21/12/201400:52:00
Chúng tôi may mắn nhận được thi tập “Gió thổi phương
nào” của nhà thơ Lê Phạm Lê gởi tặng. Nhà thơ vốn là một cựu giáo chức dạy môn
Việt văn ngày trước, do đó đối với tác giả ,thơ dễ dàng thẩm nhập vào tâm hồn
là một điều tất yếu.
Thi tập “Gió thổi phương nào” gồm có : Trên bước đường
lưu lạc, Tình hoài hương, Quê hương thứ hai, Trở về quê cũ, Viết cho gia đình,
Viết cho bạn bè.
Chúng tôi mời qúi bạn đọc đi vào thế giới thi ca của
nhà thơ nữ Lê Phạm Lê qua từng trang sách một.
Tâm trạng khắc khoải của những hồn gìa lúc nào cũng
theo dõi dấu chân di trú của đàn con, cuộc vượt thoát bằng thuyền qua những hải
trình đầy nguy khốn, gian nan- sự canh chừng cuả những con mắt cáo, bảo tố, an
tòan thuyền bè và nhất là nạn hải tặc đang mỗi ngày càng gieo kinh hoàng trên
biển.
Chúng ta hãy nghe tác giả bàng hoàng thảng thốt:
“ Hung tin từ
Úc đưa về
Rằng tàu cập
bến chẳng hề thấy tôi”
( Gieo gió trang 15)
Hay xót xa tột cùng:
“ Mẹ cha vật vã gào la
Khóc con bỏ cuộc, đường xa hải hồ”
( Gieo gió trang 15)
Và tình mẹ bao la đã gây kích xúc cho tác giả viết
nên những lời đầy cảm khái.
“ Quấn con ấm
áp đông buồn
Tôi, dòng
sông nhỏ xa nguồn, bơ vơ
( Món qùa trang 20)
Những ngày đầu tạm cư đầy trống vắng, hụt hẫng; tình
thầy trò được tác giả ngợi ca qua những lời bình dị mộc mạc: “ Thưa cô ngủ tạm đêm đầu ,nhà em” (
Tình cờ trang 21) và niềm hy vọng lúc nào cũng rực sáng, thôi thúc tác giả phấn
đấu vượt qua những trở ngại. Bidong chắc hẳn đã là một kỷ niệm đẹp buồn cho đời
lưu vong tỵ nạn của tác giả? “ Cho niềm
hy vọng một lần hồi sinh ( Tình cờ trang 22)
Một bài thơ không diễn tả về mẹ, nhưng đã hàm chứa bằng
vạn lời . Trên bước đường tạm dung, không nỗi ưu tư nào hơn khi trẻ thơ đau ốm,
cần được chửa trị. Và một quyết định rạch ròi từ khước không để con mình phải uống
chung bầu sửa với các trẻ bệnh khác mà người y tá vì thiếu phương tiện hay vì một
lý do nào đó trao.
“ Sợ lây bệnh
hiểm nghèo,
Người mẹ
đành bế con ra khỏi chiếc nôi
Lặng lẽ rời
bệnh viện
Phó mặc những
gì sẽ xảy ra
Đêm trôi qua
Bình minh vừa
ló dạng từ chân trời xa lạ
Người mẹ ngồi
co rúm
Manh áo mỏng
che da…”
( Viễn khách trang 23)
Sự thử thách tình mẹ thương con lại được thể hiện cụ
thể hơn:
“ Một phụ nữ
Mã Lai đeo đầy nữ trang
Chăm chú nhìn
Đứa bé mắt
nai tròn ngơ ngác
Hỏi người mẹ
xin đổi con bằng vàng”
( Viễn khách trang 26)
Những khốn khó, chật vật buổi đầu nơi hoang đảo
Bidong, nỗi nhớ thương quê nhà trĩu nặng, nhưng rồi chức nghiệp lại dấy lên
trong lòng tác gỉa .
