Nguyễn Tiến Dũng
11:24 | 03/11/2015
Chất
lượng đào tạo các bậc đại học và sau đại học (ĐH-SĐH) ở Việt Nam luôn là một vấn
đề nóng trong suốt nhiều năm qua. Đầu ra của các bậc đào tạo chưa đáp ứng được
sự trông đợi của xã hội, chưa phù hợp với yêu cầu thực tiễn của các lĩnh vực
thuộc nền kinh tế quốc dân... là những câu chuyện được bàn luận trên rất nhiều
diễn đàn ở các cấp độ khác nhau.
Phóng viên Báo Năng lượng Mới trao đổi với GS.TSKH Nguyễn Phùng Quang, giảng viên Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội, xung quanh những bất cập đang tồn tại trong hệ thống đào tạo ĐH-SĐH tại Việt Nam và giải pháp cải cách thực trạng này.
Những nhược điểm căn bản
PV: Lâu nay
chúng ta vẫn thường chứng kiến không ít sự thất vọng đối với chất lượng đầu ra
của các bậc đào tạo đại học và sau đại học ở trong nước, cho dù sinh viên Việt
Nam khi ra nước ngoài học thường không thua kém gì các sinh viên quốc tế. Là một
nhà giáo trực tiếp tham gia vào quá trình đào tạo này nhiều năm, xin GS cho biết
đánh giá của mình?
GS.TSKH
Nguyễn Phùng Quang: Trước
hết, tôi cho rằng tình trạng “bằng
thật, học vấn giả” vẫn đang là một vấn nạn ở tầm cỡ quốc gia, đe dọa sự
phát triển bền vững của đất nước cho dù Nhà nước, thông qua Bộ Giáo dục &
Đào tạo, cũng đã có nhiều biện pháp nhằm cải thiện tình trạng đó.
Thực
trạng đào tạo ĐH-SĐH hiện nay có quá nhiều bất cập và đó chính là nguyên nhân
tác động tiêu cực tới chất lượng đào tạo ở mọi bậc ĐH. Để có thể nâng cao chất
lượng đào tạo, bắt buộc ta phải loại bỏ các bất cập đó trong một nỗ lực cải
cách thực sự ở cấp hạ tầng cơ sở (cấp trường, cấp bộ môn), song hành với các giải
pháp thượng tầng (trao quyền tự chủ) đã bàn lâu nay. Có thể phải luật hóa yêu cầu
cải cách cấp hạ tầng, bởi nếu không, sẽ có nhiều trường không thực sự biết bắt
đầu từ đâu với quyền tự chủ được trao, sẽ xuất hiện tình trạng “trăm hoa đua nở”.
Cần phải tạo nên một khuôn khổ hợp lý cho việc thực thi tự chủ.
PV: Người ta vẫn
thường kêu ca và đổ lỗi cho cơ chế, chính sách vĩ mô, còn ông thì ngược lại. Liệu
"luật hóa" việc cải cách ở cấp hạ tầng cơ sở đào tạo là nhà trường và
bộ môn (BM) có phải là cách giải quyết tận gốc rễ vấn đề chất lượng, thưa GS?
GS.TSKH
Nguyễn Phùng Quang: Cho
đến thời điểm hiện tại, một điều khiến tôi vô cùng ngạc nhiên là dường như
trong tất cả các diễn đàn bàn về chất lượng đào tạo ĐH và các biện pháp cải thiện,
đều mới bàn tới các biện pháp mang tính vĩ mô. Ta có thể điểm qua vài nhóm biện
pháp như: nâng cao quyền tự chủ cho các trường ĐH về tài chính hay tuyển sinh đầu
vào, chuyển đổi từ đào tạo theo niên chế sang học chế tín chỉ, du nhập các
chương trình đào tạo của nước ngoài, liên kết đào tạo với nước ngoài v.v…
Tuy
nhiên, các biện pháp trên chỉ là các điều kiện cần thiết chứ không phải điều kiện
tiên quyết đối với chất lượng đào tạo ĐH. Làm nên chất lượng đào tạo là các trường,
hay chính xác hơn đó là các BM, nơi đại diện về chuyên môn trong quá trình đào
tạo của trường. Cấp BM chính là cấp có ý nghĩa quyết định tới chất lượng đào tạo.
