Carlyle A. Thayer*
LIỆU BẢN HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN DOC CÓ LÀM DỊU CĂNG THẲNG Ở BIỂN ĐÔNG? ĐÁNH GIÁ NHỮNG DIỄN BIẾN TRƯỚC VÀ SAU KHI KÝ KẾT
Tài liệu tham luận tại Hội thảo Khoa học Quốc tế lần thứ ba, chủ đề “Biển Đông: Hợp tác vì an ninh và phát triển trong khu vực”, do Học viện Ngoại giao và Hội Luật gia Việt Nam tổ chức tại Hà Nội, ngày 4-5 tháng 11 năm 2011
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
Posted by basamnews on 03/12/2011
Tóm tắt: Bài viết đánh gia những diễn biến gần đây tác động đến an ninh ở Biển Đông trước và sau khi thông qua Bản hướng dẫn Thực hiện Tuyên bố về ứng xử của các Bên trên Biển Đông vào tháng 7/2011. Phần đầu của bài viết đưa ra một đánh giá so sánh về sự áp đặt hung hăng (aggressive assertiveness) của Trung Quốc trong quan hệ với Philippines và Việt Nam và phản ứng của các nước này trước khi ký kết bản Hướng dẫn. Phần 2 của bài viết đánh giá vai trò của Bản hướng dẫn Thực hiện DOC đối với an ninh ở Biển Đông. Phần 3 xem xét các diễn biến sau khi Bản hướng dẫn được thông qua, tập trung vào quan hệ song phương giữa Trung Quốc với Philippines và Việt Nam và quan hệ Trung – Ấn. Bài viết kết luận bằng lập luận rằng các dàn xếp song phương giữa Trung Quốc và các quốc gia yêu sách khác là cần thiết nhưng không phải là điều kiện đủ để duy trì an ninh ở Biển Đông chừng nào mà Trung Quốc còn tiếp tục áp đặt “chủ quyền không thể tranh cãi” đối với vùng biển.
Giới thiệu
Bài viết xem xét các diễn biến tác động đến an ninh Biển Đông trong năm 2011. Trước tiên, bài viết thảo luận sự áp đặt của Trung Quốc trong nửa đầu năm 2011 và đối chiếu với các diễn biến trong nửa cuối năm sau khi Trung Quốc và 10 nước thành viên của Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đạt được thoả thuận về Bản hướng dẫn Thực hiện Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển Đông 2001 (sau đây gọi là Bản hướng dẫn DOC).
Nửa đầu năm 2011, Trung Quốc bắt đầu mô hình áp đặt một cách hung hăng các yêu sách chủ quyền ở Biển Đông bằng việc nhắm đến các hoạt động thương mại của các tàu thăm dò dầu khí ở các vùng biển yêu sách của Philippines và Việt Nam. Các hành động của Trung Quốc không chỉ dấy lên căng thẳng khu vực mà còn kích động Philippines liên tục đưa ra các phản đối ngoại giao, tăng ngân sách quốc phòng, vận động các quốc gia trong khu vực, nhằm tranh thủ sự ủng hộ về chính trị và quan hệ gần gũi với Mỹ. Việt Nam đã phản ứng bằng một loạt các tuyên bố thể hiện quyết tâm bảo vệ chủ quyền quốc gia, đẩy mạnh chương trình hiện đại hoá quân đội, và thúc đẩy hợp tác quốc phòng với Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản, Philippines và các quốc gia ASEAN khác.
Trong nửa cuối năm 2011, sau khi thông qua bản hướng dẫn DOC, căng thẳng đối với Biển Đông bắt đầu dịu đi và ngoại giao giữ vai trò trung tâm. Trung Quốc cũng đã chủ động các hoạt động ngoại giao cấp cao thông qua việc tiếp các chuyến thăm chính thức của Tổng thống Benigno Aquino III và Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng. Trung Quốc và Việt Nam đã đạt được thoả thuận song phương riêng về Thoả thuận về các Nguyên tắc cơ bản giải quyết các tranh chấp biển trong chuyến thăm của Tổng Bí thư Trọng.
Bài viết này được chia làm 5 phần. Phần 1 thảo luận sự áp đặt của Trung Quốc đối với Phippines và Việt Nam trong nửa đầu năm nay. Phần 2 xem xét các phản ứng của Philippines và Việt Nam đối với chính sách áp đặt của Trung Quốc. Phần 3 thảo luận về việc thông qua Bản hướng dẫn DOC. Phần 4 phân tích các diễn biến ngoại giao liên quan đến các quốc gia yêu sách ở Biển Đông sau khi thông qua Bản hướng dẫn DOC. Phần 5 thảo luận tác động đối với xu thế an ninh trong về các viễn cảnh cho một giải pháp cho các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông.
1. Sự cứng rắn của Trung Quốc
Trong suốt đầu năm 2011, theo Bộ Ngoại giao Philippines (DFA), các tàu và máy bay Trung Quốc đã xâm phạm vào các vùng biển và vùng trời mà Philippines yêu sách không ít hơn 6 lần (và có thể 9 hoặc nhiều hơn). Các vụ việc nghiêm trọng nhất bao gồm vụ bắn đạn thật của một tàu khu trục tên lửa điều khiển của PLAN nhằm đe doạ tàu cá Philippines, sự đe doạ của tàu Trung Quốc nhằm chặn một tàu khảo sát của Philippines buộc tàu này phải ngừng các hoạt động khảo sát ở vùng biển ở bãi Cỏ Rong, và việc thả các vật liệu xây dựng rõ ràng vi phạm DOC 2002. Việt Nam đã thông báo 2 sự việc nghiêm trọng khi Trung Quốc liên tục cắt cáp hai tàu khảo sát đang thực hiện các hoạt động khảo sát địa chấn (xem Bảng 1).