“ Mở lớp học
nghèo bên bờ kinh
Cửa Khổng,
sân Trình mấy môn sinh
Học trò bó gối
bên sàn hẹp
Cô nhớ ngày
xưa buồn một mình”
( Trên đảo Pulau Bidong trang 28)
Dường như có một chút xót xa chảy tràn trong tâm hồn
tác gỉa!?
Rồi cũng có một ngày xa rời Bidong về miền đất mới,
đất của hy vọng, đất của tự do, đẩy lùi bóng đêm qúa khứ. Tình hoài hương khắc
khoải tìm về, nhớ song thân, nhớ kỷ niệm thời đi học, vùng trời mà tác giả đã
thở khi còn thơ cho đến trưởng thành.
“Có đêm nao
mẹ ngưng cầu nguyện?
Có ngày nào
mẹ được thảnh thơi?
( Mẹ trang 36)
Hoặc hệ lụy trong tình thân:
“ Sài gòn
đang giấc ngủ say
Thương người
em nhỏ tóc mây bềnh bồng
Thẫn thờ đứng
tựa bên song
Nhìn theo
bóng chị ruổi dong cuối trời”
( Bên kia bờ đại dương trang 43)
Hay rõ nét hơn khi đàn chim non từ gỉa mái ấm gia
đình bay về phương trời xa, lòng mẹ se sắt đến dường bao!. Sân ga, dĩ nhiên hẳn
buồn vì thường là nơi tiễn đưa hơn sum họp?.
“ Tiễn con
trên bến ga chiều
Lối về quạnh
quẽ, lòng hiu hiu buồn
Còi tàu văng
vẳng đêm sương
Thoảng trong
hương gió điệu thương ngọt ngào.
( Lưu luyến trang 40)
Tâm trạng luôn ray rức nhớ quê nhà, đi giữa lòng quê
người vẫn cảm thấy mình lạc lõng bơ vơ, tự vấn,tự se sắt hỏi lòng- ta từ đâu đến
và tại sao ta ở nơi này. Trong tâm thức bềnh bồng lại càng xé nát tâm hồn nhà
thơ nữ:
“ Tôi vẫn đi
mệt nhoài
Giữa lòng phố
miệt mài nắng đổ
Mồ hôi từng
cơn gầy da thịt
Trời không
mưa sao đại lộ bỗng mờ ?
Tóc rối trên
vai bơ phờ
Buồn như
chim non bơ vơ
Không còn tổ
ấm
Khi cơn mưa
chiều vừa tạnh
Âm thầm nghe
khóc cả trời xanh.
( Chuông nhà thờ trang 50)
Tình cảm gia đình dường như lúc nào cũng quyện
kín trong tâm hồn tác giả. Cuộc sanh ly đôi khi nhuốm màu tử biệt. Chúng ta hãy
nghe những lời thổn thức rướm máu của tác giả:
“ Tháng hai
con đem ba về gấp
Hẹn gặp em ở
phi trường tân Sơn Nhất
Đem ba vào bệnh
viện
Ngày đi, mẹ
ba bịn rịn tiễn đưa
Sài gòn mưa
bụi lưa thưa
Nỗi buồn
chia ly sao nói cho vừa…
( Thăm nhà trang 67)
Để rồi:
“ Ba ơi thôi
đã hết rồi
Nghìn thu
yên giấc, cõi đời lìa xa
( Một nén hương lòng trang 71)
Tình phụ tử cao xa vời vợi, có thể đã ám ảnh tác giả
trong mọi sinh hoạt đời thường?.Trái tim giàu cảm xúc của người con hiếu thảo
và một tâm hồn thơ bén nhạy nên dễ dàng bật khóc vào mỗi đêm dài chăng?.
