09 Mar 2017
Vào
cuối tháng 2 vừa qua, một phái đoàn dân biểu của Quốc hội châu Âu đã đến Việt
Nam để tìm hiểu về tình hình nhân quyền ở đây và đưa ra lời đáp cho câu hỏi: Với
tình hình hiện tại, nên hay không nên phê chuẩn Hiệp định Thương mại Tự do giữa
EU với Việt Nam (EVFTA)?
Khi gặp gỡ phái đoàn, đại diện một số tổ chức xã hội
dân sự (XHDS) đã nêu một thông điệp rõ ràng để trả lời rằng: Không, với thực trạng
nhân quyền Việt Nam và nội dung thỏa thuận hiện nay thì không thể có hiệp định
thương mại nào cả.
Đại diện một số tổ chức XHDS Việt Nam gặp gỡ phái đoàn dân biểu EU ngày
23/2 vừa qua. Ảnh: Nguyễn Chí Tuyến.
Vì sao các nhà hoạt động XHDS lại nói như vậy? Chẳng
nhẽ họ không ủng hộ EVFTA, trong khi EVFTA và TPP là hai hiệp định thương mại tự
do lớn nhất của Việt Nam từ trước đến nay, xét về thị trường và về phạm vi cam
kết?
Nếu hiểu sâu hơn về EVFTA, ta sẽ thấy nó không phải
là một cây đũa thần cho nền kinh tế Việt Nam, nếu như nó không được gắn với các
điều kiện về nhân quyền. Quan trọng hơn nữa, ta cần nhận ra rằng nếu nhân quyền
không được bảo vệ thì sẽ không thể có sự phát triển nào bền vững.
Bị khiếu
nại vì thiếu báo cáo đánh giá tác động nhân quyền
EVFTA là một hiệp định thương mại tự do giữa Việt
Nam và 28 nước thành viên EU. Quá trình đàm phán bắt đầu từ ngày 26/6/2012 và đến
đầu tháng 12/2015 thì hoàn tất. Hai tháng sau, ngày 1/2/2016, văn bản hiệp định
được công bố. Hiện giờ nó chỉ còn chờ quốc hội hai bên phê chuẩn là chính thức
có hiệu lực.
Có thể nói quá trình đàm phán đã diễn ra rất nhanh
chóng, chỉ có điều, ở giữa chừng đã xảy ra một “sự cố”: Ngày 30/4/2013, Ủy ban
Nhân quyền Việt Nam thuộc Liên đoàn Quốc tế về Nhân quyền (FIHR, một tổ chức
nhân quyền quốc tế lớn) liên lạc với Ủy ban châu Âu (cơ quan hành pháp của EU)
để đề nghị họ tiến hành báo cáo đánh giá tác động nhân quyền của EVFTA nhằm đảm
bảo rằng EVFTA, nếu được ký kết và thực thi, sẽ không đưa đến việc hai bên nhà
nước vi phạm các nghĩa vụ nhân quyền của họ.
Ủy ban châu Âu từ chối, đưa ra nhiều lập luận như:
EVFTA sẽ đánh giá tất cả các tác động kinh tế, xã hội, môi trường và nhân quyền
chung trong một tài liệu; quá trình đàm phán dựa theo khuôn khổ pháp lý của đàm
phán giữa Việt Nam với các nước ASEAN, mà như thế thì chẳng có điều khoản nào
yêu cầu phải làm báo cáo đánh giá tác động nhân quyền.
Ủy ban châu Âu cũng cho rằng báo cáo đó là không cần
thiết, bởi vì sau khi ký EVFTA, chắc chắn EU vẫn sẽ tiếp tục thúc đẩy nhân quyền
ở Việt Nam thông qua cơ chế đối thoại, ngoại giao, và tiếp xúc với các nhà hoạt
động nhân quyền.
Ngoài ra, Ủy ban châu Âu còn nêu rõ: Đã có nhiều tiền
lệ cho thấy mở rộng thương mại và nâng cao thu nhập sẽ tạo điều kiện cho phát
triển bền vững, mà phát triển bền vững trong thời gian dài thì sẽ cải thiện
nhân quyền. (Đây vốn là một lập luận mà những người ủng hộ quan điểm “kinh tế
phải đi trước chính trị” ưa dùng).
Tháng 8/2014, Ủy ban Nhân quyền Việt Nam bèn khiếu nại
vụ việc ra cơ quan thanh tra của EU, Ombudsman.
