Nolan Peterson, The Daily Signal
Dịch giả: Xuân
Dung
16 Tháng Mười Một , 2015
.
Lhasang Tsering, 68 tuổi, một cựu chiến binh
của Chushi-Gangdruk từng phục vụ tại khu vực Mustang của Nepal trong những năm
1970. (Nolan Peterson / The Signal Daily)
DHARAMSHALA,
Ấn Độ – Khi Sonam Dorjee còn là một tu sĩ Phật giáo tại Tu viện Debung ở thủ đô
Lhasa của Tây Tạng, ông chưa từng giết một con côn trùng. Xét cho cùng, tiếng
vo ve khó chịu quanh tai bạn có thể là hóa thân của một thành viên thân yêu
trong gia đình.
Nhưng
khi binh lính Trung Quốc nổ súng vào đoàn người tị nạn Tây Tạng cùng Dorjee chạy
trốn qua dãy Himalaya vào năm 1959, người tu sĩ 25 tuổi khi đó đã cầm một khẩu
súng trường và chống trả.
“Đó là
một hành trình để trở thành một người khác,” Dorjee, hiện giờ đã 81 tuổi, cho
biết trong một cuộc phỏng vấn tại nhà của ông ở ngôi làng miền núi sương mù
McLeod Ganj, ngay bên ngoài Dharamshala.
“Tôi buộc
phải phát triển một trạng thái tâm lý hoàn toàn khác”, ông nói. “Tôi đã mất đất
nước và chứng kiến người Trung Quốc giết nhiều người ngay trước mặt mình. Nếu bạn
gặp một tình huống như vậy, nó sẽ làm biến đổi tâm trí bạn. Tôi phải làm gì đó
cho đất nước của tôi. Không có lựa chọn nào khác.”
au khi
binh lính Trung Quốc bắt đầu nã pháo vào Lhasa năm 1959, Dorjee bỏ chạy qua dãy
Himalaya với một nhóm các nhà sư và người tị nạn khác, những người được hộ tống
bởi những chiến binh du kích Chushi-Gangdruk. Khi binh lính Trung Quốc tấn công
nhóm của Dorjee, tinh thần chiến đấu của những du kích Tây Tạng đã thôi thúc
nhà sư trẻ. “Nếu không có Chushi-Gangdruk,” ông nói, “Ngài [Đạt Lai Lạt Ma] và
không một người Tây Tạng nào khác có thể thoát khỏi Tây Tạng.”
“Họ đã
cứu Tây Tạng,” ông nói thêm. “Tôi đã nhìn thấy những gì họ đã làm, và tôi nghĩ
rằng tôi cũng có thể cầm vũ khí và chiến đấu cho đất nước của tôi.”
Sonam Dorjee, 81 tuổi, một cựu chiến binh
trong Lực lượng 22 của Ấn Độ và là một cựu vệ sĩ của Đức Đạt Lai Lạt Ma. (Nolan
Peterson / The Signal Daily).
Sáu năm
sau, Dorjee, 31 tuổi, đã quyết định từ bỏ chiếc áo tu sĩ khi ông tham gia Lực
lượng 22 – một đơn vị bí mật gồm toàn người Tây Tạng trong quân đội Ấn Độ được
thành lập ra sau chiến tranh Trung-Ấn năm 1962. Đối với một nhà sư, trở thành một
người lính nghĩa là từ bỏ một số triết lý và niềm tin cơ bản nhất – bao gồm cả
việc cấm sát sinh.
“Rất khó khăn để từ bỏ việc trở thành một nhà
sư,”
ông nói. “Đó là một cuộc sống hoàn toàn
khác. Là một tu sĩ, chúng tôi làm lễ cúng dường và cầu nguyện hàng ngày. Nhưng
là một người lính, chúng tôi được huấn luyện để giết người.”
Ban đầu
CIA lo liệu việc đào tạo và trang thiết bị cho Lực lượng 22, và Dorjee nhớ tới
các giảng viên CIA một cách trìu mến. Ông cho biết sự hỗ trợ của họ đã mang đến
cho phong trào kháng chiến của người Tây Tạng một sự khích lệ tinh thần.
