn đề chính trị.
Theo
nhận định cá nhân của ông thì văn học hiện đại
miền Nam có từ thập niên 1930 khi có sự xuất hiện của
Tự Lực Văn Đoàn và phong trào thơ mới. Trước đó, từ
cuối thế kỷ 19 trở về trước ông gọi là văn học
trung đại. Từ cuối thế kỷ 19 cho đến đầu thập niên
1930 gọi là văn học cận đại, hay giai đoạn chuyển
tiếp giữa văn học trung đại và cận đại.
Có
ba đặc điểm nổi bật của giai đoạn trung đại ông
muốn nhấn mạnh: tính chất nguyên hợp; tính chất quy
phàm và tính chất phi ngã.
Nguyễn
Hưng Quốc dẫn giải nhận định của nhà phê bình Hoài
Thanh trong quyển Thi Nhân Việt Nam mà ông cho rằng “xuất
thần,” đó là: “Tất cả văn thơ thời xưa và thời
nay có thể bao quát trong hai chữ 'ta' cho văn học thời
trước và chữa 'tôi' cho văn học thời nay.”
Chữ
“tôi” và “ta” đó không chỉ là cách xưng hô mà nó
là quan điểm và cách nhìn trong cuộc sống. Văn học thời
chữ ta là văn học nhắm đến cộng đồng, văn học thời
chữ tôi mang tính cá nhân chủ nghĩa.
“Bước
tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa.” (Bà Huyện Thanh Quan)
Cỏ cây chen đá lá chen hoa.” (Bà Huyện Thanh Quan)
Một
cảm giác bơ vơ lạc lõng của con người khi đứng giữa
cái mênh mông của trời và đất.
hay:
hay:
“Đi
không há lẽ lại về không
Cái nợ cầm thư quyết trả xong.” (Nguyễn Công Trứ)
Cái nợ cầm thư quyết trả xong.” (Nguyễn Công Trứ)
Những
câu thơ nói lên ý chí của người trai thời Nho học nói
chung.
Đây
là ví dụ cho “nền văn học chữ ta,” một nền văn
học hoàn toàn vượt qua tính chất phi ngã để nói lên
cái tôi một cách đầy tự hào và sảng khoái.
Qua
những câu thơ của TTKH, của Nhã Ca, của Vũ Hoàng Chương,
Bùi Giáng, ông luận rằng: “Người ta nhìn số phận con
người thông qua số phận của giới tính nói chung.”
Bên
cạnh đó, nói về thơ miền Bắc từ 54-75, ông cho rằng:
“Nó hoàn toàn xóa sạch cái tôi cá nhân chủ nghĩa, nó
nhắm đến cái chung.”
Toàn
bộ văn xuôi ở miền Bắc từ 54-75 đều tập trung đến
hai đề tài lớn là tổ quốc và XHCN. Trong đó người ta
ca tụng thành công của CNXH, con đường xây dựng CHXH.
Hai
đặc điểm nữa của VHMN được Nguyễn Hưng Quốc đề
cập đến là: “Nó xoáy sâu đến cái tôi cá nhân chủ
nghĩa của từng người, khác với văn học miền Bắc là
nhắm đến cái chung của tập thể, dân tộc.”
Từ
đó, ông nói rằng “văn học miền Nam mới hơn văn học
miền Bắc. Hay nói cách khác là văn học miền Bắc lạc
hậu hơn so với văn học miền Nam ít nhất nửa thế kỷ.”
Những
nhà văn nhà thơ ở miền Bắc sau này khi nhìn lại nền
văn học của họ cũng phải thốt lên rằng đó là một
nền văn học vô nhân đạo, xóa bỏ cái thâm tình giữa
con người với con người. Họ đã tự lừa dối mình
trong giai đoạn 54-75.
Nguyễn
Hưng Quốc còn trích dẫn rất nhiều những câu thơ, và
cả tiểu thuyết để nói rằng “nền văn xuôi của miền
Bắc được xây dựng trên nền mỹ học của bạo động,
ca ngợi hành động giết người kể cả những đồng
chúng của họ.”
Ngược
lại, ở miền Nam, không có một câu thơ bài văn nào ca
ngợi và xem đó là anh hùng. Họ không xem “đường ra
trận hôm nay đẹp lắm.”
Nhà
phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc. (Hình: Kalynh/Người
Việt)
Đặc
điểm thứ ba là VHMN phát triển theo xu hướng đa dạng
hóa trong khi văn học miền Bắc chỉ có một chữ “mục.”
Nó chỉ có một sự lãnh đạo đó là Đảng Cộng Sản;
một tổ chức duy nhất đó là Hội Nhà Văn Việt Nam; một
thế giới quan duy nhất là chủ nghĩa Mac Lenin; một lý
tưởng duy nhất là chống phá miền Nam, một phong cách
duy nhất là giản dị, thậm chí giản đơn.