Ta có thể nói rằng cấp BM là cấp “tế bào” của “thực thể đào tạo ĐH”. Đây là nơi
thầy và trò trực tiếp cùng nhau làm nên “sản phẩm” kỹ sư, cử nhân, thạc sĩ hay
tiến sĩ cung cấp cho xã hội. Vậy mà bấy lâu nay ta chưa bàn gì tới điều gì cần
thay đổi ở cấp này.
Tóm
lại, chúng ta phải phân tích thực trạng đào tạo ĐH ở tầng vi mô là cấp trường,
cấp BM để từ đó đề xuất các giải pháp giải quyết tận gốc rễ vấn đề chất lượng.
Thậm chí, một cuộc cải cách liên quan tới cấp này sẽ là không tránh khỏi.
PV: Được biết, là
giảng viên của trường ĐH công nghệ lớn nhất cả nước - ĐH Bách Khoa Hà Nội, đồng
thời GS có quan hệ hợp tác và từng giảng dạy tại nhiều trường ĐH ở các địa
phương khác như Hà Nội, Thái Nguyên, Hải Phòng, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh, GS có
thể chỉ ra những nhược điểm căn bản làm yếu “tế bào” của bậc đào tạo này là gì?
GS.TSKH
Nguyễn Phùng Quang: Tôi đã trăn trở với câu hỏi này nhiều năm và có thể “chốt”
thành một số vấn đề căn cốt nhất, đó là: Tổ chức giảng dạy vẫn theo phương thức
của cuối thế kỷ trước; cấu trúc nhân sự thuộc BM không hợp lý; cơ sở vật chất
thiếu và yếu, lại còn bị phân tán; nội dung giảng dạy không cập nhật; phương thức
hình thành đội ngũ GS.PGS thiếu hợp lý; việc kéo dài tuổi phục vụ của thầy chưa
thể mang lại hiệu quả và cuối cùng là lương cán bộ giảng viên không xứng đáng với
đóng góp của họ cho xã hội.
PV: Nhiều doanh
nghiệp, cơ quan, tổ chức cho rằng sinh viên ra trường đều phải đào tạo lại mới
có thể làm việc được. Các trường hẳn biết rõ điều này, song không khắc phục được
những nhược điểm đó, thưa GS?
GS.TSKH
Nguyễn Phùng Quang: Các
trường ĐH hiện nay cơ bản đều tổ chức giảng dạy theo một phương thức giống
nhau. Đó là, sinh viên của cùng một chuyên ngành được chia nhỏ thành nhiều lớp.
Phương thức này không khác nhiều so với thời điểm cách đây gần 60 năm (năm
1956), khi ĐH Bách Khoa Hà Nội được thành lập.
Phương
thức này có nhiều nhược điểm làm ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo như: Trình độ,
nhận thức của các thầy khác nhau nên sinh viên hoàn thành môn học với kiến thức
không đồng đều, mặc dù họ cùng học một môn. Các giảng viên trẻ, những người
đang ở giai đoạn cần đầu tư thời gian và năng lực sáng tạo để nâng cao trình độ
khoa học, thì suốt ngày phải lao vào đi dạy, không còn thời gian nghiên cứu
khoa học (NCKH). Cộng thêm với nỗi lo vật chất cho cuộc sống hằng ngày càng khiến
cho trình độ của họ ngày một đi xuống so với khi nhận tấm bằng tiến sĩ. Vậy họ
lấy đâu ra kiến thức mới để cập nhật bài giảng, làm sao chất lượng đào tạo có
thể tốt cho được? Trường ĐH thường sa vào vòng xoáy kinh niên: Luôn thiếu giảng
viên, luôn thiếu tiền để thanh toán vượt giờ, thậm chí thiếu cả lớp để dạy học.
Về
cách tuyển dụng, bổ nhiệm nhân sự hiện nay cũng rất bất hợp lý, thực chất không
chọn được người có uy tín chuyên môn cao nhất; nhân lực NCKH không có cơ hội đổi
mới tư duy và định hướng. Nhiều BM có chuyên môn gần như bao trùm một ngành với
phổ môn học và phổ lĩnh vực KH khá rộng, dẫn đến thiếu tính chuyên sâu. Trong
khi đó, việc giảng dậy và NCKH với chuyên môn đủ hẹp lại là điều kiện tiên quyết
để đào tạo được các nhà KH, các thầy cô có trình độ chuyên sâu cao.