Thêm vào đó, Trung Quốc một lần nữa áp đặt lệnh cấm đánh bắt cá hàng năm và thực hiện các biện pháp chống lại tàu cá Việt Nam. Mặc dù các ngư dân Việt Nam đã thề không tuân thủ lệnh cấm của Trung Quốc, báo chí Việt Nam cho biết rất nhiều ngư dân đã quyết định hoạt động ở vùng cảng nội địa. Trong suốt thời kỳ Trung Quốc áp đặt lệnh đánh bắt cá, báo chí chịu sự kiểm soát của Việt Nam chỉ thông báo 2 vụ việc lớn (Xem bảng 1). Trong năm 2011, các lực lượng Trung Quốc đã liên tục áp dụng các chiến thuật khác biệt so với chính độc đoán trước đây. Tàu của Trung Quốc đã hình thành một hàng rào kiểm soát vây quanh các khu vực đánh cá gần quần đảo Hoàng Sa và trả lại các tàu cá Việt Nam sau khi thu hồi hải sản.
Trong suốt thời gian Trung Quốc ra lệnh cấm đánh bắt, các lực lượng ở tỉnh Phú Yên đã thông báo việc các tàu cá Trung Quốc đi vào vùng biển Việt Nam với số lượng nhiều hơn trước đây. Số lượng tàu cá của Trung Quốc hoạt động giữa Thành phố Đà Nẵng và quần đảo Trường Sa dao động từ 120 – 150 và thỉnh thoảng lên tới 2001.
Bảng 1
Các vụ việc được báo cáo liên quan đến việc các tàu Trung Quốc chống lại các tàu cá và tàu thăm dò của Philippines và Việt Nam, tháng 2 – 7/2011
Ngày | Vụ việc |
25/2 | Tàu khu vực PLAN bắn vào tàu cá Philippines đang hoạt động ở vùng biển ngoài khơi tỉnh Palawan |
2/3 | Các tàu Trung Quốc buộc MV Veritas Voyager rời khỏi các hoạt động khảo sát địa chấn ở Biển Đông |
6/5 | Tàu Trung Quốc bị phát hiện ở Bãi Bombay |
11/5 | Hai máy bay giống nhau xâm nhập vào vùng trời Philippines |
11/5 | Chính quyền tỉnh Hải Khẩu đơn phương áp đặt lệnh cấm đánh bắt cá 16/5 – 1/8 |
21/5 | Tàu CMS và Salvage xâm nhập vào Bãi Cạn Nam |
24/5 | Các tàu PLAN/CMS thả các vật liệu xây dựng vào đá Khúc Giác (Iroquois Reef) – Bãi Amy Douglas |
26/5 | Ba tàu Hải giám của Trung Quốc đã tiếp cận tàu khảo sát Bình Minh 02 và cắt cáp thăm dò địa chấn của tàu này ở lô 148 trong Vùng Đặc quyền Kinh tế của Việt Nam |
29/5 | Các tàu của Trung Quốc, Fei Sheng số 16 và tàu số B12549 nỗ lực can thiệp vào các hoạt động thương mại của tàu thăm dò Viking II ở lô 136 – 03 gần Bãi Tư chính |
31/5 | Các tàu của Trung Quốc, Fei Sheng số 16 và tàu số B12549, liên tục nỗ lực can thiệp vào các hoạt động thương mại của tàu thăm dò Viking II ở Lô 136-03 gần Bãi Tư chính |
9/6 | Các tàu Trung Quốc cắt cáp thăm dò của tàu Viking II ở Lô 136-03 gần Bãi Tư chính |
1/6 | Các tàu quân sự của Trung Quốc đe doạ nổ súng vào một tàu cá Việt Nam đang hoạt động tron vùng biển gần quần đảo Trường Sa |
30/7 | Thông tin không công khai: nỗ lực lần thứ 3 của Trung Quốc cắt cáp tàu thăm dò Việt Nam |
5/7 | Tàu chiến Trung Quốc cử tàu tốc độ có thuỷ thủ được trang bị vũ trang lên tàu cá Việt Nam. Những người này bị cáo buộc là đã đánh thuyền trưởng, thu hồi hải sản và buộc tàu cá rời khỏi vùng biển gần quần đảo Hoàng Sa. |
2. Phản ứng đối với sự cứng rắn của Trung Quốc
Philippines
Philippines phản ứng với sự cứng rắn của Trung Quốc theo 6 cách cơ bản:
- Phản đối ngoại giao, bao gồm gửi công hàm lên Liên Hợp Quốc
- Trao đổi song phương với các đoàn đại biểu Trung Quốc
- Tái khẳng định lại Hiệp ước Tươn trợ Quốc phòng với Mỹ
- Hiện đại hoá quân đội
- Phát động một sáng kiến ngoại giao lớn mới
- Vận động các thành viên ASEAN ủng hộ
Các phản đối ngoại giao
Bộ Ngoại giao Philippines đã phản ứng đối với mỗi một vụ việc đó thông qua các kênh ngoại giao, bao gồm việc gửi phản đối ngoại giao cho Đại sứ quán Trung Quốc. Philippines cũng công khai thể hiện quan ngại ở một mức độ lớn hơn nhiều so với Việt Nam, bao gồm cả việc cung cấp cho Báo chí Philippines nội dung chi tiết của các công hàm ngoại giao gửi cho Đại sứ quán Trung Quốc.