Luận
điểm cuối cùng nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc cho rằng
VHMN 54-75 không những đa dạng hơn văn học miền Bắc
cùng thời mà còn đa dạng hơn cả thời kỳ 30-45.
Bùi
Vĩnh Phúc: Chỉ 20 năm nhưng vô cùng quan trọng
Để
phân tích về chữ “phẩm” và ý nghĩa của VHMN 54-75,
giáo sư Bùi Vĩnh Phúc nói rằng “phải rất nhiều thế
hệ mới nói hết được.”
“Đó
là một thành tựu, đóng góp của văn học Việt Nam cuối
thế kỷ 20. Trong 20 năm nhưng sự tồn tại của nó rất
quan trọng. Nó chia sẻ những thân phận và tình cảm của
con người, gần gũi với nền văn học thế giới.”
Trong
thời gian ấy, miền Bắc cũng có một nền văn học
riêng, mang giá trị riêng, nằm trong một cái khung kiểm
soát về văn hóa và tư tưởng. Nó mang tính sử thi, tô
hồng cuộc chiến trong âm hưởng và giai điệu.
Ông
luận rằng nền văn học đó đã tự chặn đứt nhịp
cầu nối tiếp với nhân loại.
Từ
năm 75 đến nay, những người ông gọi là “cầm chịch”
nền văn học ở Việt Nam bằng cách vô thức hay hữu
thức chỉ cản nhận văn học thời kỳ đó chỉ là những
tiếng khải hoàn, tiếng reo hò thúc quân, tiếng trống
trận. Về hình ảnh thì chỉ có những bộ đồng phục
là chủ yếu.
Trong
tất cả những tài liệu nghiên cứu, học tập không có
sự có mặt của VHMN, nếu có chỉ được nhắc đến với
tính cách chiếu lệ. Giai đoạn đó đã xuất hiện Nhân
Văn Giai Phẩm ở miền Bắc nhưng nó bị “bóp nghẹt.”
Nói
về phẩm tính của nền văn học này, ông khẳng định
người ta phải thấy sự cưu mang của nó cho dù là trong
tiếng đạn bơm, gào thét trong bóng tối về thân phận
con người.
Bốn
phẩm tính nổi bật của giai đoạn văn học này, theo
giáo sư Bùi Vĩnh Phúc:
Một
nền văn học phát triển liên tục từ thời tiền chiến.
Một
nền văn học mang tính liên thông với thế giới.
Một
nền văn học mang tính nhân bản và nhân văn.
Một
nền văn học khai phong, đa sắc và đa dạng.
Trần
Doãn Nho: VHMN, rừng hoa bạt ngàn
Nhà
văn, nhà giáo Trần Doãn Nho nói về “Tính văn học”
trong văn học miền Nam.
“Nền
văn học đô thị” là cách mà nhà văn Trần Doãn Nho gợi
tả về văn học miền Nam. Vì theo ông, nền văn học đó
“bị nhìn trên một nhãn quan hạn chế, giới hạn trong
tiêu chuẩn dân tộc, giai cấp.”
Tác
giả, nội dung, hình thức là ba đối tượng được ông
dùng để nói về tính văn học của VHMN.
Theo
ông, nội dung của tác phẩm giai đoạn này có tính nhân
bản, bi kịch và hiện thực. Các tác phẩm VHMN có tính
người, có khóc, có đau thương, có sự dằn vặt của
chia lìa. Bài thơ “Chuyến hành quân đầu đời” của
Huy Văn là một dẫn dụ.
Tính
bi kịch của VHMN nằm trong cuộc sống cá nhân, trắc trở
giàu nghèo, xa cha me, vợ chồng. Và hơn nữa đó là sự
chia cách của đất nước do chiến tranh. Tính bi kịch này
không còn là một hình ảnh tiêu biểu, mà với ông, nó
trở thành “một câu hỏi lớn về thân phận của con
người trong chiến tranh.” Nó phơi bày trần trụi bi kịch
của con người. Cho nên, nó luôn là một thao thức, một
câu hỏi trong từng tác phẩm.
Về
tác giả, ông nói rằng những người cầm bút giai đoạn
này là “những người viết như một hành vi đi tìm tự
do.” Đối với họ, là nhà văn hay nhà thơ chính là một
lựa chọn tự do.
Về
hình thức, ông khẳng định “VHMN là một rừng hoa bạt
ngàn với các xu hướng khác nhau. Đó chính là sự đa
dạng.”
VHMN
dưới cái nhãn quan của nhà văn Trần Doãn Nho là một
kính vạn hoa, soi rọi từng ngóc ngách của cuộc sống.
Du
Tử Lê: Nền văn học nhân bản
Trong
chưa đầy nửa giờ, nhà thơ Du Tử Lê đã khắc họa một
nền VHMN phong phú, nhiều màu sắc với ba thành phần
chính: nhà văn nhà thơ gốc Bắc, gốc Trung và gốc Nam
Bộ.
