Carlyle A. Thayer*
LIỆU BẢN HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN DOC CÓ LÀM DỊU CĂNG THẲNG Ở BIỂN ĐÔNG? ĐÁNH GIÁ NHỮNG DIỄN BIẾN TRƯỚC VÀ SAU KHI KÝ KẾT
Tài liệu tham luận tại Hội thảo Khoa học Quốc tế lần thứ ba, chủ đề “Biển Đông: Hợp tác vì an ninh và phát triển trong khu vực”, do Học viện Ngoại giao và Hội Luật gia Việt Nam tổ chức tại Hà Nội, ngày 4-5 tháng 11 năm 2011
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
(tiếp theo)
4. Những diễn biến Ngoại giao
Sau khi ASEAN và Trung Quốc thông qua Hướng dẫn DOC, đã có một sự giảm nhẹ căng thẳng về an ninh đáng chú ý vì các nước có yêu sách đã tập trung năng lượng của mình vào ngoại giao. Phần này sẽ nhấn mạnh bốn diễn biến ngoại giao chính: các cuộc thăm cấp cao đến Bắc Kinh của lãnh đạo Philippines và Việt Nam; thoả thuận giữa Trung Quốc và Việt Nam về giải quyết các vấn đề trên biển; Hội nghị các chuyên gia pháp lý ASEAN nhằm thảo luận sáng kiến về ZoPFF/C của Tổng thống Aquino; và các đối thoại an ninh – quốc phòng và thoả thuận về hợp tác quốc phòng.
Các chuyến thăm cấp cao đến Bắc Kinh.
Sau khi nhậm chức Tổng thống Aquino đã nhận được lời mời thăm chính thức Trung Quốc. Chuyến thăm được thông báo là đã bị hoãn hơn một lần vì những căng thẳng ngày càng gia tăng xung quanh những xung đột lãnh thổ ở Biển Đông. Khi ASEAN và Trung Quốc thông qua Bản Hướng dẫn thực thi DOC đã dọn đường cho Tổng thống Aquino thăm Bắc Kinh. Ông đã thăm chính thức Bắc Kinh từ 30 tháng 8 đến 3 tháng 9 theo lời mời của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào.
Tuyên bố chung sau cuộc hội đàm đã cho thấy vấn đề kinh tế là vấn đề nổi bật. Ví dụ, Aquino được đưa tin là đã mang về cho Philippines 1,3 tỷ USD trong các kế hoạch đầu tư mới48. Tuyên bố chung chỉ đề cập đến vấn đề Biển Đông ở đoạn cuối trong danh sách các chủ đề được bàn luận (Điểm 15 trong 17 điểm):
“Cả hai nhà lãnh đạo đã trao đổi quan điểm về các tranh chấp trên biển và thống nhất sẽ không để tranh chấp biển ảnh hưởng đến toàn diện quan hệ thân thiết và hợp tác giữa hai nước. Hai nhà lãnh đạo cũng tái khẳng định cam kết của mình sẽ giải quyết các tranh chấp thông qua đối thoại hoà bình, để duy trì hoà bình, an ninh, ổn định và một môi trường có lợi cho sự phát triển kinh tế. Cả hai nhà lãnh đạo tái khẳng định cam kết tôn trọng và tuân theo Tuyên bố chung về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông được Trung Quốc và các quốc gia thành viên ASEAN ký năm 2002”49.
Khi trở về Manila, Aquino cho biết Chủ tịch Hồ Cẩm Đào ủng hộ một “thoả thuận về việc thực hiện” một Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông. Theo Aquino, điều này là “rất quan trọng, bởi vì trước đây, đó chỉ là một tuyên bố chung chung về các nguyên tắc. Hiện nay đã có một mong muốn thực sự đưa các quy định và điều khoản vào thực thi”50. Tuy nhiên, Tổng thống Aquino tiếp tục thúc giục một Bộ Quy tắc Ứng xử đa phương ở Biển Đông và một thoả thuận về phân giới chính sách các vùng biển đang trong tranh chấp.
Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã thăm chính thức Trung Quốc từ 11-15 tháng 10 để hội đàm với Tổng Bí thư Hồ Cẩm Đào và các quan chức cao cấp khác của Trung Quốc. Ba thoả thuận chính đã được ký: Kế hoạch hợp tác giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc (giai đoạn 2011-2015); Kế hoạch phát triển hợp tác kinh tế – thương mại 5 năm (2012-2016) và một Thoả thuận về các nguyên tắc cơ bản là hướng dẫn giải quyết các tranh chấp trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc (được thảo luận bên dưới)51.
Các cuộc thảo luận giữa Hồ Cẩm Đào và Nguyễn Phú Trọng tập trung chủ yếu vào các bước tiếp theo để thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Trung Quốc thông qua tiếp tục các chuyến thăm cao cấp, tăng cường quan hệ giữa hai Đảng (trao đổi các Uỷ ban của Ban chấp hành Trung Ương và các hội thảo về ý thức hệ), nâng cao vai trò của Ban chỉ đạo chung trong việc quản lý quan hệ giữa hai đảng, đẩy mạnh quan hệ quân sự và các cơ quan thực thi pháp luật, và các linh vực hợp tác khác. Một đường dây nóng đã được thiết lập để kết nối các nhà lãnh đạo cao cấp.
Kết luận các cuộc thảo luậ, các nhà lãnh đạo đã ra một bản Tuyên bố chung tám điểm52. Không như Tuyên bố chung Trung Quốc – Philippines, Tuyên bố chung Trung Quốc – Việt Nam bao gồm một điểm đề cập cụ thể đến các vấn đề biển. Cả hai phía tái khẳng định cam kết giải quyết các vấn đề trên biển thông qua “đàm phán hữu nghị” và kiềm chế “các hành động có thể làm phức tạp tình hình hoặc làm lan rộng tranh chấp, tránh để các thế lực thù địch phá hoại quan hệ giữa hai đảng, hai nước, (và) đối phó với các vấn đề nổi lên với tinh thần xây dựng, tránh làm ảnh hưởng đến quan hệ giữa hai đảng …”. Liên quan đến quan hệ quốc phòng, Tuyên bố chung viết:
“Thứ tư, để thúc đẩy quan hệ về chiều sâu giữa hai quân đội, tăng cường liên lạc giữa các nhà lãnh đạo quân đội cao cấp của hai nước; tiếp tục tổ chức các cuộc đối thoại chiến lược hữu ích ở cấp thứ trưởng khẩn trương thiết lập đường điện thoại trực tiếp giữa hai Bộ Quốc phòng; tăng cường hợp tác trong lĩnh vực đào tạo nhân sự và trao đổi giữa các quan chức sơ cấp; tổ chức tuần tra chung dọc biên giới trên Vịnh Bắc Bộ; tăng cường hợp tác trong lĩnh vực như các chuyến thăm của tàu hải quân của hai nước”53.
Dựa vào Thoả thuận về các nguyên tắc cơ bản hướng dẫn giải quyết các vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc hai nhà lãnh đạo đã cam kết: tăng tốc các đàm phán về phân định các vùng biển bên ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và để thảo luận “hợp tác cùng phát triển” trong những lĩnh vực như bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm và cứu nạn trên biển, thăm dò và khai thác dầu khí, và ngăn ngừa các thảm hoạ tự nhiên.
Quan trọng là cả Philippines và Việt Nam đều tìm cách cân băng quan hệ với Trung Quốc bằng cách cử Tổng thống/Chủ tịch nước đến Nhật Bản và Ấn Độ54. Tổng thống Aquino đã thăm và làm việc ở Nhật Bản từ 25-28/9, trong khi Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang thăm chính thức Ấn Độ cùng thời điểm với chuyến thăm Bắc Kinh của Tổng Bí thư Trọng.