“Người Mỹ huấn luyện chúng tôi, cho chúng
tôi thực phẩm và vũ khí,” ông nói.
“Tôi biết ơn sâu sắc và rất tôn trọng người Mỹ.”
Dorjee
phục vụ trong Lực lượng 22 trong 10 năm trước khi ông được chọn làm vệ sĩ cho Đức
Đạt Lai Lạt Ma, một nhiệm vụ ông đã làm trong 11 năm. Lực lượng 22 chưa bao giờ
phải đối mặt với binh lính Trung Quốc trong chiến đấu, nhưng có hoạt động trong
các chiến dịch chống lại Pakistan, gồm cả cuộc chiến tranh Ấn Độ-Pakistan năm
1971.
Lực lượng
22 vẫn hoạt động và tuyển binh từ những người tị nạn Tây Tạng ở Ấn Độ và Nepal.
Tranh chấp về tiền trợ cấp đã làm giảm đi sự hỗ trợ của Dharamshala cho đơn vị,
nhưng khả năng một ngày nào đó sẽ xảy ra cuộc chiến với Trung Quốc vẫn luôn thu
hút những tân binh Tây Tạng.
“Khi tôi gia nhập quân đội, tôi đã muốn giết
người Trung Quốc,”
Dorjee nói. “Tất cả điều tôi muốn là giết
dẫu chỉ một người lính Trung Quốc. Tôi đã rất tức giận.”
“Sự việc đã không xảy ra như thế,” ông tiếp tục. “Tôi từng hối hận vì đã không giết bất kỳ người
Trung Quốc nào. Bây giờ tôi không ghét Trung Quốc, nhưng tôi không hối tiếc về
cuộc chiến. Tôi đã cố gắng hết sức. Tôi không còn nỗi tức giận nào nữa. ”
Mắc
kẹt ở giữa
Phong
trào kháng chiến nổi bật của Tây Tạng đã thúc đẩy Đức Đạt Lai Lạt Ma theo “con
đường trung đạo” bất bạo động – một chính sách có từ những năm 1970 không đòi hỏi
độc lập đầy đủ cho Tây Tạng mà đòi một tình trạng pháp lý “tự trị thật sự”,
trong đó người Tây Tạng kiểm soát các vấn đề nội bộ và có thể bảo tồn văn hóa
và tôn giáo của họ, nhưng giao các vấn đề quốc tế và quốc phòng cho Bắc Kinh.
Tuy
nhiên, Đức Đạt Lai Lạt Ma chỉ là một phần của cuộc kháng chiến của Tây Tạng. Từ
những năm 1950 đến giữa những năm 1970, một đội quân vì tự do của Tây Tạng được
CIA hậu thuẫn gọi là Chushi-Gangdruk đã tiến hành một cuộc chiến tranh du kích
đẫm máu chống lại Trung Quốc từ bên trong Tây Tạng đặt căn cứ ở Nepal. Và sau
cuộc chiến tranh Trung-Ấn năm 1962, hàng ngàn người Tây Tạng đã đầu quân cho Lực
lượng 22 (được CIA huấn luyện và hỗ trợ với vũ khí và vật tư) để có cơ hội đánh
lại Trung Quốc.
Lịch sử
cuộc chiến đấu kết hợp của Chushi-Gangdruk và Lực lượng 22 đã thách thức phong
trào kháng chiến bất bạo động của người Tây Tạng. Và di sản của các chiến binh
tự do Tây Tạng tiếp tục truyền cảm hứng cho các thế hệ những người tị nạn Tây Tạng,
không để mất đi hy vọng của họ về tự do và để chống lại sự áp bức của Trung Quốc.
Trong khi hầu hết những người tị nạn Tây Tạng vẫn hỗ trợ cách tiếp cận con đường
trung đạo của Đức Đạt Lai Lạt Ma, những dấu hiệu lung lay gần đây trong nền
kinh tế Trung Quốc đã làm dấy lên một cuộc tranh luận trong cộng đồng người tị
nạn về cách người Tây Tạng nên phản ứng thế nào nếu Đảng Cộng sản Trung Quốc sụp
đổ.