Tất
cả những nhà thơ nhà văn đó, theo nhận định của ông,
họ không bị bắt buộc hay nhận chỉ thị phải viết
theo cái này cái kia. Những tác phẩm của họ mang tính
nhân bản, toát lên cái tôi trần trụi. Cái tôi của họ
khác hẳn với cái tôi trong thơ văn thời tiền chiến.
Ông
ca tụng 20 nhà văn nữ của VHMN xuất hiện nổi bật thời
đó. Đặc biệt, nhà thơ Nhã Ca hoàn toàn “nói không”
với tính dục trong những tác phẩm của bà.
Một
đặc điểm của VHMN 54-75 được nhà thơ Du Tử Lê đề
cao đó là sự thay đổi cách viết, mà điển hình là nhà
văn Mai Thảo.
Ông
ca ngợi VHMN đã dám “xóa bỏ vạch phấn” mà văn học
tiền chiến không chạm đến, đó là đả kích tôn giáo
trong tác phẩm.
Hoàng
Ngọc-Tuấn: Cần thiết của sự “tự tin”
Là
nhà phê bình, cũng là nhà soạn nhạc đến từ Úc Châu,
Hoàng Ngọc-Tuấn nói về “ảnh hưởng của Tây phương
trong thơ miền Nam.”
Sự
ảnh hưởng Tây phương nhiều nhất mà ông cho rằng có
mặt trong thơ miền Nam, đó là “tự do luyến ái và ý
tưởng.” Thậm chí, cái ảnh hưởng đó đến từ nhạc
jazz, mà điển hình là thơ của nhà thơ Thanh Tâm
Tuyền.
Theo
ông, khi con người, đất nước có sự tự tin thì sẽ có
ảnh hưởng từ nước khác. Chính sự khác nhau đó sẽ
mang tính thế giới, kết hợp Đông Tây. Và từ đó, con
người ở khắp nơi trên trái đất có thể cảm nhận và
nhìn thấy, nghe thấy mình trong đó.
Sự
luận này của ông đã trả lời cho câu hỏi do chính ông
nêu ra ngay từ đầu: “Sự ảnh hưởng đó tốt hay xấu?”
Phạm
Phú Minh: VHMN tạo nên một truyền thống
“Sách
viết ra mà không có nhà xuất bản coi sóc, in ấn, không
có nhà phát hành phân phối để tới tay người dân mua
về đọc và thưởng thức, thì coi như cuốn sách đó
chưa hiện hữu trong đời sống của một quốc gia, của
một cộng đồng,” nhà văn Phạm Phú Minh đã nói như
thế trong phần thuyết trình về tình hình xuất bản và
phát hành tại miền Nam trước 1975.
Ông
cho biết công việc này trước 1975 hoàn toàn là hoạt
động của tư nhân. Cho đến thời gian từ 1954-1975 thì
sách xuất bản phải được kiểm duyệt. Sau khi kiểm
duyệt xong thì công việc xuất bản hoàn toàn theo các quy
luật thị trường.
Một
hình thức xuất bản khác mang tính điển hình cho giai
đoạn này mà ông cho là sẽ rất thiếu sót nếu không
nhắc đến, đó là các tiểu thuyết “feuilleton” trên
báo hàng ngày. Đây là dạng những tiểu thuyết dài, đăng
nhiều kỳ trên báo. Truyền thống này, theo nhà văn Phạm
Phú Minh, đã được giữ mãi trong báo chí miền Nam, ngày
càng phong phú và đa dạng cho đến 30 tháng Tư, 1975.
Trịnh
Thanh Thủy: Ý thức nữ quyền trong sáng tác
Nhà
văn nữ duy nhất trong buổi hội thảo đầu tiên về 20
năm văn học miền Nam, Trịnh Thanh Thủy nói về “ý thức
nữ quyền trong tác phẩm của các nhà văn nữ từ 54-75.”
Theo
bà, những nhà văn nữ của giai đoạn văn học đó “viết
và tư duy như một phụ nữ” khi họ “dùng ngòi bút của
mình để bày tỏ lập trường cá nhân. Đối với Trịnh
Thanh Thủy, họ “viết bằng mực máu nhỏ từ tim.”
Nhã
Ca, Túy Hồng, Lệ Hằng, Nguyễn Thị Thụy Vũ là những
nhà văn nữ mà Trịnh Thanh Thủy nhắc đến “như một
hiện diện của những bông hoa rực rỡ.” Những bông
hoa đó tỏa một mùi xạ hương rất âm tính trong khu vườn
văn học.
Buổi
hội thảo còn tiếp tục một ngày nữa, Chủ Nhật, 7
tháng 12, 2014.
No comments:
Post a Comment