Tổng thống Aquino và Thủ tướng Yoshihiki Noda hoan nghênh Hướng dẫn thực thi DOC đã được thông qua và “bày tỏ hy vọng sẽ sớm có một Bộ quy tắc Ứng xử (COC) ràng buộc về pháp lý và phù hợp với luật quốc tế”. Liên quan đến an ninh biển Tuyên bố chung Nhật Bản – Philippines khẳng định:
“Hai nhà lãnh đạo khẳng định tầm quan trọng sống còn của Biển Đông vì vùng biển này kết nối thế giới với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, và hoà bình và ổn định ở đây là lợi ích chung của cộng đồng quốc tế. Vì lãnh đạo của hai nước đã chia sẻ đường giao thông trên biển, họ cũng khẳng định rằng tự do hàng hải, không cản trở thương mại, và phù hợp với luật quốc tế bao gồm UNCLOS và việc giải quyết hoà bình các tranh chấp được coi là lợi ích của cả hai nước và của toàn khu vực. Hai nhà lãnh đạo cũng có chung quan điểm là những lợi ích chung này cần phải được thúc đẩy và bảo vệ ở Biển Đông”55.
Năm 2007, Việt Nam và Ấn Độ đã nâng cấp quan hệ song phương lên quan hệ đối tác chiến lược. Chuyến thăm Ấn Độ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang là để thúc đẩy hơn nữa quan hệ trong một loạt các lĩnh vực. Nhưng thời gian của hai chuyến thăm cao cấp của lãnh đạo Việt Nam đến Trung Quốc và Ấn Độ rõ ràng đưa một tín hiệu rằng Việt Nam đang tìm cách để duy trì trạng thái cân bằng trong quan hệ với bên ngoài. Tuyên bố chung cuối cùng, khi so sánh với lời lẽ của Tuyên bố chung Nhật Bản – Philippines, hoàn toàn nhẹ nhàng hơn khi nói đến các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông. Điểm 14 viết:
“Hai bên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì hoà bình, ổn định và đảm bảo an toàn, an ninh và tự do hàng hải ở vùng biển cả. Hai bên nhất trí rằng các tranh chấp ở Biển Đông phải được giải quyết thông qua đàm phán hoà bình, không sử ụng hoặc đe doạ sử dụng vũ lực của các bên liên quan, phù hợp với các nguyên tắc được thừa nhận rộng rãi của luật quốc tế, bao gồm Công ước Liên hiệp quốc về luật Biển 1982 và Tuyên bố chung vê cách ứng xử của các bên ở Biển Đông giữa ASEAN – Trung Quốc năm 2002”56.
Tuy nhiên, Tuyên bố chung lại có điều khoản nào về việc tăng cường “hợp tác trong lĩnh vực xây dựng năng lực, hỗ trợ kỹ thuật và chia sẻ thông tin giữa các cơ quan tương ứng để đảm bảo an ninh đường biển …” (Điểm 15).
Thoả thuận về giải quyết các vấn đề trên biển giữa Trung Quốc và Việt Nam.
Đầu năm 2010, Trung Quốc và Việt Nam đã bắt đầu thảo luận song phương về các vấn đề biên giới với mục đích là đạt được thoả thuận về một bộ “các nguyên tắc hướng dẫn cơ bản” như là một khuôn khổ cho việc giải quyết các vấn đề trên biển. Việt Nam và Trung Quốc đã nhất trí thảo luận song phương về vấn đề mà không ảnh hưởng đến các bên thứ ba, như vùng nước ở cửa Vịnh Bắc Bộ. Tuy nhiên, Việt Nam và Trung Quốc còn khác biệt về vấn đề đàm phán đa phương. Theo phía Việt Nam thì:
“Các vấn đề liên quan đến các nước và các bên khác như quần đảo Trường Sa thì không thể chỉ giải quyết giữa Việt Nam và Trung Quốc mà đòi hỏi có sự tham gia của các bên có liên quan khác. Đối với những vấn đề mà không chỉ liên quan đến các nước ven Biển Đông như vấn đề an toàn và an ninh hàng hải, các vấn đề này phải được đàm phán và giải quyết bởi tất cả các nước có chung lợi ích này”57.
Kết thúc vòng đàm phán thứ bảy vào ngày 1 tháng 8 năm 2011, một phát ngôn viên phía Việt Nam cho biết “hai bên đã đạt được sự đồng thuận ban đầu về một số nguyên tắc” và vòng thứ tám sẽ được tổ chức sau trong năm nay58.
Trước khi vòng tám được tổ chức, Trung Quốc và Việt Nam đã tổ chức hội nghị thường niên lần thứ năm của Ban chỉ đạo chung song phương ở Hà Nội vào 6 tháng 9. Đại diện của Trung Quốc là Uỷ viên Quốc Vụ viện Đới Bỉnh Quốc và người đồng nhiệm phía Việt Nam là Phó tướng Nguyễn Thiện Nhân. Ban Chỉ đạo chung đã xem xét tất cả các lĩnh vực trong quan hệ song phương. Hai bên đã thảo luận các yêu sách xung đột ở Biển Đông. Theo như thông cáo cuối cùng thì:
“Họ sẽ tăng tốc quá trình đàm phán và tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài có thể chấp nhận được đối với hai bên. Họ nhất trí tăng cường đàm phán về các vấn đề biển và ký thoả thuận về các nguyên tắc cơ bản hướng dẫn giải quyết các vấn đề trên biển giữa Trung Quốc và Việt Nam vào thời gian sớm nhất. Họ sẽ thúc đẩy việc thực thi Tuyên bố chung về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông và tiếp tục làm việc để cố gắng sớm đạt được những tiến bộ đáng kể”59.
Trung Quốc và Việt Nam rất giỏi trong lời văn của mình, và như đã lưu ý ở trên, thứ trưởng quốc phòng của hai nước đã ký Thoả thuận về các nguyên tắc cơ bản hướng dẫn việc giải quyết các vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc vào 11 tháng 1060. Thỏa thuận này cam kết rằng hai bên “tìm kiếm các giải pháp cơ bản và lâu dài, được cả hai phía chấp nhận cho các tranh chấp trên biển”. Trong thời gian đó, hai phía “sẽ tích cực thảo luận các biện pháp tạm thời mà không ảnh hưởng đến lập trường và chính sách của mỗi bên, bao gồm nghiên cứu và thảo luận về hợp tác cùng phát triển…”. Đặc biệt, hai bên sẽ thúc đẩy đàm phán phân định vùng nước ở cửa Vịnh Bắc Bộ “và thảo luận tích cực về hợp tác cùng phát triển trong những vùng nước này” (nhấn mạnh được thêm vào). Thoả thuận cũng chỉ rõ “nếu tranh chấp liên quan đến các nước khác, tham vấn sẽ bao gồm tất cả các bên có liên quan khác”.
Các chuyên gia pháp lý ASEAN.
Vào tháng 7, tại Hội nghị Bộ trưởng ASEAN lần thứ 44, Ngoại trưởng Philippines đã trình bày với các nhà đồng nhiệm của mình một đề xuất về một thoả thuận về một Khu vực Hoà bình, Tự do và Hợp tác ở Biển Đông. Các Bộ trưởng đã ghi nhận đề xuất này và chuyển nó sang một cuộc họp của các quan chức cao cấp ASEAN và các chuyên gia pháp lý để xem xét61. Để chuẩn bị cho cuộc họp này, Bộ Ngoại giao Philippines đã đưa ra một đề xuất nhằm “khoanh vùng” cho các tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông đê phân biệt các vùng này với những vùng không tranh chấp. Theo như đề xuất của Bộ Ngoại giao “sự phân vùng sẽ là thực hiện trên thực tế” gác tranh chấp lãnh thổ” và mở đường cho sự hợp tác hiệu quả và ý nghĩa giữa các nước có yêu sách ở Biển Tây Philippines hay Biển Đông”62.
