Nguyễn Quang Dy
19-3-2017
“Chính
trong những khoảnh khắc đen tối nhất, ta phải tập trung để thấy được ánh
sáng” (It is during our darkest moments that we must
focus to see the light - Aristotle)
Một số nghịch lý chết người có thể làm
chính trị suy đồi và kinh tế tụt hậu, dẫn đến bi kịch quốc
gia. Nguyên nhân chính là do hội chứng cực đoan và ngộ nhận, vì cực đoan
thường dẫn đến vô cảm và ngộ nhận thường dẫn đến vô minh. Vô cảm và vô minh vốn
là bi kịch lớn của con người, như một căn bệnh mãn tính rất khó chữa.
Tại các nước đang chuyển đổi (nhưng “không chịu phát
triển”), cực đoan và ngộ nhận cản trở cải cách thể chế và hòa giải dân tộc, bỏ
qua những cơ hội sống còn để phát triển, làm đất nước ngày càng suy yếu, cạn kiệt,
và phụ thuộc, dễ mất độc lập và chủ quyền. Vì vậy, muốn thoát khỏi vấn nạn đó,
để “kiến tạo” và phục hưng đất nước, người Việt phải nâng cao dân trí và đổi mới
tư duy, để cải cách thể chế và dân chủ hóa.
Nhưng trong bối cảnh phân hóa nội bộ hiện nay, ai ủng
hộ và ai chống lại cải cách thể chế? Theo Lê Kiên Thành, “Nếu những
người có chức có quyền giàu lên nữa thì đất nước này sẽ sụp đổ… Chúng ta sẽ phải
đứng về một phía chống lại 1/3 chúng ta, mà 1/3 này là những người vừa có tiền
vừa có quyền, những người đang được hưởng lợi từ thể chế hiện giờ... Đó là những
nghịch lý mà chúng ta đang phải đối mặt”.
Cực
đoan và hận thù hay “tù nhân của quá khứ”
Khi xem xét lại chiến tranh Việt Nam, người ta nhận
ra “một cuộc chiến sai lầm, sai lầm về địa điểm, sai lầm về thời điểm, và
sai lầm về địch thủ” (a wrong war, at the wrong place, at the wrong
time, with the wrong enemy – John Kennedy, Oct 13, 1960). Đó là một
bài học lịch sử cho cả hai bên, vì ngộ nhận dẫn đến nghịch lý chết người. Phải
chăng lịch sử có thể rẽ ngả khác, nếu John Kennedy nghe lời khuyên của George
Ball (thứ trưởng ngoại giao, đã khuyên tổng thống đừng đưa quân vào Việt
Nam). Những người “thông minh tài giỏi nhất” (the best and the brightest)
cũng có thể ngộ nhận và mắc sai lầm.
Tuy chiến tranh Việt Nam đã kết thúc hơn bốn thập kỷ,
nhưng bóng ma Việt Nam vẫn còn ám ảnh hai đất nước, và hai thế hệ người Mỹ
cũng như người Việt. Tuy hai nước cựu thù đã bình thường
hóa và trở thành đối tác toàn diện, nhưng hai cộng đồng người Việt đến
nay vẫn chưa thể hòa giải được. Thậm chí trong cùng một cộng đồng,
các phe phái cũng coi nhau như thù địch, dùng bạo lực để triệt hạ lẫn nhau. Vì
vậy mới có bi kịch “Terror in Little Saigon” và “tiếng súng Yên Bái”, như một
nghịch lý của người Việt.
Những người cộng sản cực đoan và những người chống cộng
cực đoan thực ra rất giống nhau, vì họ đều độc tài, không chấp nhận ai nghĩ
khác mình, nói khác mình. Chính họ đã tiếp tay cho nhau, ngăn cản hòa
giải và đổi mới. Chừng nào những ân oán của hai bên chưa được
hóa giải, cực đoan và hận thù (chứ không phải ôn hòa và nhân ái) còn ngự
trị trong tâm thức họ như “tù nhân của quá khứ” thì bi kịch này còn tiếp diễn.
“Kinh
tế thị trường định hướng XHCN” hay “Frankenstein”
Suốt bốn thập kỷ sau chiến tranh Việt Nam, tuy
trải qua bao biến động trên thế giới và trong nước, nhưng Việt Nam vẫn kiên trì
định hướng XHCN, vẫn “đi tìm cái không có” (như lời Bộ trưởng Bùi
Quang Vinh). Chính là cực đoan và ngộ nhận đã xô đẩy Việt Nam vào bãi lầy
ý thức hệ, nên vẫn loanh quanh tại ngã ba đường.