Về
cơ sở vật chất phục vụ đào tạo ĐH thì trang thiết bị thí nghiệm rất thiếu, đa
phần không theo kịp với sự phát triển chung của khoa học - công nghệ (KHCN), dẫn
đến nhiều môn học được dậy chay. Thiếu hệ thống giảng đường lớn để tạo điều kiện
cho SV được nghe bài giảng từ các GS.PGS đầu ngành. Rất hiếm trường cung cấp được
đầy đủ phòng làm việc với các trang bị cần thiết phục vụ công tác đào tạo và
NCKH của các cán bộ.
Nội
dung giảng dạy vẫn luôn là một vấn đề tồn tại lớn ảnh hưởng xấu tới chất lượng
sinh viên, song do cấu trúc nhân sự không hợp lý dẫn đến nhiều người tham gia
giảng dậy khá “bình đẳng” một môn học, việc truyền tải đầy đủ nội dung quy định
trong giáo trình nhiều khi không được bảo đảm. Nhiều trường hợp, giao viên thiếu
khả năng nắm bắt kịp yêu cầu mới cao hơn của bậc học, đội ngũ giáo viên chịu tải
giảng dạy quá nặng, phần NCKH gần như không có, trình độ không được nâng cao,
việc giảng bài trên cơ sở các giáo trình cũ kỹ không phải là chuyện hiếm. Tiếc
rằng cho đến nay chưa có một cơ chế nào cho phép kiểm tra điều này.
“Thay máu” nghiên cứu khoa học
PV: Vậy theo GS,
nguyên tắc nào có thể coi là một nỗ lực cải cách thực sự ở bậc đào tạo ĐH-SĐH
nhằm có được một đầu ra chất lượng cao?
GS.TSKH
Nguyễn Phùng Quang: Quan
sát kỹ cách tổ chức đào tạo và NCKH tại các trường ĐH lớn ở nước ngoài, ta có
thể tóm gọn nguyên tắc thực hiện của họ trong cụm từ “tập trung”.
Ý
nghĩa của nguyên tắc này, một là “tập trung trình độ”: Sinh viên luôn phải được
tạo cơ hội để nghe người có trình độ chuyên môn cao nhất giảng dạy. Hai là “tập
trung trách nhiệm”: Trách nhiệm đào tạo (giảng dậy, hướng dẫn luận văn Cao học
hay luận án Tiến sĩ) luôn thuộc về người có trình độ chuyên môn cao nhất. Ba là
“tập trung sức trẻ để NCKH”: Sức sáng tạo của cán bộ trẻ phải được tập trung chủ
yếu vào NCKH để qua đó họ trưởng thành. Bốn là “tập trung năng lực chuyên môn
sâu”: Cấp BM là cấp tập trung uy tín cao nhất có thể của một lĩnh vực chuyên
môn sâu với phổ môn học và phổ vấn đề KH đủ hẹp. Với cách tổ chức như vậy, để
đào tạo được một chuyên ngành, mỗi BM chỉ nên đóng góp trong phạm vi 4-5 môn học
(bắt buộc, tự chọn) là hợp lý. Và cuối cùng là “tập trung cơ sở vật chất”: Thay
vì xây trường thuần túy với các phòng học nhỏ, cần có kế hoạch hình thành hệ thống
giảng đường lớn. Hệ thống phòng thí nghiệm bố trí theo phổ chuyên môn rộng, cần
được đầu tư hẹp hơn và có chuyên môn sâu hơn.
PV: Để nguyên tắc
“tập trung” như GS vừa đưa ra có thể được thực thi hiệu quả, hẳn phải có những
biện pháp mang tính đồng bộ, những trăn trở của ông nhiều năm qua về vấn đề này
như thế nào thưa GS?
GS.TSKH
Nguyễn Phùng Quang: Trong
một nỗ lực cải cách chung, tôi cho rằng cần phải thực hiện những biện pháp sau:
Thứ nhất là thay đổi tổ chức nhân sự của cấp BM. Cần nghiên cứu hình thành các
BM có chuyên môn sâu; cần xác định chỉ tiêu GS-PGS cho từng BM, xác định số lượng
và vai trò của các thành viên còn lại thuộc BM, hạn chế số thành viên cơ hữu ở
mức tối thiểu, gia tăng số thành viên không cơ hữu để mở ra cơ hội “thay máu
NCKH”, hạn chế việc tư duy KH đi theo lối mòn, đồng thời kích thích - phát huy
sáng tạo tại BM.