Một hội nghị các chuyên gia pháp lý ASEAN đã được tổ chức ở Manila từ 22-23 tháng 9. Hội nghị này là một phần nỗ lực của Philippines nhằm hình thành một mặt trận thống nhất để đối phó với Trung Quốc63. Ngoại trừ Campuchia và Lào, tất cả các nước ASEAN khác đều có đại diện. Hội nghị này đã tổ chức thảo luận sâu rộng về sáng kiến ZoPFF/C của Philippines và đã quyết định chuyển đề xuất này sang Hội nghị các quan chức cao cấp ASEAN sắp tới để xem xét. Theo Ngoại trưởng Del Rosario thì “Để DOC trở nên hiệu quả, một khuôn khổ khả thi để hợp tác chung ở Biển Tây Philippines, như ZoPFF/C, sẽ được xem xét như la một điều bắt buộc”64. Hội nghị các quan chức cao cấp ASEAN được kỳ vọng là sẽ kiến nghị lên các Bộ trưởng trước khi Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 19 được tổ chức ở Bali vào tháng 11.
Các đối thoại quốc phòng và các thoả thuận hợp tác quốc phòng.
Việt Nam có đối thoại quốc phòng đã tồn tại từ lâu với Mỹ, Trung Quốc, Ấn Độ và Nhật Bản. Trong những năm gần đây, các vấn đề an ninh biển nói chung và tranh chấp ở Biển Đông nói riêng là những vấn đè nổi bật. Trong trường hợp của Việt Nam dường như rõ ràng là Hà Nội đã sử dụng các cuộc đối thoại quốc phòng với Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ để chống lại sự cứng rắn của Trung Quốc.
Việt Nam và Mỹ.
Việt Nam tổ chức hai cuộc đối thoại với Mỹ. Đầu tiên là một đối thoại Chính trị, An ninh và Quốc phòng được tổ chức giữa Bộ Ngoại giao Mỹ và Bộ Ngoại giao Việt Nam ở cấp thứ trưởng. Thứ hai và là đối thoại mới hơn, là đối thoại chính sách quốc phòng được tổ chức giữa Bộ Quốc phòng Mỹ và Bộ Quốc phòng Việt Nam ở cấp thứ trưởng. Phần ở dưới sẽ thảo luận từng đối thoại cũng như các diễn biến chính trong hợp tác quốc phòng song phương trong nửa sau của năm 2011.
Ngày 17 tháng 6, Mỹ và Việt Nam đã tổ chức Đối thoại Chính trị, An ninh và Quốc phòng lần thứ 4 ở cấp thứ trưởng. Chương trình nghị sự bao gồm chống phổ biến vũ khí huỷ diệt, chống khủng bố, chống ma tuý, thống kê POW-MIA (tù nhân chiến tranh và quân nhân mất tích – nd), vấn đề chất độc màu da cam (dioxin), hỗ trợ nhân đạo và giảm nhẹ thiên tai, và “các lĩnh vực hợp tác quốc phòng và an ninh khác”, bao gồm gìn giữ hoà bình và an ninh biển65. Biên bản báo chí (Media note) được ra cuối hội đàm bao gồm bốn đoạn, đoạn dài nhất là nói về vấn đê Biển Đông. Biên bản báo chí viết:
“Các đại biểu từ hai phía đã thảo luận những diễn biến gần đây ở Biển Đông. Hai bên nhận định rằng việc duy trì hoà bình, ổn định, an toàn và tự do hàng hải ở Biển Đông là lợi ích chung của cộng đồng quốc tế và mọi tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông phải được giải quyết thông qua một tiến trình hợp tác ngoại giao mà không có sự ép buộc hay sử dụng vũ lực. Hai bên cho rằng các yêu sách chủ quyền và cùng với các yêu sách về vùng biển phải phù hợp với các nguyên tắc của luật quốc tế, bao gồm Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982. Hai bên tái khẳng định tầm quan trọng của Tuyên bố chung về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông năm 2002 và khuyến khích các bên đạt được thoả thuận về một bộ quy tắc ứng xử đầy đủ. Phía Mỹ tái khẳng định rằng vụ việc trong những tháng gần đây không thúc đẩy hoà bình và ổn định khu vực, và bày tỏ quan ngại về an ninh biển, đặc biệt liên quan đến tự do hàng hải, không cản trở phát triển kinh tế và thương mại phù hợp với các điều kiện pháp lý và tôn trọng luật quốc tế”66.
Tháng sau đó Việt Nam và Mỹ đã tổ chức các hoạt động trao đổi hải quân ở cảng Đà Nẵng. Các hoạt động này bao gồm dự án cộng đồng (các dịch vụ y tế và nha khoa), và đào tạo trong lĩnh vực tìm kiếm và cứu hộ, kiểm soát thiệt hại, và lặn và cứu hộ67. Không cuộc tập trận hải quân chính thức nào được tiến hành.
Các hoạt động hợp tác quốc phòng Mỹ-Việt khác bao gồm việc ký kết một thoả thuận về đối tác quân y vào 1 tháng 8, thoả thuận hợp tác quân sự chính thức đầu tiên giữa hai nước68. Vào 5 tháng 8, Phó Đô đốc Scott Buskirk, Tư lệnh của Hạm đội 7 của Mỹ đã thăm Hà Nội để thảo luận với Trung Tướng Trần Quang Khuê, Phó Tổng tham mưu trưởng69. Vào 13 tháng 8, tàu sân bay USS Georgr Washington đã tổ chức một chuyến thăm cho các quan chức Việt Nam khi tàu này quá cảnh ở Biển Đông70. Vào 16 tháng 8, tàu USNS Richard E. Byrd đã thực hiện một chuyến thăm chưa có tiền lệ đến Cảng Cam Ranh trong một tuần để “bảo trì và sửa chữa định kỳ”. Đầy là lần thứ ba xưởng tàu của Việt Nma cung cấp dịch vụ bảo trì cho các tàu của Bộ Tư lệnh Hải vạn Quân sự Hoa Kỳ (US Military Sealift Command)71.
Ngày 19 tháng 9, Mỹ và Việt Nam đã tổ chức Đối thoại Chính sách Quốc phòng lần thứ hai ở Washington. DC. Đại diện phía Mỹ là Phó trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Robert Scher, đại diện phía Việt Nam là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh. Hai bên đã ký một Bản ghi nhớ về hợp tác quốc phòng bao gôm việc thiết lập một cơ chế đối thoại cấp cao giữa hia bộ quốc phòng, an ninh biển, tìm kiếm và cứu nạn, nghiên cứu việc giữ gìn hoà bình của Liên Hợp Quốc và hỗ trợ nhân đạo và giảm nhẹ thiên tai72. Cuối cùng, ngày 24 tháng 8, Thượng Nghị sĩ Jim Webb đã tiết lộ rằng Bộ Quốc phòng Mỹ đang nghiên cứu khả năng dỡ bỏ hạn chế về luật pháp việc bán công nghệ quân sự cho Việt Nam73.
Việt Nam và Trung Quốc.
Vào ngày 28 tháng 8, Trung Quốc và Việt Nam đã tổ chức Đối thoại Chiến lược Quốc phòng – An ninh lần thứ hai ở cấp bộ trưởng ở Bắc Kinh74. Thượng Tướng Mã Hiểu Thiên, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc đã tiếp đón người đồng nhiệm, Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Hai tướng đã nhất trí thúc đẩy trao đổi các đoàn quân sự, mở đường dây nóng giữa hai bộ quốc phòng, và mở rộng đào tạo quân sự. Tướng Mã cho rằng tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông là “vấn đề khó khăn và nhạy cảm nhất” trong quan hệ song phương. Tướng Vịnh trả lời bằng việc tuyên bố Việt Nam sẵn sàng “hợp tác phát triển chung với Trung Quốc ở những khu vực tranh chấp thực sự” phù hợp với luật quốc tế và lợi ích của cả hai bên. Tướng Vịnh cũng nhấn mạnh rằng có ba hướng liên quan mật thiết với vấn đề Biển Đông: “tuyên bố chủ quyền của các quốc gia có liên quan, giải quyết các vấn đề liên quan đến quan hệ Việt Nam và Trung Quốc và giải quyết các vấn đề ở các diễn đàn đa phương”75.
