Nguyễn Thị Hậu
Cập
nhật lần cuối 23/03/2017
Quốc
gia nào dân tộc nào cũng có hệ thống di tích lịch sử văn hóa và lễ hội truyền
thống. Đó là kho tàng di sản văn hóa chứa đựng giá trị tinh túy và luôn được gạn
lọc những gì không còn phù hợp với thời đại mới. Khoảng hơn mười năm nay ở nước
ta truyền thống "tháng Giêng là tháng ăn chơi" đã sống lại và phổ biến
nhờ hàng lọat lễ hội mở ra với mật độ dày đặc trong khoảng thời gian không dài,
quy mô tổ chức ra ngòai phạm vi một địa phương, nhất là lễ hội ở khu vực phía Bắc.
Lễ
và hội và... lộc (1)
Lễ
hội là loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian bao gồm phần lễ và phần hội. Phần lễ
thường diễn ra ở những nơi tôn nghiêm như trong đền, đình, chùa... Thực hiện và
điều hành phần lễ là các bậc cao niên có uy tín và được cộng đồng kính trọng,
được những người dự lễ hội tuân thủ sự điều hành. Ý nghĩa của lễ là để giao tiếp
với thần linh thông qua các nghi thức tín ngưỡng thể hiện nguyện vọng hay tái
hiện ký ức của cộng đồng. Lễ hiến tế là một phần quan trọng của lễ hội, sau lễ
hiến tế là bữa ăn chung cả làng, như sự sẻ chia những gì được thần linh phù hộ
và ban tặng. Hiện nay hầu hết lễ hội lớn đều do các cấp chính quyền nhà nước tổ
chức nên phần Lễ - trước đây trang nghiêm, giản dị thì nay rất “hoành tráng” rườm
rà do sự có mặt của các quan chức.
Phần
hội diễn ra ở một “không gian mở” rộng lớn hơn cho toàn thể cộng đồng và người
ngoài cộng đồng có thể tham gia. “Vui như hội” vì không gian và thời gian này
là để thỏa mãn nhu cầu vui chơi giải trí của con người, thông qua các trò chơi
dân gian thể hiện sự khéo léo, khỏe mạnh, trong đó phổ biến là “cướp” lộc/phết…
Cũng có những trò mang tính chất “phá luật” như “linh tinh tình phộc” (tắt đèn
thì trai gái “tự do”)… Nhìn chung lễ hội xưa mang đậm dấu ấn của xã hội nông
nghiệp với cộng đồng cư dân “làng” hẹp về không gian và nhỏ về quy mô, chỉ có một
vài lễ hội nổi tiếng khắp vùng như hội Gióng hội Lim… Phần Hội xưa là phần vui
chơi của chủ thể lễ hội, tức là cộng đồng dân cư địa phương, những người có sự
hiểu biết và từng trải nghiệm ý nghĩa của hành vi lễ hội từ đời này qua đời
khác, thì nay có thêm rất nhiều người từ nơi khác đến tham gia, không mang tâm
thức của chủ thể và không phải ai cũng hiểu ý nghĩa những hành vi mang tính tượng
trưng của lễ hội xưa.
Lễ
hội cổ truyền thường diễn ra vào thời gian mùa xuân “nông nhàn”, đây là dịp con
người nghỉ ngơi, nhìn lại và giải toả những phiền muộn, lo âu của năm cũ thông
qua việc bày tỏ với thần linh những mong muốn về cuộc sống tốt đẹp hơn. Lễ hội
có mặt tích cực như bảo tồn các giá trị truyền thống của cộng đồng, nhắc nhở ý
thức về cội nguồn, tưởng nhớ tổ tiên, anh hùng dân tộc… Trò chơi trong hội thể
hiện ý thức về đồng loại, cố kết con người với cộng đồng, thể hiện quan niệm về
mỹ tục và tài năng văn hóa, nghệ thuật, thể thao của cá nhân và cộng đồng. Tâm
thức trong lễ hội xưa là tinh thần “dân chủ làng xã”, qua dịp lễ hội mọi người
gần gũi, bình đẳng với nhau hơn. Hình thức “cướp lộc” trong nhiều lễ hội mang ý
nghĩa là “may mắn” từ thần linh ban cho, không phải ai cũng có được, vì vậy những
người không may mắn thì cần cố gắng làm ăn. Những hành vi trong lễ hội thời xưa
là cần được hiểu và thực hành như biểu trưng của văn hóa.