Vào ngày 5/4, Philippines nâng tầm biện pháp ngoại giao bằng cách gửi Liên Hợp Quốc công hàm chính thức khẳng định yêu sách chủ quyền đối với Nhóm đảo Kalayaan (KIG), các vùng biển lân cận và các cấu trúc địa chất bao gồm các vùng biển liên quan, đáy biển và vùng đất dưới đáy biển2. Hành động này ngay lập tức kích động phản hồi từ Trung Quốc. Ngày 14/4, Trung Quốc đã gửi Công hàm lên Liên Hợp Quốc, buộc tội Philippines vi phạm chủ quyền của Trung Quốc bằng việc “xâm lược và chiếm đóng” các đảo và đá ở quần đảo Nam Sa (Trường Sa)3. Vào đầu tháng 6, Tổng thống Aquino đã tiết lộ rằng Philippines đang chuẩn bị gửi công hàm lên Liên Hợp Quốc phản hồi những cáo buộc của Trung Quốc. Theo ông Aquino, “Chúng tôi đang hoàn thiện số liệu về sáu đến bảy vụ việc kể từ tháng 2. Chúng tôi sẽ gửi cho (Trung Quốc) và sau đó sẽ gửi những tài liệu này đến cơ quan thích hợp, thường sẽ là Liên Hợp Quốc”4.
Xem xét các báo cáo công khai về các trao đổi ngoại giao giữa Philippines và Trung Quốc không hề cho thấy có một vụ việc nào mà Trung Quốc coi trọng phản đối của Philippines hay thậm chí đề xuất nghiên cứu hay điều tra vấn đề. Trong tất cả các trường hợp, Trung Quốc bác bỏ tất cả các công hàm phản đối ngoại giao từ phía Philippines . Các sự kiện được nêu trong các phản đối của Philippines bị Trung Quốc bác bỏ xem như các câu chuyện bịa đặt hay kết quả của việc Trung Quốc thực thi quyền tài phán hợp pháp ở các vùng biển của Trung Quốc. Sự trao đổi công hàm ngoại giao vào tháng 6 đáng để nghiên cứu.
Ngày 4/6, Bộ Ngoại giao Philippines gửi công hàm phản đối đến cho Đại sứ quán Trung Quốc liên quan đến sự hiện diện và các hoạt động ngày càng gia tăng của các tàu Trung Quốc bao gồm cả tàu hải quân ở vùng biển Tây Philippines. Công hàm nêu rõ, “các hành động này của các tàu cá Trung Quốc cản trở hoạt động hợp pháp và thông thường của các ngư dân Philippines ở các vùng biển này và làm suy giảm hoà bình và ổn định ở khu vực”5. Bộ Ngoại giao Trung Quốc phản hồi 3 ngày sau đó:
“Các tàu Trung Quốc đang tuần tra và tiến hành các nghiên cứu khoa học ở các vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc là các hoạt động này là phù hợp với luật pháp … Trung Quốc yêu cầu phía Philippines chấm dứt việc xâm phạm chủ quyền và các quyền và lợi ích hàng hải của Trung Quốc, điều dẫn đến các hành động đơn phương gây mở rộng và phức tạp thêm các tranh chấp ở Biển Đông. Philippines nên chấm dứt việc đưa ra các tuyên bố thiếu trách nhiệm không hề phù hợp với thực tế”6.
Vào tháng 7, Philippines đã đẩy mạnh chiến dịch ngoại giao bằng việc đề xuất cả Philippines và Trung Quốc cùng đưa tranh chấp lãnh thổ ra giải quyết tại Toà án quốc tế và Luật biển. Đề xuất này được tuyên truyền ở Manila và sau đó được Ngoại trưởng Albert Del Rosario nêu ra trong thảo luận với Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì ở Bắc Kinh7.
Thảo luận song phương
Các quan chức Philippines liên tục thể hiện quan ngại về các căng thẳng an ninh ở Biển Đông trong các thảo luận với các quan chức Trung Quốc. Tuy nhiên, báo cáo công khai tiết lộ rằng Philippines ít đối đầu trong các cuộc tiếp xúc trực tiếp hơn là các tuyên bố công khai. Chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc, Tướng Lương Quang Liệt rất đáng để thảo luận. Ông có chuyến thăm chính thức đến Philippines từ ngày 21 đến 25 để hội đàm với người đồng nhiệm của mình, Bộ trưởng Quốc phong Philippines Voltaire Gazmin. Cuối các buổi thảo luận, hai Bộ trưởng đã đưa ra một tuyên bố chung có nội dung:
“Hai bộ trưởng thể hiện hy vọng rằng Bản hướng dẫn thực hiện DOC 2002 sẽ sớm được thông qua và nhất trí rằng cách hành xử có trách nhiệm của các bên đối với vấn đề Biển Đông sẽ giúp giữ ổn địh cho khu vực, đồng thời tất cả các bên sẽ cùng tìm kiếm một giải pháp hoà bình … Cả hai Bộ trưởng công nhận rằng nên tránh các hành động đơn phương có thể gây báo động”8.
Khi Bộ trưởng Quốc phòng Lương có cuộc gặp với Tổng thống Aquino, các vấn đề Biển Đông được thảo luận một cách chung chung, nhưng Tổng thống Aquino tránh trực tiếp nhắc đến vụ việc bãi Cỏ Rong và việc vụ khống máy bay Trung Quốc xâm nhập vùng trời Philippines9. Nhưng Tổng thống Aquino cảnh báo ông Lương rằng các sự cố trên biển ở các vùng biển tranh chấp ở Biển Đông nếu tiếp tục diễn ra sẽ dấy lên cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực10.
Hiệp ước Tương trợ Quốc phòng
Sự cứng rắn của Trung Quốc ở các vùng biển yêu sách của Philippines ngay lập tức làm phát sinh câu hỏi liệu Hiệp ước Tương trợ Quốc phòng năm 1951 giữa Philippines và Mỹ có thể được áp dụng trong trường hợp có xung đột giữa Trung Quốc và Philippines hay không? Philippines đã nỗ lực tìm kiếm một sự cam kết rõ ràng từ phía Mỹ trong khi Mỹ đang nỗ lực để tránh rơi vào bẫy. Điều III của Hiệp ước Tương trợ An ninh (Điều III) chỉ quy định việc tham vấn trong trường hợp “sự thống nhất lãnh thổ, độc lập về chính trị hay an ninh của một trong các Bên bị đe doạ bởi tấn công vũ trang từ bên ngoài ở Thái Bình Dương”. Trong trường hợp có tấn công vũ trang, Điều IV quy định các bên “sẽ hành động để đối phó với hiểm nguy chung tuân thủ các quy trình được quy định trong Hiến pháp của mình”.