Chủ nghĩa tư bản hoang dã hay chủ nghĩa xã hội thân
hữu, về bản chất đều như nhau, đã đi đêm và đẻ ra cái
quái thai “kinh tế thị trường định hướng XHCN”, nay trở thành
Frankenstein đang thao túng quyền lực, làm đất nước suy yếu và tụt hậu. Nói
cách khác, các nhóm lợi ích đã trở thành “tư bản đỏ”, thao túng quyền lực và
lũng đoạn chính sách, tạo ra bất ổn vĩ mô, làm cạn kiệt tài nguyên quốc gia,
gây ra thảm họa môi trường, đẩy đất nước đến chỗ hỗn loạn, dễ mất chủ quyền quốc
gia và độc lập dân tộc.
Trước vấn nạn nợ công khổng lồ, như một đám mây đen
lớn đang đe dọa làm vỡ nợ quốc gia, chính phủ kiến tạo không thể tiếp
tục đầu tư tràn lan vào những dự án lợi bất cập hại, duy trì các tập đoàn
nhà nước thua lỗ và tham nhũng. Làm sao có thể kiến tạo và chống tham
nhũng nếu không đổi mới thể chế toàn diện để triệt tiêu nguyên nhân gốc rễ? Chính
phủ không thể bảo lãnh mãi cho con tàu đắm Vinashin và các “quả đấm thép” (nợ đến
237 tỷ USD, bằng 120% GDP), trong khi ngân sách phải “chạy ăn từng bữa”.
Liệu
có “ổn định chính trị” nếu bất ổn về kinh tế
Theo chuyên gia Vũ Quang Việt, nợ công của Việt Nam
không phải chỉ sát ngưỡng báo động 65% GDP (khoảng 94,8 tỷ USD). Nếu tính
cả nợ của các doanh nghiệp nhà nước (được chính phủ bảo lãnh) thì nợ công lên tới
210% GDP, và nợ xấu lên đến 11% GDP (khoảng 22 tỷ USD).
Trong khi đó dự trữ ngoại hối chỉ có 40 tỷ USD (theo
Ngân hàng Nhà nước), nhưng 1/3 trong số đó là trái phiếu chính phủ Mỹ (không khả
dụng).
Theo Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VERP),
nguồn kinh phí chi cho các tổ chức công chiếm 1,7% GDP (khoảng 71,000 tỷ
VNĐ). Trong khi đó hàng năm Viêt Nam phải trả nợ đến hạn
(20 tỷ USD năm 2015, và 12 tỷ USD năm 2016). Trong
tháng 11/2016, Chính phủ phải vay tới 17 tỷ USD để chi thường xuyên cho 11 triệu
người ăn lương ngân sách và trả lãi các khoản vay đến hạn, thâm hụt
ngân sách hàng trăm ngàn tỷ VNĐ/tháng. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã cảnh báo
khả năng “sụp đổ tài khóa quốc gia”.
Dù Bộ Tài Chính có bán hết vốn các doanh nghiệp lớn
mà nhà nước nắm cổ phần, cũng chỉ thu về được 7 đến 15 tỷ USD, chỉ đủ chi ngân
sách từ một tháng rưỡi đến ba tháng. Trong khi đó kiều hối năm 2016
giảm 30% (khoảng 3 tỷ USD). World Bank tuyên bố chấm dứt ODA cho Việt nam vào
tháng 7/2017 (tiếp theo sẽ là ADB).
Bức tranh kinh tế hiện nay làm người ta
liên tưởng đến Venezuyela. Nếu Trung Quốc không thể cứu Venezuyela (lạm
phát tới 700%), liệu họ có thể cứu Việt Nam? Theo Financial Times (4/2016) nợ
công Trung quốc năm 2016 tăng vọt lên 237% GDP (khoảng 28 ngàn tỷ USD). Trong
khi đó dự trữ ngoại hối (tính đến đẩu 2017) đã giảm xuống còn khoảng 3000 tỷ
USD, nhưng chỉ một nửa số đó là khả dụng (theo Gordon Chang).
“Tập
trung dân chủ” hay “tam quyền phân lập”
Làm sao để “kiểm soát quyền lực”, nếu không áp
dụng “Tam quyền phân lập”? Cái gì đã tạo ra bộ máy hành chính quan
liêu khổng lồ, chồng chéo và bất cập? Làm thế nào để “nhất thể hóa”
nếu Đảng vẫn độc quyền lãnh đạo, không dựa trên “pháp quyền” (rule of
law)? Trên thế giới không có chính phủ nào có nhiều bộ trưởng
và thứ trưởng như Viêt Nam (22 bộ trưởng và 130 thứ trưởng). Chính phủ
Mỹ và Nhật cũng chỉ có 15-16 bộ trưởng và 16 thứ trưởng. Làm thế nào
để giảm chi tiêu ngân sách, nếu Việt Nam vẫn duy trì hai bộ máy hành chính
khổng lồ, với những “tổ chức quần chúng” phi sản xuất và ăn bám?