Ngày
nay phạm vi không gian của lễ hội rộng hơn thông qua và nhờ không gian trên
truyền thông, đồng thời việc thực hành nghi lễ thể hiện và phản ánh tâm lý thực
dụng, thậm chí tham lam của nhiều người. Biết rằng “lộc” chỉ là tượng trưng
nhưng “kém miếng giữa làng” thì khó chịu, đánh đồng “sự may mắn” với “cái lợi”
cho cá nhân nên quyết cướp giật cho bằng được. Tính thực dụng làm lây lan hành
vi vô văn hóa trong lễ hội như sử dụng bạo lực trong trò chơi, phổ biến việc
nhúng tiền vào máu động vật bị giết hay rải tiền lẻ, nhét tiền vào tay Thần Phật
để cầu may; để con trẻ chứng kiến và người lớn thì reo hò phấn khích nhìn con vật
bị giết chết một cách bất nhẫn; đánh chửi nhau vì không cướp được “lộc thánh”…
Không
khó để nhận thấy sự tương đồng giữa hiện tượng lễ hội bị biến dạng với thực trạng
bạo lực ngày càng phổ biến trong xã hội, điển hình như những vụ “mất chó giết
người đền mạng”, bảo mẫu hành hạ trẻ nhỏ, học trò “hội đồng” đánh bạn, thanh
niên hỗn láo đánh người già cả, người dân “tự tử” trong đồn công an... Hành vi
“buôn thần bán thánh”, dựa vào cầu cúng để coi thường luật pháp, nạn tham nhũng
hối lộ của quan chức ngày càng nặng nề; nhiều người trốn vào “tâm linh” để biện
minh cho sự dửng dưng trước bất công, trước những vấn nạn về văn hóa, giáo dục,
môi trường…
Trước
thực trạng lễ hội và một số sinh hoạt văn hóa tinh thần khác bị biến chất và
dung tục đến mức báo động, các nhà khoa học và công chúng đã lên tiếng từ nhiều
năm nay. Thế nhưng vì sao mỗi năm lễ hội lại phát triển nhiều hơn, lãng phí thời
giờ tiền bạc công sức của xã hội, ngày càng mang nặng yếu tố tiêu cực hơn?
Khi
lịch sử bị bóp méo
Có
thể lấy Lễ Khai Ấn Đền Trần (Nam Định) là một trường hợp để nhận diện những
nguyên nhân của tình trạng này.
Từ
năm 2011 sau vài năm lễ hội Khai ấn đền Trần diễn ra đủ bi hài, dung tục và
kinh hoàng chen lấn cả đêm để xin ấn, dư luận xã hội đồng loạt lên tiếng. Truy
về nguồn gốc của tục khai ấn đền Trần trong chính sử, tiến sĩ Nguyễn Hồng Kiên
(Viện Khảo cổ học VN) đã chỉ ra:
Không
hề có chuyện nguồn gốc của lễ khai ấn bắt nguồn từ việc sau khi đánh thắng quân
Nguyên - Mông, vua Trần thiết triều ở Tức Mặc - Thiên Trường để thưởng công,
ban tước như nhiều ý kiến. Việc đó sử chép là diễn ra ở Thăng Long. Từ năm
ngoái, tôi đã đọc lại sử cũ và khẳng định trong thư tịch cổ không hề chép gì về
cái gọi là “lễ khai ấn đền Trần”.
Tôi
đã từng viết loạt bài “Lễ khai ấn đền Trần
- một xuyên tạc lịch sử”. Cũng không có chuyện nhà Trần cứ tết đến lại đóng
ấn ban chức tước. Xin dẫn một chuyện chính sử có chép: vua Trần Anh Tông từng
ban tước hơi nhiều cho các quan trong triều. Thượng hoàng Nhân Tông biết được
sai lấy sổ xem rồi ghi vào trong đó rằng: “Sao lại có một nước bé bằng bàn tay mà
phong quan tước nhiều như thế?”. Từ đó vua Trần Anh Tông lại càng thận trọng
khi ban chức tước. (Báo Tuổi trẻ ngày 21.2.2011)
Tháng
7.2011 Bộ Văn hóa, Thể thao và du lịch đã nghe Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt
Nam, trình bày nội dung Đề án “Xây dựng mô hình tổ chức Lễ hội đền Trần Nam Định
năm 2012”. Trong Đề án này nêu ra hai phương án tổ chức Lễ hội khai ấn đền Trần
năm 2012: Phương án 1 là không tổ chức phát ấn; phương án 2 là vẫn phát ấn
nhưng phát vào ngày hôm sau và kéo dài vào các ngày tiếp theo. Và phương án 2
đã được Bộ VH-TT-DL cùng địa phương chọn thực hiện.
