Thứ Năm, 02/16/2017 - 18:53 — songchi
38 năm đã đi qua kể từ cái ngày nổ ra cuộc chiến
tranh biên giới Việt-Trung, khi Trung Cộng bất ngờ đưa quân tấn công Việt Nam
trên toàn tuyến biên giới giữa 2 nước.
So với những cuộc chiến tranh đánh Pháp, đánh Mỹ và
miền Nam VNCH, cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung năm 1979 và thực tế kéo
dài dai dẳng tới tận 1988, rất ít được nhà cầm quyền VN nhắc tới, nhất là từ
khi quan hệ ngoại giao giữa hai nước chính thức được bình thường hóa vào năm
1992.
Cuộc chiến tranh này trong nhiều năm đã bị lãng
quên, từ trên các phương tiện truyền thông đại chúng, cũng như chỉ nhắc đến một
cách hạn chế trong sách giáo khoa. Chính vì vậy, có rất nhiều người trẻ VN (và
kể cả những người không phải là trẻ cho lắm nếu sinh ra trong những năm 70 của
thế kỷ XX) không biết ngày 17.2 là ngày gì!
Nhưng những năm gần đây, cùng với sự phát triển của
internet và số lượng người Việt quan tâm, tìm hiểu về tình hình chính trị đất
nước tăng lên, cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung, trận hải chiến Hoàng Sa
19.1.1974, hải chiến Trường Sa 14.3.1988…đã được những người yêu nước nhắc nhớ,
và có một số hoạt động như cùng nhau tưởng niệm cũng như công khai vinh danh những
người lính VNCH đã ngã xuống trong trận hải chiến Hoàng Sa, giúp đỡ người thân
của họ v.v…Trong khi đó nhà cầm quyền vẫn hết sức hạn chế nhắc tới những sự kiện
này (báo chí một vài năm gần đây có tiến bộ hơn) và khi người dân có những hoạt
động tưởng niệm thì họ tìm cách ngăn chặn, quấy rối, xách nhiễu đủ mọi cách.
VN đã từng trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh, nội
chiến lẫn ngoại xâm. Chỉ riêng trong thế kỷ XX, đã liên tiếp chiến tranh với
Pháp, Mỹ, nội chiến hai miền Nam-Bắc, chiến tranh biên giới Tây Nam với Khơ Me
Đỏ, chiến tranh biên giới phía Bắc với Trung Cộng…nhưng tại sao thái độ của người
dân và nhà cầm quyền đối với những cuộc chiến này, với những quốc gia từng một
thời là kẻ thù này rất khác nhau?
Đối với cuộc chiến đánh Pháp, đánh Mỹ và VNCH, dù
bao nhiêu năm đã trôi qua nhưng hàng năm, cứ có bất cứ ngày tháng nào liên quan
đến những sự kiện của các cuộc chiến đó là nhà cầm quyền lại tổ chức kỷ niệm,
ăn mừng chiến thắng tưng bừng, báo chí truyền thông lại chạy hết công xuất để
“tụng ca” chiến công của đảng cộng sản và bừng bừng lửa căm thù…Dù trong thực tế
từ nhiều năm nay hai quốc gia này hoàn toàn không còn là mối lo ngại gì đối với
nền hòa bình độc lập của VN, nhà cầm quyền VN đã bắt tay làm ăn, quan hệ ngoại
giao kinh tế bình thường với Pháp, Mỹ, thậm chí đã nhận sự giúp đỡ, hỗ trợ về
nhiều mặt từ Pháp, Mỹ nhưng cứ có dịp là họ lại nhắc đến mối thù cũ với “thực
dân Pháp, đế quốc Mỹ” và tìm cách đánh bóng lại cái “hào quang chiến thắng” để
lấy đó làm lớp son tô phết lên khuôn mặt đã quá rệu rã mục nát của chế độ.