“Di sản của Chushi-Gangdruk đã truyền cảm hứng
cho các thế hệ trẻ”,
Tenzin Nyinjey, nhà nghiên cứu tại Trung tâm nhân quyền cho Tây Tạng tại
Dharamshala – ngôi nhà của chính phủ Tây Tạng lưu vong, nói.
“Hy vọng cho tự do không phai mờ đi chút
nào,”
ông nói thêm. “Chúng tôi sẽ thấy một cái
gì đó thực sự bùng nổ trong vòng đời của chúng tôi.”
Cuộc
tranh luận xoay quanh việc liệu chính phủ Tây Tạng lưu vong có nên tiếp tục gắng
hết sức cho quyền tự chủ, như Đức Đạt Lai Lạt Ma đã chủ trương, hay theo đuổi một
nền độc lập chính thức, mà các chiến binh vì tự do của Tây Tạng đã chiến đấu suốt
thời Chiến tranh lạnh. Và với sinh nhật lần thứ 80 của Đức Đạt Lai Lạt Ma trong
năm nay, còn có một cuộc tranh luận kín đáo trong cộng đồng tị nạn về việc hỗ
trợ lâu dài cho con đường trung đạo sẽ kéo dài bao lâu sau khi ông mất.
“Chúng tôi biết cuộc kháng chiến vũ trang là
không thể, ĐCSTQ [Đảng Cộng sản Trung Quốc] phải sụp đổ hay hệ thống phải thay
đổi,”
Nyinjey nói. “Đây không phải là cuộc chiến
tranh lạnh, không ai còn trang bị vũ trang hoặc đào tạo người Tây Tạng cho chiến
đấu. Nhưng người Tây Tạng đã hoàn toàn sẵn sàng tuyên bố độc lập nếu hệ thống cộng
sản sụp đổ. Chúng tôi có những thể chế dân chủ chính trị đã được xây dựng ở
đây, ở Ấn Độ. ”
“Độc lập thường không yêu cầu cầm súng”, ông nói thêm. “Nhưng khi thời cơ đến, thanh niên Tây Tạng sẽ
làm những gì cần làm.”
Tuy
nhiên nhiều người tị nạn Tây Tạng, vẫn thích cách tiếp cận trung đạo hơn nền độc
lập hoàn toàn. Họ đặt sự ủng hộ của họ cho chính sách dựa trên sự kết hợp của
chủ nghĩa thực dụng và niềm tin của họ vào Đức Đạt Lai Lạt Ma.
“Với Gorbachev, Liên Xô đã sụp đổ ngay lập tức,” Norbu Dorjee, 61 tuổi,
chủ một doanh nghiệp ở Leh, thủ phủ của vùng Ladakh ở Himalaya của Ấn Độ cho biết.
“Vấn đề của Trung Quốc là thuận lợi cho
chúng tôi. Chúng tôi hy vọng rằng Trung Quốc sẽ trở nên dân chủ, rằng Đảng cộng
sản sẽ sụp đổ và chúng tôi có thể trở về nhà.”
“Nhưng,” Dorjee nói thêm, “chúng tôi vẫn chỉ yêu cầu có quyền tự chủ nội bộ, không phải một nền độc
lập hoàn toàn. Chúng tôi phải duy trì niềm tin vào con đường Ngài đã chọn cho
chúng tôi. ”
“Tôi tin rằng con đường trung đạo sẽ kéo
dài,”
Thupten Gyantso, 41 tuổi, một người tị nạn Tây Tạng sống ở Pokhara, Nepal cho
biết. “Thực tế là Trung Quốc quá mạnh để
chúng tôi giành được độc lập. Và ngay cả khi chúng tôi trở nên độc lập, chúng
tôi sẽ vẫn dựa vào Trung Quốc trên nhiều vấn đề.”
Những
người phản đối con đường trung đạo cho rằng 40 năm thực hiện chính sách này
mang lại rất ít lợi ích cho những người tị nạn Tây Tạng và vấn đề nhân quyền
bên trong Tây Tạng đã trở nên tồi tệ trong những thập niên vừa qua.