Cuối cùng, Điều V của Hiệp ước Tương trợ Quốc phòng tuyên bố “một cuộc tấn công vũ trang nhằm vào một trong các bên được xem là bao gồm một cuộc tấn công vũ trang vào lãnh thổ chính của một trong các bên, hay các đảo thuộc quyền tài phán của bên đó ở Thái Bình Dương, hay quân đội, tàu hay máy bay công cộng của bên đó ở Thái Bình Dương”. Điểm cần phải làm rõ đó là liệu “các vùng lãnh thổ là đảo”, như KIG, chiếm được sau năm 1951 có thuộc định nghĩa trên không.
Dù có bất kỳ vấn đề thuật ngữ gì liên quan đến Hiệp ước Tương trợ An ninh, sự áp đặt của Trung Quốc nhằm vào Philippines đã giúp kéo Philippines và Mỹ lại gần nhau hơn với tư cách là đồng minh. Ví dụ, ngày 14/5, ngay trước chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc, Tông thống Aquino và một vài thành viên của Nội các đã bay đến tàu sân bay USS Carl Vinson ở Biển Đông khi tàu này đang tiến đến Philippines. Tàu sân bay và các tuỳ tùng của mình, USS Bunker Hill, USS Shiloh và USS Gridley, có lịch cập cảng theo thông lệ và viếng thăm thiện chí”11. Chuyến bay của Tổng thống Aquino là một minh chứng tái khẳng định quan hệ đồng minh giữa hai nước.
Vào tháng 6, báo chí đưa tin rằng Đại sứ quán Philippines ở Washington đang muốn mua thiết bị quốc phòng từ Mỹ theo Chương trình Bán Vũ khí Quân sự Nước ngoài12. Philippines cũng tuyên bố một chương trình huấn luyện của Mỹ mới dành cho hải quân của mình nhằm thúc đẩy hải quân tiến hành hiệu quả hơn nhiệm vụ bảo đảm an ninh cho các hoạt động thăm dò dầu khí ở Biển Tây Philippines13. Tháng 8, Philippines tiếp nhận tàu USCGC Hamilton mua lại của Lực lượng Bảo vệ Bờ biển Mỹ và tuyên bố rằng tàu này sẽ tuần tra các vùng biển tranh chấp ở Biển Tây Philippines.14.
Hiện đại hoá quân đội
Năm 2011, phản ứng trước các diễn biến ở Biển Đông, Philippines bắt đầu lên chiến lược quốc phòng mới tập trung vào các hoạt động an ninh trong nước và phòng thủ lãnh thổ ngoài nước. Quân đội Philippines (AFP) được phân bổ 183 triệu đôla Mỹ trong các nguồn vốn từ Chương trình Nâng cấp Năng lực để mua các tàu tuần tra tốc độ xa bờ, máy bay hàng hải tầm xa, các thiết bị thông tin và giám sát bao gồm cả phòng thủ vùng trời và hệ thống rada bờ biển15.
Ngày 28/3, Tham mưu trưởng quân đội Philippines, Tướng Eduardo Oban tuyên bố kế hoạch nâng cấp Sân bay Rancudo trên đảo Pag-Asa16. Tháng 5, một nghiên cứu hải quân Philippines đã đề xuất việc mua các tàu ngầm như là một vũ khí chống lại các xung đột tiềm năng trong tương lai17. Philippines cũng mong muốn tiếp nhận thêm hai tàu nữa của Lực lượng Bảo vệ Bờ biển Mỹ, 3 tàu tấn công đa chức năng mới do Đài Loan sản xuất và 6 phi cơ chiến đấu18. Vấn đề hiện đại hoá quân sự được phân tích ở phần 5 dưới đây.
Sáng kiến Ngoại giao mới
Cũng phản ứng trước sự áp đặt của Trung Quốc, Tổng thống Aquino đã phát động một sáng kiến mới kêu gọi Biển Đông trở thành một Khu vực Hoà bình, Tự do, Hữu nghị và Hợp tác (ZoPFF/C). Aquino giải thích, “những già của chúng tôi là của chúng tôi, và những gì đang tranh chấp, chúng ta có thể cùng tìm kiếm một giải pháp hợp tác chung”19. Ông chỉ đạo Bộ Ngoại giao thúc đẩy khái niệm ZoPFF/C thông qua các tham vấn và đối thoại bền vững.
Theo DFA, ZoPFF/C đưa ra khung tách biệt các cấu trúc lãnh thổ đang tranh chấp có thể được xem xét cho các hoạt động hợp tác ra khỏi các vùng biển không tranh chấp ở Biển Tây Philippines theo luật quốc tế nói chung và Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS) nói riêng20. Một vùng tranh chấp theo DFA, có thể biến thành Vùng Hợp tác chung cùng phát triển và thiếu lập vùng bảo vệ biển nhằm mục đích duy trì đa dạng sinh học. Các vùng biển không tranh chấp, như Bãi Cỏ Rong nằm trên Thềm lục địa của Philippines, có thể do Philippines độc quyên khai thác hoặc có hỗ trợ từ các nhà đầu tư nước ngoài được mời tham gia vào khai thác.
Vận động các Thành viên ASEAN
Phản ứng trước sự áp đặt của Trung Quốc, Tổng thống Aquino tiến hành một loạt các hoạt động vận động các quốc gia ASEAN đưa ra một lập trường thống nhất khi thảo luận với Trung Quốc về bản hướng dẫn thực hiện DOC, tiến đến một Bộ Quy tắc Ứng xử ràng buộc hơn, và ủng hộ sáng kiến ZoPFF/C của ông. Ngày 8/3, Tổng thống Aquino đã có chuyến thăm chính thức đến Indonesia nơi ông có cuộc hội đàm với Tổng thống Susilo Bambang Yudhoyono. Tiếp theo, đầu tháng 6, Tổng thống Aquino tiếp tục cuộc vận động của mình trong suốt chuyến thăm chính thức đến Vương quốc Brunei Darussalam thảo luận với Quốc vương Hassanal Bolkiah.