Lễ hội khai ấn. (ảnh
Internet)
Việc
tiếp tục tổ chức lễ hội “phát ấn” dù không có cơ sở khoa học và lịch sử, dù đã
làm nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực cho thấy, thực tế lễ hội này thu
hút rất nhiều người đến xin ấn, địa phương đã thu được những khoản
lợi nhuận lớn từ việc “phát ấn” và dịch vụ kèm theo. Duy trì lễ hội
nhiều ngày hơn có nghĩa là số lượng người (đa phần là công chức nhà
nước) đến xin ấn nhiều hơn và lợi nhuận tăng cao hơn. Việc xin ấn đã trở
thành biểu hiện của cầu xin thăng quan tiến chức! Đây là tâm lý của một bộ phận
không nhỏ của công chức nhà nước nên có ảnh hưởng lớn đến tâm lý xã hội nói
chung.
Nhưng
thiệt hại bao nhiêu cho nhà nước và cho nhân dân trong những ngày công
chức bỏ việc đi lễ thì cơ quan quản lý văn hóa và địa phương có tính
đến? Không chỉ là thời gian, tiền bạc mà còn là sự suy thoái đạo đức và văn
hóa, tạo ra tiền lệ cứ lễ hội nào có vấn đề bị xã hội lên án, lập
tức nhà nước lại phải tốn tiền cho các công trình nghiên cứu
kiểu “Đề án xây dựng mô hình…”. Ở đây chính là vai trò của
“cơ quan nghiên cứu văn hóa” đã tham mưu cho việc “phục dựng” lễ hội không có
cơ sở khoa học và gây ra nhiều hệ lụy cho xã hội. Cùng đó là vai trò của cơ
quan quản lý nhà nước về văn hóa trong việc không cân nhắc, suy xét khi công nhận
hàng loạt di tích, lễ hội, nâng cấp từ địa phương lên cấp quốc gia để tăng cường
quy mô lễ hội… Một mặt nhằm đạt thành tích “bảo tồn di sản” nhưng mặt khác cũng
làm tiêu tốn nhiều chi phí của nhà nước và xã hội để “làm hồ sơ di tích”, đồng
thời gây nên tâm lý đua nhau “chạy bằng di tích” ở các địa phương.
Từ
khi Lễ phát ấn Đền Trần được duy trì, nhiều địa phương đã tổ chức những lễ hội
tương tự, tất nhiên đều dựa vào “công trình nghiên cứu khoa học” mà thực chất
là những Dự án do tỉnh hay địa phương chi kinh phí. Cho đến đầu năm 2017 một số
nơi khác đã dựng lên chuyện khai/phát ấn ở đền Trần Thương (Nhân Đạo, Lý Nhân,
Hà Nam), đền Trần Tam Đường (Tiến Đức, Hưng Hà, Thái Bình), ở khu văn hóa núi
Bài Thơ (TP Hạ Long, Quảng Ninh), khu di tích Hoàng thành Thăng Long (Hà Nội)...
Tình trạng bành trướng quy mô và số lượng lễ hội phát ấn Đền Trần như
thế e rằng một ngày nào đó lễ hội kiểu này sẽ trở thành Di sản văn
hóa phi vật thể cấp đặc biệt của quốc gia, rồi làm hồ sơ trình UNESCO
làm Di sản văn hóa thế giới cũng nên!