Trong khi đó đối với Trung Cộng, vết thương chiến
tranh giữa hai nước còn mới hơn rất nhiều, dù đã bình thường hóa quan hệ nhưng
Bắc Kinh vẫn tiếp tục đánh phá VN bằng nhiều thủ đoạn từ an ninh quốc phòng,
kinh tế, văn hóa, xã hội cho tới an toàn thực phẩm, môi trường…, Trung Quốc vẫn
đang và sẽ tiếp tục là mối đe dọa lớn nhất đến sự toàn vẹn lãnh thổ lãnh hải, độc
lập chủ quyền của VN. Nhưng đảng và nhà nước cộng sản VN lại coi Trung Cộng là
anh em là bạn tốt, không những hết sức quỵ lụy, hèn hạ khiếp nhược mà còn mở
toang cửa ngõ về nhiều mặt, rước giặc vào nhà.
Người dân thì khác. Tình cảm của người dân rõ ràng,
công bằng và minh bạch.
Điều đó xuất phát trước hết từ thái độ của các nước
Pháp, Mỹ và Trung Quốc khi họ từng có thời gian chiến tranh hay thậm chí đô hộ
VN như Pháp, Trung Quốc. Dù cũng đô hộ, cũng bóc lột người VN nhưng ít nhất,
người Pháp cũng xây dựng, mở mang dân trí, giúp đỡ nhiều cho đất nước, dân tộc
VN. Hoa Kỳ có chiến tranh với VN nhưng trong cuộc chiến đó, họ đã là đồng minh
của VNCH, họ không những chỉ đổ tiền của, vũ khí mà còn đổ xương máu cùng chiến
đấu bên cạnh những người lính VNCH, họ đã giúp miền Nam về nhiều mặt để miền
Nam VN khi đó thực sự phát triển hơn nhiều quốc gia khác trong khu vực.
Sau chiến tranh, họ đã có những nỗ lực muốn bù đắp lại
những năm tháng chiến tranh, sự việc hàng triệu người Việt có mặt trên đất Mỹ
theo những chương trình tỵ nạn, thuyền nhân, HO, đoàn tụ…là những gì mà họ muốn
làm để phần nào đền bù lại hành động bỏ rơi đồng minh trước kia.
Cỏn Trung Quốc đối với VN, chưa bao giờ có cái gì thực
sự tốt đẹp cả. Sự giúp đỡ của Trung Cộng đối với Bắc Việt trong cuộc chiến
tranh đánh Mỹ trước hết cũng xuất phát từ quyền lợi và những tính toán của Bắc
Kinh. Khi trở mặt đánh nhau, thì dù chỉ là một cuộc chiến ngắn ngủi nhưng cái
cách mà họ giết sạch, đốt sạch, tàn phá đến tận cùng các tỉnh biên giới, cho thấy
họ không có một chút nhân bản, họ cố tình gây hậu quà càng nặng cho VN bao
nhiêu tốt bấy nhiêu. Hậu chiến tranh, Trung Cộng tiếp tục đánh phá VN bằng nhiều
thủ đoạn thâm độc như vừa nói ở trên.
Cho tới bây giờ, có thể nói đa số người Việt đều cảm
thấy vui mừng và mong muốn mối quan hệ giữa VN với Pháp, Mỹ ngày càng tốt đẹp.
Đa số người Việt ngưỡng mộ thể chế tự do, dân chủ, pháp quyền, những giá trị về
tự do, bình đẳng, tôn trọng nhân quyền, cũng như những thành tựu đáng nề về nhiều
mặt của Pháp hay Mỹ. Đa số người Việt có người thân, bạn bè đang làm việc, sinh
sống, học hành tại Pháp, Mỹ và mong muốn vĩnh viễn khép lại quá khứ với Pháp, Mỹ.