Việt Nam – Ấn Độ.
Vào 14 tháng 9, Ấn Độ và Việt Nam đã tổ chức Đối thoại An ninh lần thứ sáu ở cấp thứ trưởng tại Hà Nội. Đại diện của Ấn Độ là Thứ trưởng Quốc phòng Shashi Kant Sharma, trong khi Thứ trưởng Quốc phòng Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh đại diện cho Việt Nam. Trong quá trình thảo luận, hai bên thống nhất sẽ tăng cường trao đổi các phái đoàn, thông tin, đào tạo và công nghệ thông tin. Hai bên cũng thảo luận việc thiết lập một cơ chế để tăng cường hợp tác hải quân, không quân, lục quân và các vấn đề công nghiệp quốc phòng76. Truyền thông cho rằng Ấn Độ đang cân nhắc yêu cầu của Việt Nam trong việc đào tạo nhân sự để vận hành tàu ngầm lớp Kilo77. Tướng Vịnh đã trở lại Ấn Độ vào tháng 10 trong một phái đoàn đi cùng Chủ tịch nước Sang. Tướng Vịnh một lần nữa lại gặp Thứ trưởng Sharma, người đã tái khẳng định Ấn Độ sẵn sàng trợ giúp Việt Nam trong các lĩnh vực đào tạo quân đội, phát triển nguồn nhân lực và trao đổi thông tin78.
Việt Nam và Nhật Bản.
Vào 24 tháng 10, Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản và Việt Nam đã ký một bản ghi nhớ về việc thúc đẩy hợp tác quốc phòng. Bản ghi nhớ bao gồm các điều khoản về hội đàm quốc phòng thường xuyên ở cấp thứ trưởng, các chuyến thăm lẫn nhau ở cấp bộ trưởng, và trao đổi giữa Lực lượng phòng vệ Nhật Bản và Quân đội Nhân dân Việt Nam. Theo các quan chức Nhật Bản, hai Bộ trưởng đã thảo luận các vụ việc trên biển liên quan đến việc Trung Quốc cản trở các hoạt động trên biển. Bản ghi nhớ là một phần “để kiềm chế sự cứng rắn ngày càng tăng của Trung Quốc ở Biển Đông và Biển Hoa Đông”79.
Philippines và Mỹ.
Philippines và Mỹ đã tổ chức tham vấn quốc phòng thông qua hai cơ chế song phương là Uỷ ban Quốc phòng chung, được thành lập theo Hiệp ước Quốc phòng chung, và Uỷ ban trao đổi an ninh. Hai Uỷ ban này tổ chức các cuộc họp thường niên lần lượt ở từng nước. Uỷ ban Quốc phòng chung được đồng chủ toạ bởi Tư Lệnh Thái Bình Dương Mỹ và Tổng Tư lệnh AFP, tập trung chủ yếu vào các vấn đề quốc phòng truyền thống. Uỷ ban trao đổi an ninh nằm trong một tổ chức tham vấn và liên lạc, tập trung vào các vấn đề an ninh phi truyền thống, bao gồm an ninh và an toàn hàng hải. Cuộc họp lần thứ 52 của Uỷ ban Quốc phòng chung và lần thứ 5 của Uỷ ban trao đổi an ninh được tổ chức ở Hawaii từ 15-16 tháng 8. Các vấn đề được thảo luận như quốc phòng, an ninh biển (bao gồm cả việc buôn bán thiết bị), chống vũ khí, an ninh mạng và ứng phó với thảm hoạ.
Vào tháng 6-7, Philippines và Mỹ đã tổ chức Phối hợp Huấn luyện và Sẵn sàng chiến đấu trên biển (CARAT) trong 11 ngày ở vùng biển Puerto Princesa, tỉnh Palawan. Cuộc diễn tập này bao gồm ngăn chặn, tuần tra và bắn đạn thật80. Philippines và Mỹ đã tổ chức một loạt các cuộc diễn tập quân sự chung khác từ 27-28 tháng 10. Những cuộc tập trận này, bao gồm 3000 lính thuỷ đánh bộ, được tổ chức ở nhiều địa điểm xung quanh Biển Đông như gần bãi Scarborough (đối diện tỉnh Zambales) và phía tỉnh Palawan. Cuộc tập trận ở phía tây tỉnh Palawan bao gồm một cuộc đổ bộ tấn công nhằm bảo vệ một vị trí đổ bộ. Các lĩnh vực khác của tập trận chung bao gồm bắn đạn thật, phái đoàn y tế và các dự án hoạt động dân sự81.
Philippines và Nhật Bản.
Như một hệ luỵ của sự cứng rắn của Trung Quốc năm 2011, Philippines đã tìm kiếm sự giúp đỡ từ Nhật Bản và Việt Nam cùng với hiệp ước đồng minh với Mỹ. Vào tháng 9, trong chuyến thăm Tokyo của mình, Tổng thống Aquino và Thủ tướng Nhật Noda đã nhất trí tăng cường quan hệ an ninh trên biển bằng các tổ chức thường xuyên các đối thoại quốc phòng cấp cao, và đẩy mạnh hợp tác giữa Cảnh sát Biển và “các cơ quan liên quan đến quốc phòng” của cả hai nước. Thủ tướng Noda đã nhất trí tăng cường sự tham gia của Cảnh sát biển Nhật Bản trong việc đào tạo cho phía đồng nhiệm Philippines82.
Philippines và Việt Nam.
Trong năm 2011, Philippines đã tìm cách tăng cường quan hệ quốc phòng với Việt Nam trên cơ sở Hiệp định Hợp tác quốc phòng ký tháng 10 năm 2010. Vào tháng 9, Tướng Oban, Tổng Tư lệnh AFP, đã thăm Hà Nội để thảo luận với đồng nhiệm, Trung tướng Đỗ Bá Tỵ. Hai Tướng đã nhất trí đẩy mạnh trao đổi các phái đoàn và tin tức, thiết lập một đường dây nóng, và hợp tác trong tuần tra trên biển và tìm kiếm và cứu hộ83. Những vấn đề này là chủ đề thảo luận tại phiên họp cấp bộ trưởng lần thứ sáu của Uỷ ban Hợp tác Philippines – Việt Nam tại Hà Nội vào 7 tháng 1084. Hai Bộ trưởng Ngoại giao đã nhất trí đẩy mạnh đàm phán về thoả thuận chia sẻ thông tin, tăng cường liên lạc giữa hải quân hai nước, và thiết lập một đường dây nóng giữa Cảnh sát biển Việt Nam và Lực lượng bảo vệ bờ biển Philippines. Hai Bộ trưởng cũng ghi nhận những tiến bộ đạt được trong cuộc họp lần thứ 7 của nhóm làm việc chung về các vấn đề biển và đại dương và hội nghị lần đầu tiên của Uỷ ban chung về biển và đại dương ở cấp thứ trưởng ngoại giao vào năm 2012.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã thăm chính thức Philippines từ 26-28 tháng 10. Trong chuyến thăm hai bên đã đạt được thoả thuận giữa Lực lượng bảo vệ bờ biển Philippines và Cảnh sát biển Việt Nam nhằm tăng cường các quy định của việc thực thi luật biển trong vùng biển mỗi nước85. Thoả thuận này cũng bao gồm điều khoản về một đường dây nóng. Một Bản ghi nhớ đã được ký kết giữa Hải quân hai nước nhằm tăng cường hợp tác chung và chia sẻ thông tin liên quan đến tìm kiếm và cứu nạn, quy trình cảnh báo thảm hoạ tự nhiên và “các vấn đề an ninh biển khác”.