“Vì vậy, chừng nào Tây Tạng chỉ đòi quyền tự
trị, đó sẽ không phải là một vấn đề quốc tế,” Lhasang Tsering, 68 tuổi, một cựu chiến
binh Chushi-Gangdruk từng phục vụ tại khu vực Mustang của Nepal trong những năm
1970, cho biết. Hiện nay, ông sống ở Dharamsala và sở hữu một tiệm sách được gọi
là “Bookworm” (Mọt sách).
“Nếu Đức Đạt Lai Lạt Ma không coi tự do là
đích tối thượng, vì hòa bình và công lý, các nước khác sẽ không giúp chúng
tôi”,
Tsering nói. “Điều đó có thể là quá muộn
cho Tây Tạng vào thời điểm Trung Quốc sụp đổ.”
Điểm
đáng kể trong các cuộc bầu cử của chính phủ Tây Tạng lưu vong gần đây là tìm một
thủ tướng như một người lãnh đạo cho một phong trào độc lập đã đổi mới. Ứng cử
viên được cho là thu hút sự quan tâm của các phương tiện truyền thông nhất
trong cộng đồng người tị nạn Tây Tạng là Lukar
Jam – người đã khuấy động cuộc tranh cãi bằng cách công khai thách thức chính
sách trung đạo của Đức Đạt Lai Lạt Ma và thuyết phục đòi độc lập.
“Bàn về con đường trung rất hợp thời, nhưng
nó giết chết niềm đam mê hành động,” Jam cho biết, theo hãng tin AP. “Tôi đã tách rời các chính sách về tinh thần
và chính trị Đức Dalai Lama và chỉ chỉ trích các chính sách chính trị của ông.”
“Sự nổi tiếng của anh ta cho thấy sự hoài
nghi đối với con đường trung đạo,” Nyinjey nói, đề cập đến Jam. “Sự chuyển biến này cho thấy một vết nứt
trong quan điểm của người Tây Tạng, và những người ủng hộ của con đường
trung đạo đang buộc phải bảo vệ chính sách của họ.”
Điểm
tới hạn?
Song
song với cuộc tranh luận về con đường trung đạo là một phong trào kháng chiến
vũ trang bên trong Tây Tạng chống lại sự đô hộ của Trung Quốc – bằng chứng là
các cuộc phản kháng năm 2008 và một làn sóng tự thiêu ở Tây Tạng bắt đầu từ năm
2009. Và với việc Bắc Kinh đăng cai Thế vận hội mùa đông năm 2022, một số người
suy luận rằng có thể có sự lặp lại các cuộc phản kháng lan khắp Tây Tạng trước
Thế vận hội mùa hè Bắc Kinh 2008.
Trong
các cuộc phản kháng năm 2008, người Tây Tạng đã cướp phá các doanh nghiệp thuộc
sở hữu của Trung Quốc và tấn công người Hán trên đường phố, nhấn mạnh những
căng thẳng sắc tộc âm ỉ bên trong khu tự trị Tây Tạng của Trung Quốc.
“Trong năm 2008, cuộc nổi dậy lớn này đã xảy
ra trên khắp Tây Tạng,” Sherab Woeser, nhà nghiên cứu tại Viện Chính sách Tây Tạng,
một nhóm chuyên gia ở Dharamsala, nói. “Không
ai mong đợi nó, và những thanh niên trẻ tuổi đã dẫn dắt nó. Họ muốn có sách
giáo khoa Tây Tạng trong trường học, có thể vẫy cờ của họ và vinh danh Đức Đạt
Lai Lạt Ma. Những người trẻ tuổi đang thể hiện ở Tây Tạng rằng họ muốn được tự
do. ”
Sau các
cuộc phản kháng năm 2008, chính quyền Trung Quốc đã đàn áp thẳng tay ở khu tự
trị Tây Tạng. Việc giám sát tăng lên, cũng như những báo cáo về việc bắt giữ và
tra tấn. Những bức ảnh Đức Đạt Lai Lạt Ma và lá cờ Tây Tạng bị cấm, những
hạn chế đi du lịch mới được đưa ra và biên giới với Ấn Độ và Nepal đã bị đóng
nhằm ngăn chặn dòng người tị nạn ra khỏi Tây Tạng.