“Lạ lùng
thay giấc chiêm bao
Ba về thăm một
mưa rào sớm mai
Vẫn măng tô
dạ ngày nào,
Ung dung đặt
chậu hoa mai trước nhà
Vui mừng tiếng
trẻ reo ca,
Buổi ngâm
thơ, tính mời ba tháp tùng
Mưa rào-giọt
ướt, giọt không,
Ly cà phê Mỹ,
bếp hồng Việt Nam
Đang vui con
bỗng bàng hoàng
Nhớ bài thơ
biệt đã làm tiễn ba
Thực, hư vẫn
nghĩ chưa ra,
Bừng cơn mộng,
vẳng tiếng gà gáy trưa.
( Cõi hồn trang 78)
Lời gởi cho một người bạn thân quen khi trở lại quê
nhà, tác giả đã nhắn nhủ, gởi trọn tim mình theo những dòng sông , cánh đồng,
biển cả mênh mông, những cụ đồ gìa, những rặng núi xanh, cao nguyên đất đỏ, một
chiều sương thu… Tha thiết, hoài mong, những ảnh hình đơn sơ, thân thuộc ấy,
khi chia cách lại là những vết kim đâm thấu trái tim người.
“ Mai anh về
Việt Nam
Thăm giùm
tôi vùng cao nguyên đất đỏ
Đà lạt, quê
hương tôi đó
Người đi
chưa quên “ Thành phố hoa đào”
Và kỷ niệm của một thời yêu thương tuổi nhỏ
Xin gởi theo
anh một chút gió đầu thu
Cho áo ai
bay một chiều sương mù
Xin gởi theo
anh cụm mây trời phiêu lãng
Và chút tình
thương mến rất Việt Nam”
( Gởi về bên ấy trang 86)
Qua “ Gió thổi phương nào” , chúng ta đã được tác giả
trình chiếu những đoạn phim rời về chân dung của một người nữ tỵ nạn; những ưu
tư khắc khoải, những phấn đấu nơi miền đất mới và cuối cùng mùa thâu hoạch đã
thành công viên mãn.
Ngoài ra, một đặc điểm cao quí rất đáng được chúng
ta mến mộ, đó là sự vị tha, trái tim nhân ái của tác gỉa :
” Đời sao lắm
việc bất ngờ- Mất khăn có kẻ nghi ngờ cho ta- Món qùa
trang 20”
Hoặc:”
Giật mình sao lại là tôi- Làm gì nên tội cho người đổ oan- Cát dã tràng
trang 48”.
Những câu thơ đẹp chúng ta có thể bắt gặp trong thi
tập:
“ Tôi dòng
sông nhỏ xa nguồn bơ vơ”
(Món qùa trang 20)
Hoặc nhẹ nhàng thanh thoát:
“ Cắt lá mây
rừng trên đỉnh núi
Mang về đan
vách chắn niềm đau”
( Trên đảo Pulau Bidong trang 27)
Hay lời than thở, thầm thì cùng sóng biển:
“ Con gào
khóc giữa rừng khuya u uất
Đại dương buồn
thôi dậy sóng trùng khơi
(Đêm thâu trang 29)
Ngôn từ “ sầu dư” được tác giả sử dụng thật tuyệt vời:
“ Bềnh bồng
sóng nước vô tư
Gió xuôi đưa
mối sầu dư sang bờ”
(Đơn sơ trang 30)
Chúng tôi cảm ơn tác gỉa Lê Phạm Lê đã cho chúng tôi
sống lại một thời qúa vãng mà bụi khói quê người, có thể hay ít nhiều, làm nhạt
nhoà trong ký ức và nhà thơ chắc hẳn còn giữ riêng cho mình như là một kỷ vật của
thời tăm tối nhất trên quê hương và cho chính thân phận tác gỉa ?.
Và chúng tôi hy vọng sẽ được đón nhận những thi tập
khác cuả tác giả trong một tương lai gần.
“Gió
thổi phương nào “được in bởi United States of America năm 2003
- Design by Luu Tran Nguyen
-
Illustrations by Vũ Hối
-
Ảnh Thanh Kim Le và Nathan McKnelly
Lâm
Hảo Dũng
(PTT)
Van,BC- Can- Dec 19-2014- 5H39’pm
No comments:
Post a Comment