Trogn một bản thông cáo báo chí chung, Tổng thống Philippines và Chủ tịch nước Việt Nam đều kêu gọi thực hiện đầy đủ DOC trong các vùng tranh chấp. Chủ tịch Sang lên tiếng ủng hộ sáng kiến ZoPFF/C của Philippines86. Tổng thống Aquino cũng kêu gọi đầu tư của Việt Nam và lĩnh vực dầu khí và Chủ tịch Sang đã cho biết Việt Nam sẵn sàng xem xét vấn đề này87.
5. Xu hướng an ninh ảnh hưởng đến giải pháp cho tranh chấp lãnh thổ
Để thực hiện Nguyên tắc hướng dẫn thực hiện DOC và Thoả thuận về các nguyên tắc cơ bản liên quan đến tranh chấp trên biển giữa Trung Quốc và Việt Nam, mỗi bên ký kết phải thể hiện thiện chí và ý chí chính trị tôn trọng triệt để câu chữ và tinh thần của các thoả thuận này. Tiến triển trong các biện pháp xây dựng lòng tin và tự kiềm chế theo tinh thần DOC, được hy vọng, sẽ thúc đẩy các chuẩn mực củng cố các cơ chế pháp lý và kiềm chế hành vi của các quốc gia. Xu hướng tích cực này có thể chuẩn bị cho một Bộ Quy tắc ứng xử ràng buộc.
Kết luận nào chỉ ra sáu xu hướng lớn sẽ thách thức nếu không muốn nói là phá hoại các nỗ lực ngoại giao để biến Biển Đông thành một Khu vực Hoà bình, Tự do, Hữu nghị và Hợp tác nếu không quản lý một cách đúng đắn. Các xu hướng đó là:
1.
Các nỗ lực ngày càng nhiều để thăm dò và sản xuất dầu khí trong các khu vực tranh chấp ở Biển Đông của tất cả các quốc gia có yêu sách sẽ làm gia tăng căng thẳng. Điều này được thể hiện gần đây nhất bằng việc Trung Quốc phản đối Việt Nam cấp quyền thăm dò dầu khí cho Công ty ONGC-VL của Ấn Độ. Hơn nữa, dự án xây dựng dàn khoan thăm dò dầu lớn của Trung Quốc ở Biển Đông với khả năng có quân đội hộ tống càng làm gia tăng quan ngại ở Philippines.
2.
Sự phát triển sức mạnh của các cơ quan thực thi luật trên biển của Trung Quốc để thực thi quyền tài phán của Bắc Kinh ở Biển Đông sẽ gây ra những vụ việc thường xuyên hơn liên quan đến nghề cá và hoạt động của các tàu thăm dò dầu trong các vùng biển được Việt Nam và Philippines yêu sách.
3.
Hiện đại hoá lực lượng quân đội đã và sẽ vẫn tiếp tục dẫn đến việc cho ra đời nhiều loại tàu chiến được trang bị hệ thống vũ khí và công nghệ mới. Sự gia tăng thu mua tàu ngầm sẽ gây bất ổn định tiềm tàng. Tóm lại, tuyến đường biển khu vực “đang trở nên ngày càng đông đúc, tranh chấp và dễ bị tổn thương đối với xung đột vũ trang”88. Tốc độ hiện đại hoá quân đội nhanh chóng của Trung Quốc, cùng với cách ứng xử cứng rắn ở Biển Đông, đã dẫn đến việc một số nước Đông Nam Á cũng thực hiện các chương trình hiện đại hoá quân đội của chính mình để phát triển khả năng chống can thiệp và phong toả khu vực (anti-access/area-denila) trực tiếp nhằm vào Trung Quốc.
Năm 1995 Philippines đã đưa vào luật Đạo luật Hiện đại hoá các lực lượng vũ trang nhằm mục đích hiện đại hoá AFP trong mười lăm năm với tổng kinh phí 331 tỷ Peso. Quốc hội Philippines đã không thể thông qua và do đó AFP đã không đủ vốn. Chính quyền Aquino đã giải quyết sự bỏ bê này bằng dùng 11 tỷ Peso trong năm 2011 để hỗ trợ chương trình nâng cấp quân đội. 8 tỷ trong số này sẽ lấy từ dự án khí tự nhiên Malampaya và 3 tỷ còn lại lấy từ quỹ hiện tại của AFP89. Bắt đầu từ năm 2012, chính phủ sẽ thực hiện một chương trình hiện đại hoá năm năm tổng kinh phí 40 tỷ Peso (hoặc 8 tỷ Peso mỗi năm).
Đặc biệt là, ngay sau chuyến thăm Bắc Kinh của Aquino, Tổng thống đã tuyên bố dùng 4,95 tỷ Peso (118 triệu USD) để cung cấp cho ngân sách quốc phòng90. Những quỹ này được đánh dấu bằng việc mua một tàu tuần tra trên biển, sáu máy bay trực thăng và các thiết bị quân sự khác để đảm bảo an ninh cho Dự án Khí gas và Năng lượng Malampaya ở vùng biển tranh chấp ngoài khơi Palawan. Tàu US Coast Guard Weather Endurance Cutter, Gregario Del Pilar, sẽ hoạt động từ Palawan ở Bộ tư lệnh phía Tây với nhiệm vụ là bảo vệ Vùng đặc quyền kinh tế của Philippines. Chiếc tàu này sẽ được trang bị hệ thống rađa hiện đại hơn và đang được xem xét để trang bị tên lửa chống tàu.
Hiện tại các quan chức Philippines đã bắt đầu một “danh sách mong muốn” các thiết bị mới bao gồm: rađa bờ biển, máy bay tuần tra cự li dài, tàu hậu cần chiến lược, tàu tuần tra ngoài khơi, trực thăng trên biển, rađa phòng không, sáu đào tạo viên máy bay phản lực, máy bay tấn công bề mặt, tên lửa chống tàu và một tàu ngầm91.
Trái ngược với Philippines, Việt Nam đã khởi động một chương trình mạnh mẽ hơn trong việc hiện đại hoá lực lượng quân sự của mình. Năm 2011, nước này đã nhận bốn máy bay phản lực đa nhiệm Su-30MK2, hai tàu khu trực dẫn tên lửa Gephard, hệ thống tên lửa đạn đạo chống tàu trên bộ thứ hai của mình và hai Tàu tuần tra lớp Svetlyak92. Tháng 10, trong chuyến thăm của Chủ tịch Sang đến Ấn Độ, truyền thông trong nước đưa tin rằng Ấn Độ đang chuẩn bị bán cho Việt Nam tên lửa đầu đạn hạt nhân tầm thấp siêu âm BrahMos93. Cũng trong tháng đó, trong khi thăm Hà Lan, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã bày tỏ mong muốn mua hai đến bốn tàu hộ tống lớp Sigma94. Việt Nam hiện nay đã đặt mười sáu hoặc hơn máy bay phản lực Su-30MK2 và sẽ nhận sáu tàu ngầm lớp Kilo truyền thống vào năm 201495. Ngoài ra vào tháng 10, Việt Nam đã chính thức hạ thuỷ tàu chiến tự đóng96.
Việc mua tàu ngầm lớp Kilo của Việt Nam là một phần trong xu hướng hiện đại hoá hải quân của khu vực. Trung Quốc có hạm đội tàu ngầm lớn nhất (hơn 60 chiếc) và có kế hoạch mở rộng số lượng này bao gồm tàu ngầm tấn công hạt nhân 095 (SSN) và loại 094 (lớp JIN) tàu ngầm tên lửa đạn đạo hạt nhân (SSBN). Trung Quốc được cho là sẽ đặt cơ sở của cả hai tàu ngầm tên lửa đạn đạo và tấn công ở Căn cứ hải quân Yulin ở đảo Hải Nam.