Thứ
hai là, thay đổi phương thức tổ chức giảng dạy. Cần tổ chức giảng dạy không
theo lớp mà theo môn học, tổ chức seminar, làm thí nghiệm hay chữa bài tập theo
nhóm nhỏ, tăng cường đầu tư xây dựng giảng đường lớn, quy hoạch lại hệ thống
phòng thí nghiệm.
Thứ
ba là, phải sửa quy trình bổ nhiệm và xác định lại vai trò của GS.PGS. Cần phải
khẳng định việc bổ nhiệm GS.PGS là để phục vụ đào tạo; cần thay đổi quan niệm
và cách chấm điểm NCKH; Nhà nước chỉ xét đạt tiêu chuẩn và phân chỉ tiêu GS-PGS
cho trường bổ nhiệm chức danh; cần khẳng định phải là GS-PGS mới có quyền hướng
dẫn nghiên cứu sinh.
Hệ
quả lôgic của quy trình bổ nhiệm GS-PGS nói trên là đội ngũ các nhà KH hàng đầu,
đủ khả năng đào tạo các nhà KH kế cận, các TS. Theo các quy định hiện hành của
Việt Nam, chỉ cần là TS cũng có thể được phép nhận hướng dẫn nghiên cứu sinh.
Điều kiện duy nhất là họ phải có bằng ít nhất đã quá 3 năm và không được phép độc
lập hướng dẫn. Khỏi phải bình luận nhiều về hậu quả của quy định này. Đành rằng
ở Việt Nam có những ngành đặc thù, rất hiếm GS.PGS, vì vậy các nhà quản lý đã
phải “gỡ khó” bằng quy định cho phép TS đào tạo TS. Tuy nhiên, thay vì xác định
cụ thể những ngành được “hưởng quy chế đặc biệt” đó thì Bộ GD&ĐT lại cho
phép vận dụng đại trà, kể cả những ngành KHCN.
Mơ hồ tự chủ - kinh phí nghèo nàn
PV: Ngày
24-10-2014 Chính phủ đã cụ thể hóa vấn đề tăng quyền tự chủ của trường ĐH và thầy
trong nghiên cứu và giảng dạy bằng việc ban hành Nghị quyết số 77/NQ-CP “Về thí
điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai
đoạn 2014-2017”, GS đánh giá tác động của Nghị quyết này ra sao?
GS.TSKH
Nguyễn Phùng Quang: Nghị
quyết này mang tính chất đột phá tích cực. Tuy nhiên, không khó để thấy rằng,
nghị quyết đó chỉ có thể thực sự mang lại hiệu quả xã hội, hiệu quả nâng cao chất
lượng đào tạo khi nó được ban hành trong khuôn khổ của một nỗ lực “cải cách
mang tính hệ thống”. Nhiều quy định trong đó rất đúng về nguyên tắc, nhưng còn
khá mơ hồ, có thể gây nên tình trạng mỗi trường hiểu và thực hiện một phách,
không góp phần định hướng chung để tạo nên một nền đào tạo ĐH-SĐH có chất lượng
cao.
Có
thể khẳng định rằng: Chỉ một cuộc cải cách mang tính hệ thống và kết hợp đồng bộ
nhiều biện pháp mới có thể tạo ra một khuôn khổ bền vững để các trường phát huy
trí tuệ sáng tạo và thực thi hiệu quả “quyền tự chủ” của mình theo Nghị quyết
77.
PV: Được biết, tại
các nước phát triển, một phần rất lớn kinh phí NCKH của các trường có nguồn gốc
từ các doanh nghiệp, theo GS, cần làm gì để khích lệ doanh nghiệp đầu tư nghiên
cứu - phát triển vào các trường ĐH?
GS.TSKH
Nguyễn Phùng Quang: Điều
này xảy ra nhờ có nỗ lực từ 2 phía: Doanh nghiệp cần giải quyết các vấn đề nẩy
sinh trong nhu cầu NC-PT sản phẩm mới của doanh nghiệp, còn nhà KH đi tìm nguồn
kinh phí phục vụ NCKH và đào tạo của bản thân. Ở Việt Nam, nhà KH của các trường
ĐH đến với doanh nghiệp duy nhất trên cơ sở các hợp đồng kinh tế, giải quyết
bài toán kinh tế của hai bên đối tác, vấn đề KH chỉ là thứ yếu. Vấn đề KH chỉ
thực sự được đặt ra đối với các đề tài NCKH các cấp với nguồn kinh phí rất hạn
hẹp từ ngân sách. Cần phải làm sao để kích thích các nhà KH đang công tác tại
trường ĐH đi tìm kinh phí từ các doanh nghiệp và ngược lại cũng khuyến khích
các doanh nghiệp rót tiền về trường ĐH để giải quyết các khó khăn khi nghiên cứu
- phát triển sản phẩm mới của mình. Không làm được điều này là một sự lãng phí
nguồn lực tài chính từ doanh nghiệp. Làm được điều này cũng đồng nghĩa với việc
giải phóng sức sáng tạo của các nhà KH trẻ khỏi các công việc giảng dậy hiện tại,
tập trung vào NCKH, đồng thời tăng nguồn thu nhập cho họ.