Mô hình nhà nước do một Đảng độc quyền
lãnh đạo toàn diện, theo thể chế “tập trung dân chủ” đã lỗi thời và bất
cập trước yêu cầu phát triển của kinh tế thị trường và tiến bộ xã hội. Nếu muốn
“kiến tạo” và chấn hưng đất nước, để đối phó với những nguy cơ và thách thức mới,
Viêt Nam phải “cải cách vòng hai” bằng cách đổi mới thể chế toàn diện, bao
gồm cải cách thể chế chính trị và hiến pháp, theo hướng “tam quyền phân lập”.
“Theo
Tàu hay theo Mỹ” là tâm thức đầy ngộ nhận
Trước đây Việt Nam đã phải đối phó với nan đề
“theo Liên Xô hay theo Trung Quốc”. Có lúc Viêt Nam đã “theo cả hai”
bằng cách cân bằng để tranh thủ nguồn lực chống Mỹ (trước 1975). Có lúc Việt
Nam đã theo Liên Xô để chống Trung Quốc (giai đoạn
1979-1989). Thậm chí Việt Nam đã từng ghi vào Hiến pháp rằng Trung Quốc
là “kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất” (mà Nayan Chanda chơi chữ gọi là
“Brother Enemy”).
Nhưng rồi sau đó Việt Nam lại “xoay trục” theo
Trung Quốc tại Thành Đô (9/1990) với phương châm “16 chữ vàng”. Đó là quyết
sách cực đoan do ngộ nhận về bạn thù và ý thức hệ, mà quên mất “chỉ có lợi
ích quốc gia là vĩnh viễn”. Khi Washington bắt tay với Bắc Kinh (từ 1972) họ
đã bỏ rơi Đài Loan và Nam Việt Nam, mặc cho Trung Quốc chiếm Hoàng Sa (1974).
Khi Moscow hòa hoãn với Bắc Kinh, họ cũng mặc cho Trung Quốc đánh chiếm Gac Ma
và 4 đảo Trường Sa (1988), tuy họ là “đồng minh chiến lược” với ta. Đó là những
bài học đau đớn để chúng ta đừng ngộ nhận và ngây thơ về quan hệ các nước lớn.
Muốn độc lập dân tộc và bảo vệ chủ quyền quốc gia,
phải dựa vào sức mạnh nội lực là chính. Muốn vậy phải hòa giải dân tộc và
cải cách thể chế để “khai dân trí”, giải phóng năng lượng yêu nước và tinh thần
dân tộc, “chấn dân khí” để phục hưng đất nước. Chính sách “cân bằng thụ động”
(“đu dây” bằng nguyên tắc “ba không”) tuy cần thiết như một sách lược (nhất thời)
để đối phó tình huống, nhưng “cân bằng tích cực” mới là chiến lược
(lâu dài).
Người Việt phải học hỏi người Đức về hòa giải dân tộc
và thống nhất đất nước. Phải cải cách thể chế và dân chủ hóa mới chấn
hưng được đất nước, để đối phó với những biến động chính trị
bất thường và bất định (như Brexitism và Trumpism). Muốn “cân bằng
tích cực” với Mỹ và Trung Quốc, Việt Nam phải tăng cường hợp tác chiến lược với
các cường quốc khu vực (như Nhật, Ấn Độ, Úc) trong một khuôn khổ đối
tác chiến lược mới.
“Còn
Đảng còn mình” hay chuẩn bị tháo chạy
Theo IOM (International Organization for Migration)
sau 25 năm tính từ 1990 đến 2015, đã có 2.558.678 người Việt di cư
ra nước ngoài, tính trung bình mỗi năm có khoảng 100.000 người Việt di cư.
Việt Nam nằm trong “Top 10” các quốc gia có số du học sinh nhiều nhất
thế giới.
Trong tổng số trên 4,5 triệu người Việt đã di
cư (tính đến 2015), số người định cư bằng đầu tư đang tăng lên đáng kể. Chỉ
riêng loại visa EB-5 (dành riêng cho các đối tượng đầu tư vào Mỹ) đã tăng chóng
mặt so với các loại visa khác (như EB-1, EB-2). Số lượng visa EB-5 từ 6.418 suất
(năm 2014) đã tăng vọt lên 17.662 suất (năm 2015).