Indonesia, nước đầu tiên ở Đông Nam Á có được tàu ngầm, đang xem xét thay thế các tàu này bằng các mẫu của Hàn Quốc mới hơn. Singapore đã nâng cấp hạm đội của mình lên bao gồm hai tàu ngầm lớp Archer, trong khi Malaysia đã có hai tàu ngầm lớp Scorpene. Cả tàu ngầm của Malaysia và Singapore đều được trang bị hệ thống phản lực độc lập. Brunei đã nhận các tàu tuần tra cao tốc được trang bị tên lửa Excoet.
4.
Việc Mỹ quay trở lại ở châu Á – Thái Bình Dương được nhiều nước Đông Nam Á hoan nghênh như một sự đóng góp tích cực cho ổn định của khu vực. Tuy nhiên sự tham gia của Mỹ sẽ gây ra sự cạnh tranh nếu không phải là sự thù địch trong quan hệ của nước này với Trung Quốc. Trung Quốc chắc chắn sẽ nhìn nhận dàn xếp xây dựng căn cứ ở Australia để bảo vệ tuyến giao thông đường biển Indo – Thái Bình Dương và việc Mỹ đặt tàu chiến ven biển ở Singapore như một nỗ lực nhằm kiềm chế ảnh hưởng và sức mạnh của Trung Quốc ở khu vực.
5.
Nhật Bản và Ấn Độ đang đóng vai trò ngày càng gia tăng trong an ninh khu vực để phản ứng lại sự cứng rắn của Trung Quốc. Cũng như với Mỹ, việc Nhật Bản và Ấn Độ tăng cường dính líu sẽ được nhiều quốc gia trong khu vực hoan nghênh nhưng không phải là Trung Quốc. Đặc biệt nếu quan hệ ba bên giữa Mỹ, Nhật và Ấn đạt được lực kéo vào hợp tác bốn bên bao gồm cả Australia.
6.
Sự phát triển của kiến trúc an ninh khu vực mới – tiến trình Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng và sự mở rộng của Cấp cao Đông Nam Á – đã thể hiện cam kết dính líu vừa phải của các cường quốc chủ yếu vào Đông Nam Á. Tuy nhiên, khả năng của các thể chế đa phương khu vực để nhận được mặt tốt về an ninh là phụ thuộc không chỉ vào khả năng của ASEAN để duy trì sự đoàn kết và cố kết như một động lực trung tâm mà còn vào cả sự sẵn sàng của các cường quốc để đóng vai trò mang tính xây dựng.
Bất cứ xu hướng nào nói trên cũng có thể dẫn đến căng thẳng về an ninh ngày càng gia tăng trong khu vực, trong đó chính trị thực dụng có thể được kỳ vọng sẽ là chế độ pháp lý chính. Trong trường hợp như vâyh Hướng dẫn thực thi DOC sẽ là không đủ để quản lý các căng thẳng an ninh nổi lên từ các tranh chấp ở Biển Đông.
--------------------------
Chú thích
* Carlyle A. Thayer là Giáo sư của Trường Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học New York Wales, Học viện Quốc phòng Australia, Canberra, ACT 2600 Australia. Nghiên cứu của ông tập trung vào an ninh và các vấn đề chính sách đối ngoại ở khu vực Đông Nam Á, đặc biệt quan tâm tới Việt Nam, ASEAN và Diễn đàn Khu vực ASEAN. Nhiều bài nghiên cứu của tác giả có thể xem tại www.scribed.com Email: c.thayer@adfa.edu.au.
1. “Chinese fishing boats violate Vietnam waters; gov’t mulls patrol boats”, Báo Thanh Niên, 29/5/2011.
2. Phái đoàn Philippines tại Liên hợp quốc, Công hàm gửi Tổng thư ký Liên hợp quốc, 11-00494, Só 00028, New York, 5/4/2011; Agence France Presse, “Philippines protests China’s Spratlys claim at UN”, 13/4/2011; Jerry E. Esplanada, “PH runs to UN to protest China’s ‘9-dash line’ Spratlys claims”, Philippines Daily Inquirer, 15/4/2011; và Tessa Jâmndrre, “PHL protests Chinese map claiming Spratly Island”, GMA News TV, 13/4/2011. KIG bao gồm 9 cấu trúc địa chất: Balagtas (Irving Reef), Kota (Loaita), Lawad (Nanshan), Likas (West York), Pag-asa (Thitu), Panata (Lankiam), Parola (Northeast Cay), Patag Island (Flat Island cũng được xem là một phần của Trường Sa) và Rizal (Commodore Reef).
3. Teresa Cerojano, “Beijing counters Manila’s UN protest, says Philippines ‘started to invade’ Spratlys in 1970s”, Associated Press, 19/4/2011 và Tessa Jamandre, “China fired at Filipino fishermen in Jackson atoll”, ABS-CBN News, 3/6/2011.
4. Johanna Paola Poblete, “Philippines preparing issue for UN about China ‘intrusions’”, Business World, 2/6/2011; Jim Gomez, “Philippines plans new UN protest as China denies aggressive acts in Spratly Islands”, Associated Press, 3/6/2011; và Amita O. Legaspi, “Palace prepares Spratlys incursions report”, GMA News TV, 3/6/2011.
5. Cộng hoà Philippines, Bộ Ngoại giao, “Statement of the Department of Foreign Affairs On the Presence of Chinese Vessels In the West Philippines Sea (South China Sea)”, 4/6/2011.
6. Agence France-Presse, “China says Philippines harming its maritime righs”, ABS-CBN News, 7/6/2011; Reuters, “China scolds Philippines over disputed waters”, 8/6/2011; và Xinhua, “Chinese Meets with Vietnamese Counterpart in Singapore”, 4/6/2011.
7. Bloomberg News, “US. Joint Navy Drills ‘Inappropriate’: China”, 11/7/2011.
8. ABS-CBN News, “China, PH agree to hold regular talks on Spratlys”, 23/5/2011; Christine O. Avendano and Dona Z. Pazzbugan, “Peaceful Spratlys resolution reaffirmed”, Philippines Daily Inquirer, 24/5/2011; Jim Gomez, “China, Philippines warn rivals on Spratlys” The China Post, 24/5/2011; Simone Orendain, “Philippines, China Support Discussion on South China Sea”, Voice of America News, 24/5/2011; and Jim Gomez, “China, Philippines defence chiefs discuss Spratlys”, Associated Press, 4/6/2011.
9. Willard Cheng, “Philippines, China OK South China Sea dialogue”, ABS-CBN News, 23/5/2011.
10. Agence France-Presse, “Philippines warns of arms race in South China Sea”, 24/5/2011 và William B.Depasupil, “Philippines Warns of Arms Race in South China Sea”, Manila Times, 25/5/2011.
11. Christine O. Avendano, Dona Pazzibugan and Jerome Aning, “Palace sees no terror backlash against Aquino visit to ship”, Philippines Daily Inquirer, 16/5/2011.
12. Michael Lim Ubac, “Philippines shops for US military gear”, Philippine Daily Inquirer, 5/6/2011.
13. Shirley Escalante, “Philippines increase security for oil exploration”, Australia Network News, 28/4/2011.
14. “Philippines set to deploy new patrol ship to Kalayaan Islands”, Manila Bulletin, 14/4/2011; Agence France-Presse, “Philippines to boosts Spratly patrols”, Channel News Asia, 15/4/2011; và Marichu A. Villanueva, “Keeping Phl Navy afloat”, The Philippines Star, 16/5/2011.
15. Jon Grevatt, “Philippines to invest USD 183 million in defence of Spratly Islands”, Jane’s Defence Weekly, 30/5/2011; Reuters, “Philippines steps up presence in South China Sea”, 28/3/2011; Associated Press, “Philippines to bolster watch in disputed Spratlys”, Bloomberg Businessweek, 28/3/2011; and “China denies incursion into West Philippines Sea”, The Philippines Star, 3/6/2011.
16. Jaime Laude, “AFP to maintain presence in Spratlys”, The Philippines Star, 29/3/2011.
17. Katherine Evangelista, “Philippines eye submarines to boost navy”, Philippine Daily Inquirer, 17/5/2011. Viễn cảnh Philippines đạt được tàu ngầm là khó xảy ra.