Ombudsman do Quốc hội châu Âu bầu ra, gần giống như
thanh tra nhà nước hay thanh tra quốc hội. Cái hay của cơ chế này là bất kỳ
công dân hay pháp nhân nào của EU cũng có thể gửi khiếu nại tới Ombudsman đề
nghị điều tra bất kỳ cơ quan nào của EU về các vi phạm hành chính, chẳng hạn
như: có sự phân biệt đối xử, không công bằng, lạm quyền, chậm phản hồi dân,
không cung cấp thông tin cho dân…
Đứng đầu Ombudsman hiện nay là bà Emily O’Reilly và
đây là người đã thanh tra về EVFTA theo đơn khiếu nại của Ủy ban Nhân quyền Việt
Nam.
Không
chế tài, không ràng buộc
Đánh giá về EVFTA, một nhà kinh tế Việt Nam – Thạc
sĩ Nguyễn Khắc Giang (Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách, VEPR) – nhận định:
“So giữa EVFTA và TPP, nếu được chọn thì
tôi thích chọn TPP hơn vì nó rất cụ thể và nó có chế tài xử lý”.
“EVFTA thì có điều khoản về nhân quyền nhưng không có chế tài. Tức là chỉ
yêu cầu vậy thôi chứ không đưa ra tiêu chí thế nào thì là đáp ứng được các tiêu
chuẩn về nhân quyền, thế nào là đáp ứng các tiêu chuẩn về quyền lao động.”
“Như vậy thì rất khó đánh giá kết quả. Trong khi đó, TPP quy định rất rõ:
Trong vòng 5 năm, phải có công đoàn độc lập tách biệt với công đoàn hiện hành ở
Việt Nam bây giờ, nếu không sẽ bị xử phạt như thế… như thế…”.
Ông Giang nhận xét thêm: “Một hiệp định thương mại tự do, nếu có quy định và chế tài rõ ràng, thì
sẽ tạo sức ép lớn hơn để thúc đẩy những thay đổi về thể chế, từ đó tạo ra nhiều
tự do hơn về mặt kinh tế cũng như nhân quyền cho người dân và các tổ chức ngoài
công lập khác”.
Không có cánh cửa nào tươi sáng hơn cho quyền lợi của người lao động Việt
Nam. Ảnh: Tuổi Trẻ.
Câu hỏi đặt
ra là, khi một hiệp định thương mại tự do lớn như EVFTA không có ràng buộc gì về
nhân quyền, thì sao? Chẳng nhẽ các điều khoản liên quan đến nhân quyền lại quan
trọng đến thế? Câu trả lời là: Đúng vậy, các điều khoản liên quan đến nhân quyền
có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với EVFTA, thậm chí chúng quyết định sự phát
triển bền vững của xã hội.
Ai cũng có thể nói như Ủy ban châu Âu, rằng mở rộng
thương mại tức thì sẽ nâng cao thu nhập cho giới doanh nghiệp và tổng thu nhập
của xã hội nhờ đó cũng tăng theo. Kinh tế sẽ phát triển, kéo theo phúc lợi. Nói
cách khác, miếng bánh của cả xã hội sẽ lớn hơn và ai cũng được hưởng phần; giới
chủ giàu thì người lao động cũng giàu.
Tuy nhiên, vấn đề là ở một đất nước nơi nhân quyền
không được bảo vệ, không có gì đảm bảo khi giới chủ giàu thì người lao động
cũng giàu, hay thu nhập của nhà xuất nhập khẩu tăng 10 thì lương công nhân cũng
tăng 10 hoặc ít nhất là 7-8.
Nhân quyền ở đây chính là quyền của người lao động,
được gọi tắt là các quyền lao động. Chúng bao gồm các quyền như: quyền được làm
việc, được tự do lựa chọn công việc, được hưởng lương bình đẳng với những người
khác nếu công việc như nhau, quyền mặc cả tập thể và đặc biệt, quyền thành lập
và tham gia nghiệp đoàn để bảo vệ lợi ích của chính mình.
Chỉ khi các quyền này được đảm bảo thì miếng bánh mà
EVFTA mang lại mới có phần cho người lao động Việt Nam. Bằng không, lợi nhuận sẽ
chỉ rơi vào tay giới chủ doanh nghiệp, nhất là vào tay các công ty Trung Quốc,
Hàn Quốc, Đài Loan. Những doanh nghiệp này đã tăng cường đầu tư vào Việt Nam
trong một số ngành có thế mạnh xuất khẩu (như dệt may) trong những năm vừa qua,
nhằm “đón đầu” một hiệp định thương mại rất lớn là TPP (nay đã “chết lâm sàng”
sau khi Mỹ tuyên bố rút).