Ngược lại, có thể nói phần lớn người Việt không chịu
được cái thể chế độc tài, chính sách ngoại giao hung hăng, ngạo mạn, bắt nạt nước
nhỏ của Trung Cộng, những thủ đoạn khác nhau mà Bắc Kinh đã và đang sử dụng để
khống chế, kìm hãm, phá hoại VN…Người Việt nhìn chung có một thái độ dè chừng,
cảnh giác trước Bắc Kinh.
Chính là thái độ, cách hành xử, đường lối chính sách
của Trung Cộng sau chiến tranh đã làm cho người Việt khó quên được thù cũ và tiếp
tục cảnh giác. Thêm vào đó, sự khiếp nhược, tiếp tay Trung Cộng tàn phá đất nước
của nhà cầm quyền VN càng làm cho người dân thêm căm giận.
Kể từ khi cướp được chính quyền ở miền Bắc, rồi cưỡng
chiếm miền Nam và độc quyền lãnh đạo trên toàn quốc, đảng và nhà nước cộng sản
đã phản bội đất nước, phản bội nhân dân VN rất nhiều lần.
Từ cái lý tưởng “xây dựng một xã hội XHCN công bằng,
không có người giàu kẻ nghèo, không có bất công, mọi người đều được ấm no, hạnh
phúc” cho tới hiện thực xã hội VN hôm nay là một sự phản bội trắng trợn. Rồi tất
cả những gì họ từng lên án chế độ thực dân Pháp, chế độ tư bản, lên án miền Nam
VNCH là chế độ tay sai, bán nước…nay họ lặp lại với một mức độ công khai, tệ hại
hơn gấp trăm gấp ngàn lần.
VN ngày hôm nay lạc hậu thua xa các nước láng giềng,
đất nước bị tàn phá về mọi mặt bởi một bộ máy độc tài tham nhũng nặng nề, xã hội
bại hoại, con người bị đánh mất đi rất nhiều phẩm chất tốt đẹp, hàng chục triệu
người vẫn chạy ăn từng bữa trong lúc hàng triệu người khác bỏ nước ra đi làm
thuê, làm osin, làm gái…khắp nơi.
Bao nhiêu xương máu của hàng triệu con người đã ngã
xuống cho những cuộc chiến tranh, bao nhiêu cuộc đời bị chiến tranh đánh cắp,
bao nhiêu gia đình ly tán vì chiến tranh và những bi kịch thời hậu chiến…tất cả
để được gì? Để VN trở thành như thế này sao? Để cho một nhúm người và guồng máy
của họ tha hồ vơ vét, làm giàu, hưởng thụ còn hơn 95% dân chúng tiếp tục khốn
khổ khốn nạn sao?
Nhưng sự phản bội lớn nhất là thái độ của nhà nước
này đối với Trung Cộng, đối với cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung, các trận
hải chiến Hoàng Sa, Trường Sa, những người đã ngã xuống để bảo vệ lãnh thổ lãnh
hải… khi coi giặc là bạn, cố tình quên lãng quá khứ đồng thời đàn áp lòng yêu
nước cùa người VN.
Máu của người VN đã đổ xuống để xây dựng nên chế dộ
này. Máu của người VN đã đổ xuống trong chiến tranh, vì những ngoại nhân nhưng
khi chiến tranh đã qua đi từ lâu, máu của người VN vẫn tiếp tục đổ xuống vì
chính bàn tay của nhà cầm quyền thông qua các công cụ như công an, cảnh sát cơ
động, an ninh giả dạng côn đồ… nhằm ngăn chặn mọi biểu hiện yêu nước, mong muốn
đất nước thay đổi của người dân.
Nhà cầm quyền đã hết sức sai lầm khi tự tước đi sức
mạnh lớn nhất của họ: trí tuệ của nhân dân (bằng chính sách giáo dục ngu dân, lạc
hậu) và lòng yêu nước của nhân dân.
Không có nhân dân, khi chiến tranh xảy ra ai sẽ cứu
họ? Tiếp tục quỳ gối trước kẻ thù ư?