Nhà
nước cần có chính sách công nhận công trình phục vụ doanh nghiệp cũng là công
trình NCKH đồng thời giảm hoặc miễn thuế cho doanh nghiệp đầu tư cho NCKH tại
trường ĐH, khuyến khích các trường tự tìm kinh phí NCKH từ doanh nghiệp.
PV: Nếu các
nguyên tắc và biện pháp cải cách GS vừa đưa ra được thực thi đồng bộ, GS có thể
lượng định được những lợi ích cụ thể? Ông kỳ vọng như thế nào về những đề xuất của
mình?
GS.TSKH
Nguyễn Phùng Quang: Không
khó để thấy các lợi ích khi thực hiện thành công các biện pháp cải cách trên,
đó là: Sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh sẽ luôn được nghe bài giảng
và được kiểm tra đánh giá bởi những người có trình độ cao nhất, luôn được người
có trình độ KH cao nhất hướng dẫn tới đích. Giải phóng sức lao động sáng tạo của
đội ngũ cán bộ trẻ, họ không còn phải đi dạy quá nhiều và có thể tập trung vào
NCKH. Khi NCKH nhiều, đương nhiên kéo theo hệ quả sẽ có nhiều công trình KH được
công bố, cả trong nước lẫn quốc tế. Do đội ngũ trẻ tập trung NCKH là chính, thu
nhập của họ cũng chủ yếu xuất phát từ kinh phí NCKH thu hút được, đặc biệt từ
nguồn ngoài doanh nghiệp.
Hơn
thế nữa, nhiều trường sẽ không còn đau đầu với vấn đề thanh toán tiền vượt giờ.
Do công tác giảng dạy (chủ yếu) do các GS.PGS đảm nhiệm, nhà trường không còn bị
sức ép triền miên về việc tuyển giảng viên mới do thiếu thầy. Các ĐH ở vùng
sâu, vùng xa cũng có cơ hội thu hút được các GS.PGS trình độ cao về tham gia
đào tạo. Khi các BM được hình thành với chuyên môn sâu, sau một thời gian, tại
Việt Nam sẽ hình thành một đội ngũ chuyên gia có lĩnh vực chuyên môn sâu rất rõ
ràng. Cuối cùng, việc thu hút được kinh phí NCKH từ nguồn doanh nghiệp có rất
nhiều lợi ích: Nhà nước đỡ bớt gánh nặng cho ngân sách, các trường ĐH sẽ thực sự
góp phần thúc đẩy phát triển đất nước, đưa KHCN tới với sản xuất và các doanh
nghiệp được hỗ trợ về KHCN, nâng cao chất lượng sản phẩm của mình.
Tuy
nhiên, nếu thực sự có một cuộc cải cách như vậy đi vào cuộc sống, việc tạo nên
một khung pháp lý như vậy không hề hạn chế, mà là điều kiện để các trường ĐH
phát huy trí tuệ sáng tạo, thực thi quyền tự chủ của mình, một quyền tự chủ có
định hướng vì chất lượng đào tạo ĐH-SĐH, vì sự phát triển của đất nước Việt
Nam.
Biết
rằng không thể chỉ bằng cách ra một quyết định cải cách là chúng ta có thể tới
ngay đích cần đạt, mọi việc đều phải có thời gian. Tuy nhiên, nếu chúng ta
không bắt đầu ngay bây giờ thì đến bao giờ mới loại bỏ được các yếu tố kìm hãm chất
lượng đào tạo ĐH và SĐH?
PV: Xin cảm ơn
GS về cuộc trao đổi này và tin rằng những ý tưởng đổi mới của ông sẽ được dư luận
xã hội và các cấp có thẩm quyền quan tâm xem xét.
Nguyễn
Tiến Dũng
Nguồn:
Năng lượng Mới 471
No comments:
Post a Comment