Tổng thống Aquino phát biểu với phóng viên liên quan đến chuyến thăm của ông đến Brunei: “Chúng ta quản lý ở đó (Quần đao Trường Sa/KIG). Thay vì một nước có một thoả thuận song phương với Trung Quốc và nước khác cũng có một thoả thuận khác với Trung Quốc. Hãy cùng thực hiện với nhau với tư cách là một khối21. Aquino cũng nhắc lại lời kêu gọi thông qua ngay Bản hướng dẫn thực hiện DOC22. Ngày tiếp theo, Người phát ngôn DFA đã kêu gọi xây dựng một “Bộ Quy tắc Ứng xử của các Bên trên Biển Đông mang tính ràng buộc hơn” nhằm giải quyết các tranh chấp lãnh thổ.
Việt Nam
Việt Nam và Trung Quốc có chung hệ thống các cơ chế dày đặc điều chỉnh các quan hệ song phương dựa trên thoả thuận khung hợp tác lâu dài ký giữa hai đảng cầm quyền vào năm 199923. Không như Philippines, Việt Nam không phải là một đồng minh hiệp ước với Mỹ. Hai yếu tố này đã định hình phản ứng của Việt Nam trước sự áp đặt của Trung Quốc ở Biển Đông năm 2011. Việt Nam sử dụng 4 biện pháp cơ bản để quản lý các căng thẳng an ninh sau:
- Thảo luận song phương
- Công khai tái khẳng định chủ quyền
- Diễn tập hải quân bắn đạn thật
- Cử Đặc phái viên Ngoại giao sang Trung Quốc
Thảo luận song phương
Trong suốt đầu năm 2011, Việt Nam đã nỗ lực quản lý các căng thẳng an ninh gia tăng ở Biển Đông thông qua thảo luận song phương với Trung Quốc. Việt Nam tiếp 2 đoàn đại biểu quan trọng của Trung Quốc và thu xếp các cuộc hội đàm bên lề giữa các Bộ trưởng Quốc phòng tại Đối thoại Shangri-la. Các thảo luận này nhằm ngăn tranh chấp Biển Đông tràn lan và tác động tiêu cực đến quan hệ song phương có nền tảng giữa hai nước. Cụ thể hơn, các thảo luận song phương này nhằm mục đích đảm bảo chung rằng hai bên sẽ không sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp.
Vào tháng 4, Việt Nam tiếp Phó Chủ tịch Quân uỷ Trung ương Trung Quốc, Tướng Quách Bá Hùng sang thăm theo lời mời của Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam. Mục đích chính của chuyến thăm của Tướng Quách là lên kế hoạch cho vòng tuần tra hải quân chung ở Vịnh Bắc Bộ và thảo luậ việc mở rộng phạm vi các hoạt động hợp tác quân sự trong tương lai24. Chuyến thăm của Tướng Quách diễn ra trước vụ cắt cáp lần thứ 1. Mặc dù Biển Đông không phải là vấn đề nghị sự chính thức, các vấn đề Biển Đông cũng được nêu ra trong một thông điệp gửi lãnh đạo cấp cao Bắc Kinh, “đề xuất hai bên nên thảo luận và kiếm tìm các giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên có thể chấp nhận được để giải quyết vấn đề Biển Đông …”25. Chuyến thăm của Tướng Quách đã nhấn mạnh rằng hai bên đều sẵn sàng tách các tranh chấp lãnh thổ ra khỏi mối quan hệ song phương lớn hơn. Ví dụ, bất chấp căng thẳng gia tăng sau vụ việc cắt cáp lần đầu tiên voà ngày 26/5, tuần tra hải quân chung đã diễn ra theo kế hoạch sau đó các tàu hải quân Việt Nam đã thực hiện chuyến thăm cảng thứ 2 ở Trung Quốc26.
Ngay sau chuyến thăm của Tướng Quách, Việt Nam đã tổ chức cuộc gặp song phương giữa các Trưởng đoàn đàm phán Chính phủ về các vấn đề biên giới (18-19/4)27. Các thảo luận này được tổ chức ở cấp Thứ trưởng. Thứ trưởng Trung Quốc cho biết hai Thứ trưởng đã cam kết, “xử lý hợp lý các tranh chấp lãnh thổ thông qua tham vấn hữu nghị và kiếm tìm các giải pháp với quan điểm chủ động và xây dựng”28. Người phát ngôn Việt Nam cho biết rằng “hai bên đồng ý sẽ ký kết thoả thuận về các nguyên tắc cơ bản hướng dẫn giải quyết các vấn đề trên biển”. Cũng lưu ý thêm rằng đàm phán vẫn đang tiếp diễn và chưa có thời gian cụ thể về việc ký thoả thuận đó29.
Cuộc gặp song phương cấp cao đầu tiên sau sự kiện cắt cáp tháng 5 diễn ra vào tháng 6 bên lề Đối thoại Shangri-la. Trước cuộc gặp này, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh đã đề cập đến các vấn đề Biển Đông trong bài phát biểu của mình. Ông đã phát biểu chi tiết về các cơ sở pháp lý cho các hoạt động trên biển “nhằm thúc đẩy hợp tác cùng phát triển và ngăn chặn các hoạt động gây nguy hại đến lợi ích chung, của khu vực và của quốc gia”30.