18. Reuters, “Philippines says will spend $255 min on military helicopters, boats”, 13/4/2011 và Agence France Presse, “Philippines hopes sea dispute with China should ease”, 3/9/2011.
19. Albert F. Del Rosario, “A Rules-Based Regime in The South China Sea By: Secretary of Foreign Affairs”, Public Information Service Unit, 7/6/2011.
20. Amita O. Legaspi, “Palace prepares Spratlys incursions report”, GMA News TV, 3/6/2011.
21. Johanna Paola D. Poblete, “Philippines preparing issues for UN about China ‘intrusions’”, Business World, 2/6/2011.
22. “Adoption of territorial guidelines urged”, Manila Bulletin, 2/6/2011.
23. Carlyle A. Thayer, “Vietnam and Rising China: The Structural Dynamics of Mature Asymmetry” trong Daljit Singh, ed., Southeast Asian Affairs 2010 (Singapore: Institute of Southeast Asian Studies, 2010), 392-409.
24. Li Qiong, “China, Vietnam Issue Joint Press Communiques on CMC Vice Chairman Guo Boxing’s Visit to Vietnam” Xinhua, 17/4/2011.
25. Vietnam News Agency, “Party Leader’s Meeting with Chinese Genaral”, 14/4/2011.
26. Hải quân Trung Quốc và Việt Nam tiến hành tuần tra chung theo thông lệ lần thứ 11 ở Vịnh Bắc Bộ từ ngày 19-20/6. Margie Mason, “Vietnam and China hold joint naval patrol amid spat”, Associated Press, 21/6/2011. Sau khi tiến hành tuần tra chung, tàu Việt Nam đã thực hiện chuyến thăm Zhanjiang, Guangdong, là chuyến thăm cập cảng lần thứ 2 của Việt Nam đến Trung Quốc. Xem: “Vietnamese naval ships on friendly visit to China”, Quan Doi Nhan Dan online, 22/6/2011; “China, Vietnam engage in Joint naval patrols”, People’s Daily online, 22/6/2011; and “Vietnamese naval ships wrap up visit to China”, Quan Doi Nhan Dan online, 27/6/2011.
27. “Vietnam, China talk border-related issue”, Vietnam News Agency, 18/4/2011.
28. Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, Bộ Ngoại giao, “Vietnamese Prime Minister Nguyen Tan Dung Meets with Chinese Vice Foreign Minister Zhang Zhijun”, 20/4/2011.
29. Deutsche Presse-Agentur, “Vietnam and China pledge to settle South China Sea disputes”, 20/4/2011 và Agence France Presse, “Vietnam, China vow to work on disputed sea pact”, 20/4/2011.
30. Phung Quang Thanh, “Responding to New Maritime Security Threats”, bài phát biểu tại Cấp cao An ninh Châu Á IISS Đối thoại Shangri-la lần thứ 10, 5/6/2011.
31. “East Sea incident a pressing issue: Vietnamese Defense Minister” Báo Thanh Niên, 4/6/2011.
32. Xinhua, “Chinese DM Meets with Vietnamese Counterpart in Singapore”, 4/6/2011.
33. Agence France Presse, “Vietnam complains to China as sea tensions rise”, 9/6/2011 và Ian Timberlake, “Vietnam to hold live-fire drill as China rift grows”, June 10, 2011.
34. Agence France Presse, “Vietnam PM says sea sovereignty ‘incontestable’”, 9/6/2011.
35. Deutche Presse-Agentur, “Vietnam’s top leaders add fire to South China Sea dispute”, 9/6/2011.
36. Bảo đảm An ninh Hàng hải Miền Bắc (Northern Maritime Safely Corporation), “Về việc bắn đạn thật trên vùng biển Quảng Nam” Số 107/TBHH-CT.BDATHHMB, 9/6/2011, http://www.vms-north.vn
37. Margie Mason, “Vietnam plans live-fire drill afer China dispute”, Associated press 10/6/2011; Agence France Presse, “Vietnam to hold live-fire drill as China rift grows”, 10/6/2011; and Deutsche Presse-Agentur, “Navy official says live-fire drills well inside Vietnam’s territory”, 11/6/2011.
38. Thông bằot một nguồn tin mật từ quân đội Việt Nam cho tác giả.
39. The Global Times, một tờ báo tiếng Anh do Đảng Cộng sản Trung Quốc xuất bản, hiệu đính ngày 11/6 rằng, việc tiến hành bắn đạn thật của Việt Nam là “hình thức hèn hạ nhất của chủ nghĩa dân tộc nhằm tạo ra một sự thù địch mới giữa dân tộc hai nước”, trích dẫn ở Associated Press, “Chinese Communist Party newspaper cautions Vietnam”, 11/6/2011.
40. Deutsche Presse-Agentur, “Decree on military call-up sparks online patriotism in Vietnam”, 14/6/2011 và Agence France-Presse, “Vietnam signs military order amid tensions”, 15/6/2011. Sắc lệnh cũng liệt kêt 8 nhóm được miễn nghĩa vụ quân sự.
41. BBC News Asia-Pacific, “Vietnam bolsters military stance amid China marine row”, 14/6/2011.
42. Xinhua, “Chinese president vows to further ties with Vietnam”, 18/2/2011 và Voice of Vietnam News, China’s Hu Jintao invites Nguyen Phu Trong”, 19/2/2011.
43. Edward Wong, “China and Vietnam agree to talks on South China Sea dispute”, The New York Times, 26/6/2011; Brian Spegele, “China announces pact with Vietnam on disputes sea”, The Wall Street Journal, 26/6/2011; Dan Martin, “China, Vietnam vow to cool S. China Sea tensions”, Agence France Presse, 27/6/2011; and Qin Zongwei, “China, Vietnam agree on talks to solve sea dispute China Daily, 27/6/2011.
44. Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ Ngoại giao, “Viet Nam-China joint press release”, 26/6/2011. http://www.mofa.vn/en. Các cuộc biểu tình tiếp tục ở Hà Nội cho đến ngày 21/8.
45. ASEAN, “Quy chế Làm việc của JWG ASEAN – Trung Quốc về Thực hiện DOC”, 7/12/2004. Xem tại: http://www.asean.org/16886htm.
46. ASEAN, “The Guidelines for the Implementation of the DOC”, http://www.asean.org/4979.htm. Bản hướng dẫn DOC được công khai trên trang web của Ban Thư ký ASEAN, dưới Quan hệ Đối ngoại, Trung Quốc, Hợp tác ở Biển Đông. Bản hướng dẫn sau đó đã bị gỡ bỏ.
47. Purple S. Romero, “Asean, China adopt guidelines on Spratlys”, Newsbreak, 22/7/2011.
48. “Aquino back from 5-day US visit”, 23/9/2011 và Manolo B.Jara, “Aquino brings home $13b worth of China investments”, The Gulf Today, 5/9/2011. Jara đưa tin, “Aquino cho biết ôn đã mang về khoản đầu tư mới trị giá 1,28 tỷ USD, 3,8 tỷ USD đầu tư đảm bảo và 7,9 tỷ USD từ các doanh nhân muốn đầu tư vào Philippines”.
49. “Tuyên bố chung Philippines và Trung Quốc, Bắc Kinh ngày 1 tháng 9 năm 2011”, in lại trong Inquirer Global Nation, 7/9/2011.
50. “China Wants Binding S. China Code: Aquino”, Bloomberg News, 31/8/2011 và Barbara Mae Dacanay, “China and Philippines agree to peace over South China Sea”, Gulf News, 2/9/2011.
51. Ba thoả thuận khác cũng được ký kết: trao đổi giáo dục (2011-2015), nghị định thư về việc sửa đổi Hiệp định Vận tải đường bộ, và một nghị định thư bổ sung để thực hiện Hiệp định Vận tải đường bộ.