Bài học Đặng Tiểu Bình dạy 38 năm trước, đảng cộng sản
VN vẫn chưa ngộ ra. Hãy nhìn lại trong 38 năm đó, Trung Quốc đã xây dựng quốc
phòng, quân đội hùng mạnh như thế nào so với năm 1979, đã tiến được những bước
dài trong việc củng cố chủ quyền và biến biển Đông thành “ao nhà”, đã bồi đắp,
cải tạo, xây dựng đảo nhân tạo trở thành những căn cứ quân sự, quân cảng đáng
ngại, đã khống chế VN về mọi mặt, luồn sâu và có mặt khắp nơi từ Nam ra Bắc
trên đất Việt ra sao…
Trong khi đó thì VN đã chuẩn bị được bao nhiêu về mặt
pháp lý, ngoại giao, quân sự, quốc phòng, kinh tế cho tới văn hóa, giáo dục-trên
cả hai khía cạnh: thoát Trung và đương đầu với một cuộc chiến tranh, nếu buộc
phải? Đã vậy, đảng cộng sản VN tự nguyện trói tay mình không dám liên kết với bất
cứ nước nào để ngăn ngừa họa xâm lăng trong tương lai gần!
Song điều nguy hiểm nhất không chỉ là việc yếu
hơn về mặt tiềm lực quân sự, vũ khí hay không có đồng minh ủng hộ, mà là tinh
thần chiến đấu. Chính đảng và nhà nước cộng sản VN đã tự làm mình hèn yếu đi bởi
chỉ lo giữ chế độ mà không lo giữ nước, làm cho nhân dân trở nên bạc nhược, vô
cảm hơn bởi chính sách ngu dân và sự sợ hãi, một điều mà trước đây trong mọi cuộc
chiến với Tàu và với các nước khác, chưa bao giờ xảy ra.
Nếu chiến tranh lại nổ ra, VN liệu có được như VN của
năm 1979 so với Trung Quốc khi ấy? Câu trả lời đã quá rõ!
Bài học lịch sử có thể không lặp lại nhưng nó phải
được viết bởi nhân dân, một khi họ đã tỉnh thức, chứ không phải từ một đảng cầm
quyền sẵn sàng đánh đổi tất cả cho sự tồn tại lâu dài của chính cái đảng ấy.
Cái gia của máu xương là cái giá lớn nhất. Phản bội
lại xương máu của nhân dân cũng có nghĩa là ký vào án tử cho chế độ, vấn đề chỉ
còn là thời gian-lâu hay mau, dài hay ngắn, tùy vào sự thức tỉnh, đồng lòng của
người dân.
Còn đối với tất cả người dân VN, chúng ta không cho
phép mình, con cháu mình được quên cái giá máu xương ấy, không được phép quên bất
kỳ một sự kiện đau thương nào của lịch sử, như cái ngày 17.2 này, 38 năm về trước.
Nhớ, nhắc nhau cùng nhớ, không phải để kích động căm
thù nhưng để cảnh giác. Như câu nói của Julius Fucik (1903-1943), chiến sĩ cách
mạng Cộng hòa Séc, năm 1942 trong xà lim tử tù của Phát xít Đức khi ông đang viết
cuốn sách nổi tiếng “Viết dưới giá treo cổ”: Hỡi nhân loại, hãy cảnh
giác! (Chính xác là “Nhân loại hỡi, tôi yêu tất cả – Hãy cảnh
giác!")
Nhớ, nhắc nhau cùng nhớ, rằng mình là người nước
Nam, con cháu của Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Quang
Trung…không thể lại để cho một tập đoàn Lê Chiêu Thống tiếp tục đưa đất nước
này lún sâu vào cái vòng kiềm tỏa của Trung Cộng để rồi một ngày mở mắt ra, thấy
mình đã không còn có quê hương, thấy mình đã trở thành dân Tây Tạng từ hồi nào
không hay!
No comments:
Post a Comment