Đến nay, Viêt Nam có 21,000 du học sinh ở
Mỹ, trong đó đa số là con em các gia đình quan chức
cao cấp và trung cấp. Hồ sơ Panama tiết lộ Việt Nam có tới 189
cá nhân và tổ chức, với 19 công ty vỏ bọc được thành lập ở nước ngoài, chủ
yếu là tại các “thiên đường trốn thuế” (như Cayman và Virgin Islands). Sau
khi ông Trump thay đổi chính sách nhập cư vào Mỹ, nhiều người Việt chuyển
hướng di cư sang Canada và Australia. Người Việt Nam (cũng như người
Mỹ) đang đối mặt với quá nhiều biến số và ẩn số.
Tại hội thảo “Kịch bản Kinh tế Viet Nam 2017” (tp
HCM, 9/3/2017) tiến sỹ Trần Đình Thiên (Viện trưởng Viện Kinh tế) đã cảnh báo về
tình trạng “tẩu tán tư bản”, với số triệu phú người Việt di cư ra nước
ngoài ngày càng tăng. Ngoài dòng tiền đầu tư chính đáng ra nước ngoài, còn có
dòng tiền chạy ra ngoài bất hợp pháp theo dòng người di cư, trong đó
nhiều triệu phú là quan chức đã có sẵn kế hoạch bỏ chạy (một
khi bị truy cứu trách nhiệm). Đến nay, tổng cộng đã có 92 tỷ USD được
chuyển phi pháp ra khỏi Viêt Nam.
Lượng tiền bất hợp pháp chảy khỏi Việt Nam
từ năm 2004 đến 2013. (Nguồn GFI).
“Hoàng
hôn nhiệm kỳ” hay tranh thủ vơ vét
Các nhóm lợi ích tranh nhau vơ vét, chia
chác mọi thứ, làm cạn kiệt tài nguyên quốc gia. Họ “ăn không từ một cái gì”
(theo lời phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan). Hết nạc họ vạc đến
xương. Sau khi đã bán rẻ Vũng Áng cho Formosa, họ định bán nốt Cà
Ná. Sau khi đã ăn hết dầu khí, than, thủy điện, bauxite, vonphram, ruộng đất…làm rừng
vàng biển bạc cạn kiệt, họ tìm cách ăn nốt cát nhiễm mặn.
Phải chăng dự án thép Cà Ná và chủ trương khai thác cát để xuất
khẩu là “làn ranh đỏ” (red line) của thực trạng “hoàng hôn nhiệm kỳ”?
Năm 2010, chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký
văn bản cấm xuất khẩu cát nhiễm mặn. Nhưng đến 2013, Bộ Xây dựng lại cho
phép xuất khẩu cát nhiễm mặn qua hình thức “xã hội hóa” với lý do “nhằm tiết
kiệm chi phí nạo vét thông luồng”. Đây là nhiệm vụ của Bộ Giao thông Vận
tải dùng ngân sách để làm, tại sao phải “xã hội hóa” để các doanh nghiệp
khác thác cát tràn lan, tiếp tay cho các nhóm lợi ích bán rẻ nốt tài nguyên quốc
gia?
Theo phóng sự điều tra nhiều kỳ của báo Tuổi trẻ
(1-3/3/2017), hầu hết các tàu chở cát từ Phú Quốc đều đến Singapore (đảo Tekong
và Changi). Từ năm 2013 đến cuối năm 2016, Việt Nam đã xuất 43 triệu
m3 cát. Theo các hợp đồng xuất khẩu, giá bán cát chỉ từ 0,8 đến
1,3 USD/khối, trong khi giá bán trên thực tế là hơn 4 USD/khối. Vậy
chênh lệch giá đi đâu? Việt Nam không chỉ mất tài nguyên cát, thất thu ngân
sách (vì giá bán cát trên giấy tờ là quá thấp),
mà còn gây sụt lở ngiêm trọng, và nguy hại cho an ninh quốc gia.
Theo số liệu thống kê, từ năm 2016 Bộ Xây dựng, Bộ
Giao thông Vận tải, Bộ Quốc phòng và các địa phương (là “chủ đầu tư”) đã phê
duyệt 40 dự án nạo vét, tận thu một khối lượng cát khoảng 250 triệu m3. Dẫn
đầu hoạt động “xã hội hóa” này là Bộ Quốc Phòng và chính quyền 11 tỉnh ven biển:
Kiên Giang, Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Ðịnh, Quảng Nam,
Thừa Thiên-Huế, Quảng Bình, Quảng Trị, Hà Tĩnh. Cuộc chiến giành quyền nạo vét
cát không chỉ dọc các tỉnh ven biển, mà còn trên các dòng sông. Tranh chấp
tại Sông Cầu giữa Bắc Ninh và Bộ GTVT là “phần nổi của tảng băng
chìm”.