52. “Tuyen bo chung hai nuoc Viet Nam va Trung Quoc”, Vietnam News Agency, 15/10/2011.
53. “Tuyen bo hai nuoc Viet Nam va Trung Quoc”, Vietnam News Agency, 15/10/2011, điểm 4 (iv).
54. On the Philippines, see: Amando Doronila, “Aquino’s balance of power diplomacy over Spratlys”, Philippines Daily Inquirer, October 3, 2011.
55. “Japan-Philippines Joint Statement on the Comprehensive Promotion of the ‘Strategic Partnership’ between Neighboring Countries Connected by Special Bonds of Frienship”, 27/9/2011.
56. Republic of India Ministry of External Affairs, “Joint Statement on the occasion of the visit of the President of Vietnam”, 12/10/2011, http://meaindia.nnic.in/mystart.php?id=190018387. Truy cập 14/10/2011.
57. Socialist Republic of Vietnam, Ministry of Foreign Affairs, “Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Nguyễn Phương Nga trả lời câu hỏi của Greg Torode – South China Morning Post, Tháng 12 năm 2010” Torode rất tốt bụng đã cung cấp cho tác giả bản sao của tài liệu này.
58. “Vietnam, China agree to resolve sea dispute through peaceful means”, Vietnam News Agency, 3/8/2011.
59. People’s Republic of China, Ministry to Foreign Affairs, Joint Press of the 5th Meeting of China-Vietnam Steering Committee for Bilateral Cooperation, 8/9/2011. http://www.fmprc.gov.cn/eng/zxxx/t857247.htm.
60. “Thoa thuan ve nhung nguyen tac co ban chi dao giai quyet van de tren bien giua nuoc CHXHCN Viet Nâm va nuoc CHND Trung Hoa”, Vietnam News Agency, 12/10/2011.
61. Bea Cupin, “ASEAN, China agree to heed guidelines covering Spratlys”, GMA News, July 20, 2011 and Brian Padden, “ASEAN Maritime Specialists Discuss Guidelines to Resolve S. China Sea Dispute”, Voice of America, 22/9/2011.
62. “DFA to propose ‘enclaving’ of disputed areas in South China Sea”, GMA News, September 21, 2011 and “VP Binay pushes for DFA proposal on Spratlys” GMA News, 22/9/2011.
63. Agence France Press, “Philippines says it is making headway on sea row”, 23/9/2011 và Jim Gomez, Associated Press, “Philippines launches regional meeting to discuss disputed area”, The China Post, 23/9/2011.
64. “ASEAN Expert’s Meet endorses PHL proposal on South China Sea”, GMA News, 24/9/2011.
65. “U.S -Vietnam Political, Security, and Defense Dialogue”, and “Fourth U.S-Vietnam Political Security, and Defense Dialogue”, U.S. Department of State, Office of the Spokesperson, Media Note, Washington, D.C., 17/6/2011.
66. “U.S-Vietnam Political, Security, and Defense Dialogue”, U.S. Deparment of State, Office of the Spokesperson, Media Note, Washington, D.C., 17/6/2011
67. U.S. Consulate General in Ho Chi Minh city, Public Affairs Section, Press Advisory, July 1, 2011 and Agence France Presse, “US Navy says no S. China link to Vietnam visit”, 24/6/2011.
68. “U.S., Vietnam Establish Formal Military Medical partnership”, U.S. Navy Bureau of Medicine and Surgery Public Affairs, 3/8/2011 and “Vietnam, US set for military medical partnership”, Thanh Nien News, 2/8/2011.
69. “US 7th Fleet Commander visits Vietnam”, People’s Army Newspaper Online, 6/8/2011.
70. Jacob D. Moore, “USS George Washington Welcomes aboard Vietnamese Visitors”, trang chủ của Commander U.S. 7th Fleet, 1/8/2011.
71. “MSC Ship: First USN Ship to Vietnam Port in 38 years”, MarineLink.com, 23/8/2011.
72. “VN, US hold second defence policy dialogue”, VietNamNet, 20/9/2011; “Second Viet Nam – US defence policy dialogue yields good results”, Vietnam News Agency, 20/9/2011; và “Vietnam, US ink deal to boost defense ties”, Thanh Nien News, 22/9/2011.
73. “U.S. May Sell Military Technology to Vietnam, Senator Says”, Bloomberg News, 24/8/2011.
74. Về mặt kỹ thuật đầy là đối thoại lần thứ năm nâng cấp lên cấp thứ trưởng sau hội nghị lần thứ ba. Điều này diễn ra sau khi Việt Nam và Mỹ bắt đầu Đối thoại Chính sách quốc phòng.
75. “Vietnam, China hold second defence, security dialogue”, Vietnam News Agency, 31/8/2011.
76. “6th Vietnamese-Indian Strategic Dialogue at deputy ministerial level held in Ha Noi”, Vietnam News Agency, 14/9/2011.
77. “India, Vietnam to increase defence, security cooperation”, Indo-Asian News Service, 16/9/2011.
78. “VN, India vow to step up defence, financial ties”, People’s Army Newspaper Online, 14/10/2011.
79. Kyodo, “Japan, Vietnam sign memo on defense cooperation enhancement”, Mainichi. 25/10/2011.
80. Al Labita, “US hesitates on Philippines arms”, Asiatimes.com, 2/7/2011.
81. Associated Press, “US, Philippines marines begin drills near Spratlys”, 17/10/2011; “PHL-US Marine training will not affect Spratlys issues – official,” GMA News, 17/10/2011; và Associated Press, “US, Filipino marines hold combat drill near South China Sea shoal disputed by Beijing, Manila”, The Washington Post, 24/10/2011.
82. Yore Koh, “Tokyo and Manila Strengthen Defense Ties with an Eye toward China”, The Wall Street Journal, 28/9/2011.
83. “VN, Philippines to boost military ties”, Vietnam News Agency, 29/9/2011.
84. “The sixth session of the Viet Nam – Philippines Bilateral Cooperation Commitee in Hanoi Oct, 7”, Vietnam News Agency, 7/10/2011.
85. “Vietnam, Philippines strengthen ties between navies, coast guards”, Vietnam News Service, 27/10/2011.
86. Agence France-Presse, “Vietnam backs Philippines sea peace zone plan”, 27/10/2011.
87. BBC, “Philippines moi Viet Nam dau tu dau khi”, 28/10/2011.
88. Rory Medcalf and Raoul Heinrichs, Crisis and Confidence: Major Powers and Maritime Security in Indo-Pacific Asia (Sydney: Lowy Institute for International Policy, tháng 6, 2011), 3.
89. Alexis Romero, “Submarine for Navy? Noy bares AFP shop list”, The Philippines Star, 24/8/2011.
90. Agence France-Presse, “Philippines Ups Spending To Guard South China Sea”, 7/9/2011.
91. Alexis Romero, “Submarine for Navy? Noy bares AFP shop list”, The Philippines Star, 24/8/2011.
92. “Russia exports aircrat to Vietnam”, The Voice of Russia, 22/6/2011; BBC, “Hai quan Viet Nam nhan tau chien Nga”, 24/8/2011; “Russia delivers second coastal missile system to Vietnam”, Interfax-AVN military news agency, 11/10/2011; and BBC, “Nga giao tiep hai tau tuan tra cho VN”, 25/10/2011.
93. “India to sell BrahMos missile to Vietnam”, The Asian Age, 20/9/2011 và Robert Johnson, “India is Preparing To Sell BahMos Supersonic Cruise Missile to Vietnam”, Business Inside, 20/9/2011.
94. BBC, “VN dam phan mua 4 tau chien cua Ha Lan”, 18/10/2011
95. “Russia to supply Vietnam six submarines in 2014” Thanh Nien News, 3/7/2011.
96. BBC, “Viet Nam tu dong tau chien”, 3/10/2011.
.
.
.
No comments:
Post a Comment