Từ năm 2009, 142 người Tây Tạng đã tự thiêu
bên trong Trung Quốc như là sự phản ứng đối với cuộc đàn áp của Trung Quốc. Trong khi những người
Tây Tạng tự thiêu bao gồm tất cả các lứa tuổi và trải rộng khắp các tầng lớp xã
hội, tuổi trung bình của những người tự thiêu là 24, cho thấy sự phản kháng chống
lại chế độ Trung Quốc trong giới trẻ Tây Tạng.
“Việc tự thiêu chỉ là một sự kéo dài của cuộc
kháng chiến Chushi-Gangdruk,” Nyinjey nói. “Không có gì thay đổi. Sự chiếm đóng và áp bức đã luôn ở đó. Những
nguyên nhân giống nhau của cuộc kháng chiến vẫn còn đó, nhưng hình thức của cuộc
kháng chiến đã thay đổi.”
“Tây Tạng đã chứng kiến quá nhiều cái chết, nỗi
đau khổ và sự áp bức, và điều đó thể hiện trong cách họ phản kháng,” Woeser nói.
Một số
người còn suy đoán rằng phong trào độc lập đã đổi mới của Tây Tạng có thể châm
ngòi cho một phản ứng dây chuyền các phong trào ly khai ở khu tự trị Nội Mông
và Tân Cương của Trung Quốc.
“Tây Tạng có thể là Tunisia, một ngòi nổ cho
việc sụp đổ của Trung Quốc,” Nyinjey tuyên bố, tương tự như vụ tự thiêu của
một người bán hàng rong ở Tunisia vào tháng 12 năm 2010 đã trở thành một nhân tố
kích thích phong trào mùa xuân Ả Rập.
Di sản
Mặc cho
sự chênh lệch áp đảo chống lại họ, những chiến binh du kích Tây Tạng đã chiến đấu
quyết liệt, bị tổn thất nặng nề khi họ phải đối mặt với pháo binh, xe tăng và
máy bay ném bom Trung Quốc từ trên lưng ngựa, vũ trang bằng gươm và súng trường
từ thế chiến I.
“Họ không có bất cứ kiến thức nào về việc chiến
đấu, họ chỉ có lòng yêu nước và mong muốn chiến đấu cho đất nước của mình,” Tenpa Dhargyal, 37
tuổi, tổng thư ký Hiệp hội Phúc lợi của Trung Dokham Chushi-Gangdruk, một tổ chức
có trụ sở tại New Delhi dành riêng cho việc chăm sóc các cựu chiến binh
Chushi-Gangdruk và gia đình họ, nói.
Ông nội
của Dhargyal là một chiến binh Chushi-Gangdruk, người đã chết trong cuộc chiến
đấu với Trung Quốc. “Lòng can đảm của họ
đến từ sự giận dữ của họ,” ông nói.
Các chiến
binh Chushi-Gangdruk đóng một vai trò quan trọng trong việc thành lập chính phủ
lưu vong Tây Tạng. Năm 1959, các chiến binh Chushi-Gangdruk kiểm soát vùng lãnh
thổ ở miền nam Tây Tạng tạo ra một hành lang bảo vệ, qua đó Đức Đạt Lai Lạt Ma
đã trốn sang Ấn Độ. Và sau khi Đức Đạt Lai Lạt Ma đã an toàn trong cảnh tha
hương, các chiến binh Chushi-Gangdruk đã bảo vệ hàng chục ngàn người tị nạn chạy
trốn vượt qua dãy Himalaya vào Ấn Độ và Nepal.
“Chúng tôi không muốn sống dưới sự cai trị của
Trung Quốc. Chúng tôi muốn giành lại đất nước của chúng tôi.” – Tenpa Dhargyal,
37 tuổi, tổng thư ký Hiệp hội Phúc lợi của Trung tâm Dokham Chushi-Gangdruk.
(Nolan Peterson / The Signal Daily)
Năm
1957, hai năm trước cuộc đào thoát của Đức Dalai Lama, CIA bắt đầu huấn luyện
bán quân sự cho các chiến binh Chushi-Gangdruk được lựa chọn cẩn thận. Việc đào
tạo diễn ra tại các căn cứ bí mật ở Saipan; Trại Hale, Colorado; và trại Peary,
Virginia (tại một cơ sở được gọi là “trang trại”).