Nhân quyền cũng còn là quyền lập hội nói chung
(không chỉ là thành lập nghiệp đoàn), quyền tự do biểu đạt, tự do ngôn luận, tự
do tôn giáo…
Một nghị quyết của Quốc hội châu Âu vào ngày
17/12/2015 về việc ký Hiệp định khung quan hệ hợp tác và đối tác toàn diện giữa
Việt Nam với EU (1) đã nhận định rằng Việt Nam vẫn tiếp tục hạn
chế quyền tự do biểu đạt (cả trên mạng và ngoài đời), tự do báo chí, tự do hiệp
hội và tự do tôn giáo, và đây là một vấn đề nghiêm trọng.
“Thiếu các quyền căn bản như tự do hiệp hội để lập
nghiệp đoàn, tự do hội họp để đình công, tự do ngôn luận để lên tiếng, làm
sao chúng tôi có thể bảo vệ được quyền lợi của người lao động Việt Nam trong
bối cảnh cạnh tranh toàn cầu mà bản FTA này góp phần tạo ra? Làm sao FTA này
có thể mang đến lợi ích cho số đông người lao động, thay vì chỉ một nhóm rất
nhỏ, nếu nó không tôn trọng các quyền căn bản của người lao động? Tóm lại, nếu
không được gắn với các điều kiện nhân quyền, đặc biệt là quyền lao động,
chúng tôi dứt khoát phản đối”.
Tuyên
bố chung của 11 tổ chức XHDS độc lập Việt Nam về EVFTA, ngày 23/2/2017.
|
Ngay cả
thanh tra cũng không hài lòng
Ngày 26/3/2015, Ombudsman ra khuyến nghị yêu cầu Ủy
ban châu Âu tiến hành ngay lập tức báo cáo đánh giá tác động nhân quyền của
EVFTA, dù không có điều khoản nào quy định việc này đi chăng nữa. Ngày 31/7, Ủy
ban châu Âu từ chối khuyến nghị của Thanh tra.
Bà Emily O’Reilly, Chủ tịch Ombudsman không có nhiều lý do để hài lòng với
thoả thuận giữa EU và Việt Nam. Ảnh: Website Ombudsman.
Hai bên tranh luận qua lại. Tuy nhiên, Ombudsman đã
chỉ ra một nhược điểm lớn của EVFTA: Nó chỉ có một chương về tác động xã hội và
môi trường của hiệp định (chương “Thương mại và phát triển bền vững”) mà không
có chương nào về tác động nhân quyền. Nó cũng chỉ đề cập chung chung tới các
tiêu chuẩn về lao động, mà không mô tả một cơ chế cụ thể nào để thực thi những
tiêu chuẩn này, và không đánh giá ảnh hưởng của thương mại và đầu tư lên nhân
quyền.
Thanh tra cho rằng EVFTA phải quy định về việc thành
lập một hội đồng nhân quyền nhằm đánh giá tác động của hiệp định đối với nhân
quyền ở Việt Nam, và có cơ chế giải quyết, bồi thường… nếu xảy ra vi phạm nhân
quyền.
“Hội đồng đó phải bao gồm các nhà hoạt động nhân quyền và các NGO độc lập
trong lĩnh vực nhân quyền”, “Hiệp định phải xây dựng một cơ chế khiếu nại mà
các cá nhân, các cộng đồng bị ảnh hưởng bởi thương mại và đầu tư đều có thể tiếp
cận”.
Dù vậy, cuối cùng, quá trình đàm phán về EVFTA giữa
EU và Việt Nam vẫn kết thúc mà không có báo cáo đánh giá tác động nhân quyền
nào được lập. Ngày 26/2/2016, Thanh tra Emily O’Reilly ra kết luận phê bình: “Ủy ban châu Âu đã không đưa ra được giải
thích hợp lý nào cho việc họ từ chối tiến hành báo cáo đánh giá tác động nhân
quyền của Hiệp định Thương mại Tự do giữa EU với Việt Nam, trong khi vẫn tiếp tục
đàm phán về Hiệp định. Điều này cấu thành một sự vi phạm hành chính”. (2)
Tất nhiên, đối với người dân Việt Nam thì việc Ủy
ban châu Âu vi phạm hành chính không quan trọng bằng việc Hiệp định Thương mại
Tự do EU-Việt Nam đã không có điều khoản mang tính ràng buộc nào về nhân quyền
và sẽ không bảo vệ quyền lợi cho người lao động Việt Nam khi nó được thực thi.
*
Tài
liệu tham khảo:
No comments:
Post a Comment