"Từ
thực tế bịa tạc của các ấn được sử dụng, xin nói thẳng rằng: Các lễ khai ấn này
có rất ít ý nghĩa văn hoá, tất cả đều nhằm mục tiêu thương mại"(TS. Nguyễn
Hồng Kiên) nên
mục đích ý nghĩa của lễ hội không còn thuần túy tinh thần như trước. Dưới danh
nghĩa “bảo tồn văn hóa truyền thống” nhưng “thương mại hóa” mới chính
là mục đích của các địa phương khi đua nhau nâng cấp di tích, lễ hội. Do
đó tính nhân văn của lễ hội ngày càng biến mất, sự xuất hiện những yếu tố thực
dụng hiện đại đã góp phần nuôi dưỡng và phát triển tâm lý không lành
mạnh của công chức, quan chức trong việc coi chức tước quyền hành là
mục đích tối thượng, việc “chạy chức chạy quyền” là bình thường nên phải
tìm đến Thánh thần làm chỗ dựa…
Đặc
biệt, hiện tượng “chính thức hóa”, “nhà nước hóa” lễ hội dân gian bằng sự tham
gia tổ chức và quản lý lễ hội của cơ quan nhà nước, của quan chức cao cấp góp
phần không nhỏ làm cho lễ hội bị “hiện đại hóa” theo nghĩa tiêu cực. Việc quản
lý và tổ chức thực hành tín ngưỡng này là của cộng đồng địa phương; không phải
là việc của các cơ quan nhà nước hay của các vị lãnh đạo. Việc nhiều quan chức
từ trung ương đến địa phương trịnh trọng có mặt “khai hội” là “tấm gương” mà
nhiều thành phần trong xã hội “noi theo”, nhất là khi sự mê tín hay thực dụng
được tuyên truyền dưới ý nghĩa bảo tồn di sản văn hóa. Điều đáng tiếc là bên cạnh
đó vẫn có một số nhà nghiên cứu và cơ quan nghiên cứu, cơ quan quản lý văn hóa
tiếp tục nguỵ biện, chống chế, bênh vực cho những lễ hội bị biến dạng hay không
có cơ sở khoa học như Lễ khai ấn Đền Trần.
Nếu
để cho những lễ hội bị bóp méo ý nghĩa truyền thống tiếp tục tồn tại sẽ dẫn đến
hậu quả:
1/
Các lễ hội truyền thống không còn giá trị đích thực, chính những người làm nhiệm
vụ “nghiên cứu bảo tồn văn hóa” lại đánh mất, xóa sổ di sản văn hóa.
2/
Các giá trị truyền thống tốt đẹp mất đi, con người phải tìm đến và tin vào những
giá trị “ảo” đang ngày càng làm băng họai xã hội.
3/
Nhà nước không thể quản lý được các lễ hội tổ chức tràn lan và tùy tiện làm xuất
hiện nhiều tệ nạn mê tín dị đoan.
Mỗi
thời đại có hệ giá trị của thời đại mình, nhất là những giá trị văn hóa. Việc
duy trì hay phục dựng lại lễ hội truyền thống cần đặt trong bối cảnh xã hội hiện
đại để nhận biết yếu tố nào nên lưu giữ, yếu tố nào cần thay đổi. Tuy nhiên
thay đổi thế nào để những lễ hội trở thành nguồn mạch trong lành để nuôi dưỡng
văn hóa dân tộc hiện tại và tương lai, không thể biến lễ hội thành nơi hối lộ,
mặc cả với Thánh Thần nhằm tư lợi hoặc là nơi dung dưỡng những hành vi phản cảm
không phù hợp với giá trị văn hóa mới.
Di
tích và... hiện đại ảo
Bên
cạnh tình trạng lễ hội như trên còn có một thực trạng
khác cũng rất đáng báo động: nhiều di tích cấp Quốc gia, cấp tỉnh thành xuống cấp
nghiêm trọng, có di tích đã trở thành phế tích hoặc có nguy cơ “biến mất” do hư
hỏng nặng mà không có kinh phí sửa chữa, trùng tu. Thực trạng này làm nảy sinh
một câu hỏi: hiện nay tốc độ và số lượng di tích được công nhận ở các cấp, nhất
là Di tích cấp Quốc gia, tỷ lệ thuận hay tỷ lệ nghịch với số lượng các di tích
được bảo tồn và phát huy giá trị tốt?
Hỏi
tức là đã trả lời. Nhiều chuyên gia đã chỉ ra nguyên nhân cơ bản của tình trạng
trên chính là việc ồ ạt công nhận di tích ở các cấp. Việc công nhận di tích Lịch
sử văn hóa và nâng cấp từ địa phương lên cấp quốc gia đang trở thành
"phong trào", do đó nhiều di tích chưa thực sự có giá trị tiêu biểu.
Hệ thống di tích được công nhận cấp quốc gia phải phản ánh đặc trưng lịch sử -
văn hoá quốc gia, vì vậy cần nghiêm túc xem xét giá trị các mặt của di tích.