Các Bộ trưởng Quốc phòng Thanh và Lương Quang Liệt, đã có cuộc gặp chính thức bên lề Diễn đàn Singapore. Ông Thanh thể hiện quan ngại của Lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với cái mà ông gọi là “vụ việc gây áp lực” (“pressing incident”) và sau đó đưa ra một nhận xét mang tính hoà hiếu rằng “Một lúc nào đó, các vụ việc đáng tiếc xảy ra ngoài mong đợi của cả hai bên”. Ông Thanh kết luận, “Chúng tôi thành thật mong muốn không tái diễn các vụ việc tương tự”31. Ông Lương phản hồi rằng Trung Quốc cũng không muốn vụ việc tương tự xảy ra trong tương lai32. Ông Lương và các cấp dưới của ông đã cụ thể lưu ý rằng Quân đội Giải phóng Nhân dân không hề liên quan đến vụ việc. Bốn ngày sau đó, vụ cắt cáp thứ hai xảy ra liên quan đến cơ quan hàng hải dân sự Trung Quốc.
Tái khẳng định chủ quyền
Vụ việc Trung Quốc cắt cáp lần đầu tiên đã kích động một làn sóng chủ nghĩa dân tộc phản đối Trung Quốc ở Việt Nam bao gồm thành phần là sinh viên, trí thức và quan chức nghỉ hưu. Vào ngày 5/6, họ đã tiến hành cuộc biểu tình đầu tiên trong một loạt 11 cuộc biểu tình công khai chống Trung Quốc diễn ra liên tục trong 12 tuần. Cũng đầu tháng 6, sự thù địch ngày càng tăng giữa những người theo chủ nghĩa dân tộc ở cả Việt Nam và Trung Quốc lan tràn ra cả cộng đồng mạng. Theo ông Nguyễn Minh Đức, giám đốc Trung tâm An ninh Mạng Bách Khoa, hơn 200 trang web của Việt Nam đã bị tấn công. Trong số các tranh web này có trang của các Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn và Bộ Ngoại giao nơi mà những người tấn công đã thành công trong việc đưa cờ và biểu ngữ của Trung Quốc lên.33
Vào ngày 9/6, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã phản hồi với các sự cố cắt cáp và áp lực trong nước ngày càng tăng cao bằng việc đưa ra một tuyên bố mạnh mẽ khác thường để bảo vệ chủ quyền quốc gia. Ông Dũng nói: “Chúng tôi tiếp tục khẳng định mạnh mẽ và thể hiện quyết tâm mạnh mẽ nhất của Đảng, tất cả dân tộc và tất cả quân đội để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với các vùng biển của đất nước”. Ông Dũng cũng tái khẳng định “chủ quyền biển không thể tranh cãi được của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa34. Cùng ngày, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết trong chuyến thăm đảo Cô Tô ngoài khơi tỉnh Quảng Ninh gần biên giới Trung Quốc đã phát biểu rằng Việt Nam “quyết tâm bảo vệ các quần đảo và “chúng ta sẵn sàng hy sinh tất cả để bảo vệ quê hương và chủ quyên biển, đảo”35.
Diễn tập hải quân bắn đạn thật
Việt Nam luôn luôn cực kỳ thận trọng trong các nhận định công khai về quan hệ với Trung Quốc. Các phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết hầu như không được nhắc đến. Nhưng không có hành động nào lại khó đoán như tuyên bố công khai hầu như chưa có tiền lệ của Việt Nam là Việt Nam sẽ tiến hành diễn tập hải quân bắn đạn thật. Các cuộc diễn tập này có lẽ là do kích động từ việc Trung Quốc tiến hành hải quân trên diện rộng ở Bắc Biển Đông vào đầu tháng đó.
Vào ngày 9/6, Công ty An toàn Hàng hải Miền Bắc đã tuyên bố rằng các cuộc diễn tập bắn đạn thật sẽ được tổ chức vào ngày 13/6 ở vùng biển gần đảo Hòn Ống36. Bộ Ngoại giao Việt Nam mô tả các cuộc tập trận này như “một hoạt động huấn luyện theo thông lệ hàng năm của Hải quân Việt Nam ở vùng biển mà Hải quân Việt Nam thường tiến hành (các hoạt động) huấn luyện được lên chương trình và kế hoạch hàng năm cho các đơn vị của Hải quân Nhân dân Việt Nam”37.
Giai đoạn đầu tiên của cuộc diễn tập bao gồm pháo binh hạng nặng, trong khi giai đoạn 2 của diễn tập bao gồm các tàu tên lửa chống hạm. Theo thông báo, các tên lửa chống hạm cũng được bắn từ tàu sân bay Sukhoi38. Đảo Hòn Ống nằm cách tỉnh Quảng Nam ở miền Trung Việt Nam khoảng 40km đối diện với quần đảo Hoàng Sa và cách nơi xảy ra 2 sự cố cắt cáp khá xa. Các cuộc diễn tập bắn đạn thật của Việt Nam hầu như chắc chắn được tiến hành để thể hiện quyết tâm của Việt Nam trong việc bảo vệ các hoạt động thăm dò dầu khí thương mại của mình chống lại các can thiệp hơn nữa của Trung Quốc39.
Cùng ngày với tuyên bố tiến hành các cuộc diễn tập bắn đạn thật, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nhấn mạnh mức độ quyết tâm của Việt Nam bằn việc ban hành Sắc lệnh về nghĩa vụ quân sự bao gồm các điều khoản về nghĩa vụ thực hiện quân sự cho những đối với có kỹ năng đặc biệt mà quân đội đang cần40. Theo như một phân tích, Sắc lệnh nhằm hai mục đích. Trước tiên, Sắc lệnh nhằm làm dịu bớt áp lực trong nước đang ngày càng tăng cao đối với chính phủ có những phản ứng rắn hơn với Trung Quốc. Thứ hai, Sắc lệnh là minh chứng cho quyết tâm phản hồi lại sức áp đặt của Trung Quốc41.