Sau khi
được đào tạo, các nhà hoạt động Tây Tạng đã nhảy dù vào vùng đất Tây Tạng bị
Trung Quốc chiếm đóng bằng đủ loại máy bay từ thời Thế chiến II B-17 đến C-130
của CIA (đã được sơn đen toàn bộ). Để tạo ra một sự chối bỏ có vẻ hợp lý, nên
có một chiếc máy bay rơi xuống, CIA ban đầu đã sử dụng những phi công Đông Âu
được tuyển dụng cho các nhiệm vụ bí mật trên lãnh thổ Ukraine Xô viết. Sau này
Air America (một hãng hàng không bình phong của CIA) đã xử lý các nhiệm vụ ở
Tây Tạng.
Những
chiến binh Chushi-Gangdruk cuối cùng đã thiết lập địa điểm đóng quân ở khu vực
Mustang xa xôi của Nepal, từ đó họ bắt đầu các cuộc tấn công qua biên giới sang
Trung Quốc.
CIA hỗ
trợ các chiến binh Chushi-Gangdruk vũ khí, đạn dược, vật tư thả từ máy bay xuống
cho đến tận năm 1972, khi Tổng thống Richard Nixon bình thường hoá quan hệ với
Trung Quốc, và cắt đứt sự hỗ trợ của Hoa Kỳ cho cuộc kháng chiến của người Tây
Tạng. Các chiến binh Chushi-Gangdruk tiếp tục hoạt động từ Nepal trong nhiều
năm nữa mà không có sự ủng hộ của Mỹ, nhưng kết quả đạt được rất ít.
“Mỹ coi đó như là một động thái chiến thuật
quấy nhiễu khối Cộng sản từ phía sau, ủng hộ Tây Tạng giành độc lập không phải
là một quyết định chiến lược”, Tsering, cựu chiến binh Chushi-Gangdruk,
nói.
Nhưng thật dễ dàng để đổ lỗi cho người khác về
sự thất bại của chúng tôi,” ông nói thêm. “Chúng
tôi đã không tận dụng sự hỗ trợ của CIA nhằm quốc tế hoá sự nghiệp của chúng
tôi và đoàn kết dư luận thế giới ủng hộ chúng tôi.”
Năm
1974, sau khi cúi đầu trước áp lực của Trung Quốc, quân đội Nepal đánh bật các
chiến binh Chushi-Gangdruk ra khỏi nơi trú ẩn ở vùng núi Mustang, giết chết nhiều
người (bao gồm cả chỉ huy của họ, Tướng Gyato Wangdu, người đã được CIA đào tạo
tại Trại Hale, Colorado) trong những trận đấu súng tầm cao. Đức Đạt Lai Lạt Ma
đã gửi một thông điệp ghi âm đề nghị phong trào kháng chiến Mustang hạ vũ
khí, đẩy vô số chiến binh tự tử.
Đối với
một số người Tây Tạng, lịch sử xâm lược Tây Tạng của Trung Quốc và di sản của
những người đã mất trong cuộc kháng chiến tiếp theo ở Tây Tạng đã thổi bùng sự
ghê tởm kéo dài đối với việc khuất phục trước ách thống trị của Trung Quốc.
“Mặc dù họ yêu cầu chúng tôi làm bạn với
Trung Quốc, chúng tôi không muốn điều đó,” Dhargyal nói. “Chúng tôi không thể làm bạn với họ, vì họ đã giết ông bà của chúng
tôi. Chúng tôi không muốn sống dưới sự cai trị của Trung Quốc. Chúng tôi mong
muốn giành lại đất nước của mình.”
Nghiệp
chướng
Chungdak
Bonjutsang bắt đầu khóc khi ông mô tả binh lính Trung Quốc đã giết mẹ của ông
như thế nào vào năm 1959.
Bonjutsang,
bây giờ 61 tuổi, lấy tay che mắt. Ngực ông phập phồng với những hơi thở sâu.
Ông đã cố gắng vượt qua và nói chuyện, nhưng vẫn nghẹn ngào. Sau một lúc im lặng,
ông lau sạch nước mắt, nhìn lên trần nhà một lúc, và sau đó tiếp tục.