Ngoài Singapore, Trung Quốc cũng tích cực thu mua
cát giá cao nhằm bồi đắp các đảo, đá mà họ chiếm của Việt Nam. Các hoạt động nạo
vét, bồi đắp các đảo nhân tạo, nhằm mở rộng diện tích các đảo, đá mà họ chiếm
đóng trái phép (như Châu Viên, Chữ Thập, Gạc Ma, Ga Ven và Ken
Nan) đã diễn ra với quy mô lớn. Từ năm 2014, diện tích
các đảo, đá mà họ chiếm tại Biển Đông đã tăng lên 400 lần (tương đương
800ha). Vậy họ lấy cát ở đâu? Không loại trừ doanh nghiệp của
ta đã lặng lẽ bán cát cho họ. Nếu đúng là có chuyện này, thì đó có phải
là hành động phản quốc? Không thể vừa bảo vệ chủ quyền quốc gia, vừa dung túng
cho những kẻ làm tay sai cho ngoại bang (như Formosa & MCC, Huawei &
OPPO).
Như
trước khi con tàu đắm
Theo Wikileaks (6/1/2017), có khoảng 65%
quan chức cấp cao đã có kế hoạch chạy khỏi Việt Nam (một khi có biến).
Như đã thành thông lệ, khi có quan chức tham
nhũng nào bị “sờ gáy”, là lại nghỉ phép trốn ra nước ngoài “chữa
bệnh” (không biết bệnh gì). Kèm theo dòng người di cư là
dòng vốn đi theo. Chỉ tính riêng năm 2015, đã có 19 tỷ USD chạy ra khỏi Việt
Nam. Đó là hiện tượng tẩu tán vốn hay “bỏ phiếu bằng chân”, trước thực
trạng của đất nước ngày càng bi đát như hình ảnh con tàu Vinashin đang chìm.
Bức tranh Viêt Nam là một bản sao bức
tranh Trung Quốc. Theo phó chủ tịch nước TQ Lý Nguyên Triều (Đại Kỷ
Nguyên, 30/12/2016), điều tra nội bộ trước đại hội Đảng 18 cho thấy trên 85%
quan chức cấp cao đã cho vợ con định cư, mua nhà ở nước ngoài, chuẩn bị ra
đi trước nguy cơ “vong Đảng”. Theo Reuters, dự trữ ngoại hối đã giảm 70 tỷ
USD (trong tháng 11/2016) và 41 tỷ USD (trong tháng 12/2016), nay chỉ còn
3.010 tỷ USD.
Mỹ không còn là địa chỉ an toàn để rửa
tiền tham nhũng. Liệu chính quyền Trump có triển khai “Luật Nhân Quyền
Magnisky” (mà ông Obama đã ký) nhằm cấm nhập cảnh và đóng băng tài sản của
những người vi phạm nhân quyền? Liệu chính phủ Việt Nam có tiến
hành một chiến dịch “Săn Cáo” như chính quyền Tập Cận Bình đang
làm?
Theo giáo sư Minxin Pei, chiến dịch chống tham
nhũng của Tập Cận Bình cho thấy tình trạng tham nhũng đã ăn sâu vào mọi ngõ
ngách của chế độ (nhất là từ thời Giang Trạch Dân). Tuy nhiên, hoạt động
chống tham nhũng vẫn chưa chạm đến cái gốc rễ quan trọng nhất là “tham nhũng đất đai”. Có đến
90% quan chức có thể bị bắt bất cứ lúc nào, trong khi số “quan thanh liêm” chỉ
chiếm có 0,000001% dân số. (VOA, 29/10/2016).
Chỉ cần quan sát dòng người và dòng vốn chạy đi đâu
là biết tình trạng đất nước ra sao. Dòng người di cư ngày càng đông, gồm cả
doanh nhân, trí thức, và quan chức, là dấu hiệu bất ổn về “chảy máu chất xám”
(brain drain) và “tẩu tán vốn”, làm đất nước kiệt quệ. Đó là bi kịch của một
quốc gia thiếu dân chủ, bị các nhóm lợi ích thao túng, trì hoãn đòi hỏi cấp
bách phải đổi mới thể chế, để họ tranh thủ vơ vét nốt trước khi
con tàu đắm.
NQD. 18/3/2017
No comments:
Post a Comment