Các đặc phái viên ngoại giao
Tháng 1/2011, Đảng Cộng sản Việt Nam đã bầu lãnh đạo mới tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 11. Một dấu hiệu cho vai trò quan trọng của quan hệ song phương của Việt Nam với Trung Quốc được đưa ra khi Tân Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cử Đặc phái viên Hoàng Bình Quân đến Bắc Kinh. Ông Quân đã gặp Chủ tịch nước và Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Hồ Cẩm Đào, và thông báo ngắn gọn về kết quả của Đại hội. Ông Quân cũng gửi lời mời đến ông Hồ Cẩm Đào và các Lãnh đạo Đảng và Nhà nước khác của Trung Quốc sang thăm Việt Nam. Đáp lại, Ông Hồ cũng gửi lời mời đến Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sang thăm Trung Quốc42.
Trung Quốc cũng đã gửi lời mời tương tự đến Tổng thống Aquino sau khi ông nhậm chức. Ông Aquino liên tục trì hoãn chuyến thăm chính thức theo thông báo là do căng thẳng đối với Biển Đông. Về phía Việt Nam, Hà Nội đã có bước đi đầu tiên và Tổng Bí thư Trọng đã cùng Tổng thống Aquino đến Bắc Kinh vào tháng 10. Tuy nhiên, Ông Trọng đã thực hiện chuyến thăm chính thức nước ngoài đầu tiên với tư cách là lãnh đạo của Đảng đến Lào.
Sau vụ cắt cáp thứ 2, Việt Nam đã cử đặc phái viên thứ 2 đến Trung Quốc, Thứ trưởng Ngoại giao Hồ Xuân Sơn. Ông Sơn đã có cuộc hội đàm với đồng nhiệm của mình, ông Trương Chí Quân. Đặc biệt, Ông Sơn đã có cuộc gặp với Uỷ viên Quốc vụ viện Đới Bỉnh Quốc43. Theo như Thông cáo báo chí chung ra ngày 25/6:
“Hai bên nhấn mạnh sự cần thiết phải chủ động thực hiện nhận thức chung của lãnh đạo hai nước, hoà bình giải quyết các tranh chấp trên biển giữa hai nước thông qua đàm phán và tham vấn hữu nghị; sử dụng các biện pháp hiệu quả và cùng nhau thực hiện duy trì hoà bình và ổn định ở Biển Đông (nguyên văn).
Hai bên cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải định hướng dư luận đúng hướng, tránh những lời nói và việc làm ảnh hưởng đến quan hệ hữu nghị và lòng tin của nhân dân hai nước.
Hai bên nhất trí đẩy nhanh tiến độ đàm phán nhằm sớm ký được “Thoả thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo việc giải quyết các vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc”, và đẩy mạnh việc thực hiện Tuyên bố về Ứng xử của các Bên trên Biển Đông và tiếp tục các hoạt động nhằm sớm đạt được những bước tiến đáng kể”44
3. Thông qua Bản hướng dẫn DOC
Năm 2004, hai năm sau khi đàm phán về DOC, Cuộc họp các Quan chức cấp cao ASEAN – Trung Quốc đã nhất trí thành lập Nhóm làm việc Chung ASEAN – Trung Quốc (JWG) nhằm thực hiện DOC. JWG tổ chức phiên họp đầu tiên tại Manila tháng 8/2005. Quy chế Làm việc của JWG quy định rằng JWG sẽ gặp hai lần một năm để đưa ra các khuyến nghị thuộc 4 lĩnh vực:
- Hướng dẫn và chương trình hành động cho việc thực hiện DOC
- Các hoạt động hợp tác cụ thể ở Biển Đông
- Danh sách các chuyên gia và các cá nhân nổi bật có thể cung cấp các thông tin kỹ thuật, các quan điểm chuyên môn và không ràng buộc hay các khuyến nghị chính sách cho JWG ASEAN và Trung Quốc.
- Tổ chức hội thảo nếu cần45
Bảng 2
So sánh Bản hướng dẫn DOC cuối cùng với Bản dự thảo đầu tiên
Điểm | Bản cuối cùng (2011) | Bản đầu tiên (2005) |
1 | Việc thực hiện DOC nên được thực hiện từng bước một phù hợp với các điều khoản của DOC. | Việc thực hiện DOC nên được thực hiện từng bước một phù hợp với các điều khoản của DOC. |
2 | Các Bên của DOC sẽ tiếp tục thúc đẩy đối thoại và tham vấn phù hợp với tinh thần của DOC. | ASEAN sẽ tiếp tục thông lệ tham vấn hiện thời giữa các quốc gia thành viên trước khi làm việc với Trung Quốc |
3 | Việc thực hiện các hoạt động hay các dự án như được quy định trong DOC nên được xác định rõ ràng. | Việc thực hiện DOC nên dựa trên các hoạt động hay dự án đã được xác định rõ ràng. |
4 | Việc tham gia vào các hoạt động hay dự án nên được tiến hành trên cơ sở tự nguyện. | Việc tham gia vào các hoạt động hay dự án nên được tiến hành trên cơ sở tự nguyện. |
5 | Các hoạt động đầu tiên được tiến hành trong khuôn khổ DOC nên là các biện pháp xây dựng lòng tin. | Các hoạt động đầu tiên được tiến hành trong khuôn khổ DOC nên là các biện pháp xây dựng lòng tin. |
6 | Quyết định thực hiện các biện pháp hay hoạt động cụ thể của DOC nên dựa vào đồng thuận giữa các bên liên quan, và dẫn đến việc tiến đến một Bộ Quy tắc Ứng xử cuối cùng. | Quyết định thực hiện các biện pháp hay hoạt động cụ thể của DOC nên dựa vào đồng thuận giữa các bên liên quan, và dẫn đến việc tiến đến một Bộ Quy tắc Ứng xử cuối cùng. |
7 | Trong việc thực hiện các dự án đã được nhất trí theo DOC, các dịch vụ về chuyên gia hay các cá nhân nổi bật, nếu cần, sẽ được sử dụng để cung cấp các thông tin cụ thể cho dự án liên quan. | Trong việc thực hiện các dự án đã được nhất trí theo DOC, các dịch vụ về chuyên gia hay các cá nhân nổi bật, nếu cần, sẽ được sử dụng để cung cấp các thông tin cụ thể cho dự án liên quan. |
8 | Tiến độ của việc thực hiện các hoạt động hay dự án theo DOC sẽ được báo cáo thường niên lên Hội nghị Bộ trưởng ASEAN – Trung Quốc (PMC). | Không có trong bản dự thảo đầu tiên |
Việc gặp mặt hai lần/năm của JWG không được tuân thủ.