Bonjutsang
chỉ mới 6 tuổi khi mẹ, cha, chú, và anh trai ông vượt qua dãy Himalaya để thoát
khỏi chế độ Cộng sản ở Tây Tạng. Họ đi cùng một nhóm khoảng 400 người, ông nói.
Phụ nữ, trẻ em và người già đi ở phía trước, trong khi những người đàn ông và
các chiến binh du kích Tây Tạng Chushi-Gangdruk ở phía sau để đẩy lùi các cuộc
tấn công của Trung Quốc. Nhóm của họ là một phần của 80.000 người Tây Tạng tràn
vào vào Ấn Độ và Nepal vào năm 1959 sau khi Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc
(PLA) nã pháo vào những người phản kháng tại thủ đô Lhasa của Tây Tạng.
Chungdak Bonjutsang, 61 tuổi, thoát khỏi Tây
Tạng với gia đình của mình trong năm 1959. (Nolan Peterson / The Signal Daily)
Bonjutsang
vẫn còn nhớ y nguyên âm thanh của những viên đạn làm những viên đá cứng rơi ra
khỏi vách núi trong cuộc tấn công của Trung Quốc. Trên một lối mòn ở độ cao lớn
không có nơi nào để trú ẩn, sự lựa chọn duy nhất là chạy hoặc chống trả.
Cha của
Bonjutsang trói cậu bé 6 tuổi đang sợ hãi vào một con ngựa chở hàng để không bị
lạc mất trong sự hỗn loạn của cuộc đấu súng. Sau đó, cha và chú của ông đã tham
gia lực lượng du kích Chushi-Gangdruk trong cuộc chiến chống lại những người
lính Trung Quốc.
Trong
cuộc tấn công, mẹ của Bonjutsang bị bắn vào sườn. Bà qua đời một cách nhanh
chóng. Và vì người Trung Quốc đang truy đuổi, không có thời gian để chôn bà, “chúng tôi phải để bà nằm lại trên mặt
băng, và sau đó chúng tôi chạy đi,” Bonjutsang nói trong một cuộc phỏng vấn
tại khu kiều dân của người tị nạn Sonamling Tây Tạng ở vùng Himalaya Ladakh của
Ấn Độ.
“Khi đó tôi còn rất trẻ,” ông nói. “Nhưng khi tôi lớn lên, cơn đau càng trở nên
tồi tệ. Tôi không ngừng nghĩ về mẹ tôi khi bà nằm chết trên mặt băng. Tôi nhìn
thấy bà ấy vào ban đêm khi tôi đi ngủ.”
Năm
mươi sáu năm sau, nỗi đau và nỗi tức giận của Bonjutsang về cái chết của mẹ
mình vẫn không phai mờ. “Trung Quốc vẫn là kẻ thù,” ông nói.
Ông đã không bao giờ trở về Tây Tạng, và thừa nhận rằng ông chưa bao giờ có khả
năng. Tuy nhiên, niềm hy vọng của ông rằng Tây Tạng sẽ giành lại nền độc lập đã
không bị phai mờ – và niềm hy vọng đó được duy trì bởi đức tin bền vững vào đức
Đạt Lai Lạt Ma.
“Chúng tôi có niềm hy vọng to lớn là chúng
tôi sẽ có thể đưa Đức Đạt Lai Lạt Ma trở lại Tây Tạng trước khi Ngài mất,” Bonjutsang nói. “Miễn là Ngài còn sống, chúng tôi tin rằng tự
do là có thể.”
Một nụ
cười lướt qua trên khuôn mặt của Bonjutsang. Ông nói thêm: “Và, tất nhiên, chúng tôi cũng hy vọng Ngài vạch ra kế hoạch đối với Đảng
Cộng sản ở Trung Quốc.”
-------------------------------
Nolan
Peterson, một cựu phi công bay thử nghiệm đặc biệt và một cựu chiến binh chiến
đấu ở Iraq và Afghanistan, là phóng viên nước ngoài cho tờ nhật báo Signal.
Bài
viết này trước đó đã được công bố trên DailySignal.com
Quan
điểm thể hiện trong bài viết này là những ý kiến của (các) tác giả và
không nhất thiết phản ánh quan điểm của Epoch Times.
No comments:
Post a Comment