Di
tích lịch sử văn hóa ở địa phương khi nâng lên tầm quốc gia, vùng miền thì để xứng
với danh đó sẽ phải trùng tu tôn tạo, tổ chức quy mô “hoành tráng” hơn, nhiều
di tích bị gán thêm những giá trị ảo từ nội dung đến hình thứ kiến trúc, trang
trí… Khi nhà nước không đủ kinh phí ớc để bảo tồn hay trùng tu thì địa phương
thường huy động các nguồn kinh phí khác. Tuy nhiên “chủ đầu tư” thường có vai
trò quyết định chứ không phải là các nhà khoa học, trong việc bảo tồn di tích
như thế nào, thậm chí dưới danh nghĩa trùng tu họ quyết định làm mới di tích,
thật giả lẫn lộn về giá trị, về nội dung. Tình hình kéo dài như vậy làm cho các
di tích dù cấp nào cũng dần dần trở nên giống nhau ở xu hướng ngày càng “hoành
tráng” thậm chí không còn nhận ra yếu tố truyền thống trong kiến trúc, trang
trí và cả cảnh quan nữa.
Đặc
biệt hiện nay xuất hiện khá nhiều công trình kiến trúc tôn giáo có quy mô kỷ lục
“nhất Đông Nam Á” tại những nơi có cảnh quan thiên nhiên đẹp, công trình mới
xây dựng lại được gắn với khái niệm “du lịch tâm linh” – là loại hình du lịch đến
những di tích tín ngưỡng tôn giáo nổi tiếng có từ lâu đời… Thế là lại thêm một
nơi “kinh doanh” nhằm vào sinh hoạt tín ngưỡng của dân chúng. Và cũng như lễ hội,
việc các quan chức, chính quyền tham gia quảng bá cho những công trình “tôn
giáo” mới này cũng làm tăng thêm “tiếng tăm” của nó khi mà ngay hình thức kiến
trúc nghệ thuật và sinh hoạt tín ngưỡng ở đó chưa kịp tích lũy bất cứ một giá
trị nào. Đó là chưa kể sự tàn phá môi trường tự nhiên để xây dựng cơ sở hạ tầng
cho công trình, việc làm cáp treo cho bất cứ danh thắng nào, phá vỡ cảnh quan tự
nhiên, coi đó là “tiêu chí” hiện đại và sang trọng của một khu “du lịch tâm
linh”.
Càng
nhiều di tích “trùng tu” nâng cấp, càng nhiều công trình “tâm linh” được xây dựng
thì càng có thêm những lễ hội mang giá trị ảo hoặc sai lạc về ý nghĩa. Cứ thế
cái vòng luẩn quẩn cứ tiếp diễn, ngày càng phức tạp và để lại
nhiều hệ lụy lâu dài.
Để
khắc phục tình trạng này, làm cho việc bảo tồn di sản văn hóa vật thể và phi vật
thể thực sự có hiệu quả cần rà soát lại hệ thống di tích và lễ hội cấp quốc
gia, sau đó là cấp tỉnh thành - với những tiêu chí thực sự khoa học và đặt
trong bối cảnh của phát triển kinh tế - xã hội, của đời sống cộng đồng đang có
nhiều biến đổi để có thể xem xét giá trị thực sự và tiêu biểu của từng di tích,
lễ hội và cần thiết phải “hạ cấp” những di tích, lễ hội nào đã bị biến dạng,
thay đổi hoặc mang giá trị “ảo”. Bên cạnh đó không nên duy trì một hệ thống lễ
hội quá dày đặc như hiện nay bằng “sự ủng hộ” của nhà nước (như cho nghỉ dài
ngày hoặc không có chế tài nghiêm khắc với công chức dùng ngày làm việc đi lễ hội…).
Xây dựng lối sống, văn minh Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa bắt đầu từ việc quý
trọng thời gian và tôn trọng luật lệ.
Và
quan trọng hơn, để tình trạng “bảo tồn” di tích, lễ hội như hiện nay tiếp diễn
thì chúng ta sẽ để lại cho thế hệ sau một di sản văn hoá truyền thống chắp vá
và mục nát bên cạnh những “di sản” mới hoành tráng nhưng vô hồn và rỗng tuếch về
giá trị.
Sài
Gòn 22.3.2017
Nguyễn
Thị Hậu
No comments:
Post a Comment