ASEAN cũng đã đưa ra dự thảo hướng dẫn tại hội nghị tháng 8/2005. Bản hướng dẫn này nhằm tạo điều kiện cho các nước ASEAN họp kín trước khi làm việc với Trung Quốc. Trung Quốc phản hồi và khẳng định rằng các tranh chấp nên được giải quyết bằng tham vấn song phương giữa các bên liên quan và không phải với ASEAN với tư cách là một khối. Do đó, JWG đã không có tiến triển gì trong vòng 6 năm tiếp theo khi Trung Quốc và ASEAN đều muốn biện hộ với cách thể hiện của ít nhất 21 bản dự thảo liên tục.
Sự cứng rắn gần đây của Trung Quốc nhằm đẩy mạnh các yêu sách chủ quyền ở Biển Đông kích động phản đối cả quốc tế và khu vực. Các tranh chấp Biển Đông đã chiếm ưu thế tại Diễn đàn khu vực ASEAN năm 2010 và tại Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN+ đầu tiên. Trung Quốc bị cô lập về mặt ngoại giao và tìm cách hạn chế thiệt hại hơn nữa bằng cách đồng ý khởi động lại Nhóm làm việc chung ASEAN – Trung Quốc đang bị tê liệt. Cuộc họp lần thứ 5 của JWG được tổ chức ở Côn Minh, Trung Quốc vào tháng 12/2010. Cuộc họp thứ 6 được tổ chức ở Medan, Indonesia vào tháng 4/2011. Tại cả 2 cuộc gặp, một điều trở nên rõ ràng tiến triển vẫn phụ thuộc vào lập trường của Trung Quốc rằng các yêu sách chủ quyền và lãnh thổ chỉ có thể được giải quyết song phương giữa các bên liên quan.
Tháng 7/2011, Các quan chức cao cấp ASEAN đã lặng lẽ bỏ đoạn gây tranh cãi ở điểm 2 trong bản dự thảo hướng dẫn đầu tiên và đưa ra một công thức xuống nước mới của Thủ tướng thông qua.Tháng 7/2011, Ngoại trưởng ASEAN và Trung Quốc cuối cùng đã thông qua được Bản hướng dẫn Thực hiện DOC. Bản hướng dẫn này bao gồm 8 điểm cơ bản theo sau một đoạn mở đầu gồm 3 đoạn46.
Phần mở đầu xác định DOC là một văn kiện bước ngoặt ký giữa các quốc gia thành viên ASEAN và Trung Quốc, nhấn mạnh rằng DOC không phải là một thoả thuận giữa ASEAN, với tư cách là một khối và Trung Quốc. Thứ hai, phần mở đầu tuyên bố rằng “việc thực hiện hiệu quả DOC sẽ không đóng góp vào việc thắt chặt mối quan hệ Đối tác Chiến lược vì Hoà bình và Thịnh vượng giữa ASEAN – Trung Quốc”. Đây là lý do Trung Quốc ký văn kiện này. Cuối cùng, phần mở đầu lưu ý rằng bản hướng dẫn “nhằm hướng dẫn việc thực hiện các hoạt động hợp tác chung có thể có, các biện pháp và dự án như việc nêu trong DOC”. Cách thể hiện này rõ ràng cho thấy Bản hướng dẫn là mang tính khuyến nghị và không ràng buộc.
Bảng 2 ở trên đưa ra sự so sánh giữa bản dự thảo đầu tiên năm 2005 và dự thảo cuối cùng được thông qua năm 2011. Chỉ có 2 điểm khác biệt cơ bản. Điểm 2 trong bản dự thảo đầu tiên được thay đổi khá cơ bản để phù hợp với mục tiêu của Trung Quốc. Thông lệ tham vấn trước của ASEAN được thay thế với một thuật ngữ yếu hơn “để thúc đẩy đối thoại và tham vấn theo tinh thần của DOC”. Điểm 8 được bổ sung quy định rõ rằng các hoạt động và dự án được thực hiện theo DOC sẽ được thông báo cho Hội nghị Bộ trưởng ASEAN – Trung Quốc.
Ngay sau khi Bản hướng dẫn được thông qua, Ngoại trưởng Philippines Albert Del Rosario đã lưu ý rằng Bản hướng dẫn này cần nhiều nỗ lực hơn nữa mới thực hiện hiệu quả được. Theo như Bộ trưởng Del Rosario, “Các yếu tố cần thiết để làm cho Bản hướng dẫn thành công vẫn chưa được hoàn thiện. Chúng ta đang mong các thành viên tham gia tuân thủ. Ngoài điều đó, không có nhiều không gian để chúng ta đối phó với hậu quả đối với các cách hành xử sai lầm”47.
Ngay sau khi Bản hướng dẫn được thông qua, Ngoại trưởng Philippines Albert Del Rosario đã lưu ý rằng Bản hướng dẫn này cần nhiều nỗ lực hơn nữa mới thực hiện hiệu quả được. Theo như Bộ trưởng Del Rosario, “Các yếu tố cần thiết để làm cho Bản hướng dẫn thành công vẫn chưa được hoàn thiện. Chúng ta đang mong các thành viên tham gia tuân thủ. Ngoài điều đó, không có nhiều không gian để chúng ta đối phó với hậu quả đối với các cách hành xử sai lầm”47.
(còn tiếp 1 kỳ)
.
.
.
No comments:
Post a Comment