25-08-2015
Những góp ý dưới đây với Đại hội XII của Đảng (cả
Đại hội các cấp tiến đến Đại hội XII), không có chủ đích nào khác ngoài
sự mong muốn Đại hội đừng quay lưng lại với đòi hỏi cải cách thể chế
chính trị để thoát ra khỏi sự ràng buộc vô lý của ý thức hệ XHCN theo chủ
thuyết Mác – Lênin và sự lệ thuộc vào những thế lực bành trướng, bá quyền
Trung Quốc.
1. Đừng quay lưng lại với đòi hỏi cải cách thể chế
chính trị, đang là đòi hỏi nóng bỏng của đất nước
Thể chế chính trị mà Đảng Cộng sản đã chọn
và áp đặt lên đường lối phát triển của Việt Nam là CNXH dựa trên
học thuyết Mác – Lênin một thời tồn tại ở Liên Xô, tức CNXH theo mô
hình Xô Viết, và ở Trung Quốc – có lúc được gọi là CNXH đặc sắc
Trung Quốc. Đổi mới thể chế chính trị mà Đại hội Đảng lần này
phải trực diện không thể chỉ là “cơ chế chính sách, tổ chức bộ
máy” như Tổng Bí thư đã và đang chỉ đạo toàn Đảng, toàn dân thực thi
những công việc của Đại hội.
Thể chế chính trị đó- CNXH dựa trên chủ nghĩa
Mác-Lênin- đã phá sản ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu, mà người
trong cuộc ở đấy cho rằng vì nguyên nhân tự thân của nó.
Một số nước khác vốn đã nhân danh là quốc
gia XHCN, trong đó có Việt Nam, mặc dù phải đổi mới kinh tế để tồn
tại và phát triển, nhưng đổi mới không toàn diện, không triệt để, vì
vẫn còn lệ thuộc vào ý thức hệ XHCN và chế độ độc quyền lãnh đạo
của Đảng Cộng sản dựa trên siêu quyền lực.
Học thuyết Mác – Lênin và CNXH về lý
thuyết thì mù mờ và đã thực sự bị phá sản trong đời sống hiện thực. Mù mờ
đến mức ngay cả người sùng bái CNXH nhất cũng phải nói: “Đến hết
thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam chưa” [2]Thế
mà phải cứ lắp ghép một cách sống sượng XHCN với kinh tế thị trường
để có ‘kinh tế thị trường định hướng XHCN’, và cứ phải thúc đẩy
nhau đi tìm cái thể chế đó mà có tìm được đâu, bởi: “Làm gì có
cái thứ đó mà tìm”[3] và
mù mờ đến mức “đi mà không rõ đi đâu, bằng cách nào, bao giờ đến” [4]
Mù mờ, cùng với quá lúng túng và bế
tắc, bởi có nguyên nhân tự thân từ thể chế và cách tiếp cận
không qua lăng kính của cuộc sống.
Nguyên nhân tự thân của những lúng túng và bế
tắc gắn liền với quá nhiều khiếm khuyết trong nội hàm của mô thức
tổ chức xã hội XHCN mà các nhà sáng lập ra CNXH đã chọn:
(a) Tổ chức xã hội theo thuyết giai cấp và đấu tranh
giai cấp, coi đấu tranh giai cấp là động lực phát triển xã hội, coi chuyên
chính vô sản là nguyên tắc và trên thực tế đã không tránh khỏi tình trạng lấy
vô sản chuyên chính dân tộc đánh vào khối đại đoàn kết dân tộc. Kích động
hận thù, bạo lực và tội ác cũng sinh ra từ những điểm đặc trưng nổi bật
này.
(b) Mô thức tổ chức nền kinh tế bị chi phối gần như
tuyệt đối bởi những nét đặc trưng như công hữu tư liệu sản xuất chủ yếu là
nền tảng, kinh tế Nhà nước chủ đạo, việc thực hành kế hoạch hóa tập trung
quan liêu bao cấp và tự túc tự cấp. Mô thức tổ chức nền kinh tế với những
đặc trưng vừa kể rất xa lạ với kinh tế thị trường trên phương diện sản xuất
và tái sản xuất trong đời sống hiện thực.
(c) Tập quyền đến mức quyền lực thành siêu quyền lực
cho sự độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản vừa làm cho Đảng bị tha hóa
vừa làm cho các tổ chức chính trị, kinh tế xã hội khác mất quyền,
trở thành hữu danh vô thực. Không có quyền cũng dẫn đến tình trạng phổ
biến quay lưng với trách nhiệm đến mức vô cảm, khiến xã hội không còn có
người chủ nào là đích thực.
Ngoài nguyên nhân tự thân như đã nêu ở trên,
còn có nguyên nhân từ cách tiếp cận không qua lăng kính của cuộc
sống, để nhận biết học thuyết Mác – Lênin và CNXH có cái gì trước
đúng nay vẫn đúng, cái gì trước đúng nay không còn phù hợp vì bối
cảnh xã hội đã có quá nhiều thay đổi, và cái gì cả trước và nay
đều không đúng, để có sự lựa chọn vận dụng.
Mô thức tổ chức xã hội XHCN với những đặc trưng như
trình bày ở trên đã phá sản ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu.
Chọn học thuyết Mác – Lê nin và CNXH, Việt Nam
đã phải trả giá quá đắt bởi những sai lầm, khuyết điểm, nhất là sai lầm,
khuyết điểm nghiêm trọng trong việc chọn con đường và giải pháp cải tạo
XHCN và xây dựng CNXH từ 1954 ở miền Bắc và từ 1975 trên phạm vi cả nước.
Có thể đơn cử như:
(a) Sai lầm trong Cải cách ruộng đất.
(b) Triệt phá kinh tế tư bản tư nhân ở miền Bắc sau 1954 và sau 1975 ở miền
Nam.
(c) Xóa bỏ kinh tế cá thể của hàng chục triệu hộ nông dân, thợ thủ công và
tiểu thương.
(d) Kỳ thị kinh tế tư nhân và cấm đảng viên làm kinh tế tư nhân mãi tới
những năm gần đây, trong chừng mực mới có được tháo gỡ.
(e) Thái quá trong phân định và phân biệt đối xử giữa các thành phần giai cấp
trong xã hội, nên đã nêu khẩu hiệu “trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận
rễ” trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, đàn áp trí thức, nhân sĩ yêu
nước trong vụ Nhân văn Giai phẩm và trong vụ án Xét lại hiện đại.
(f) Chọn đổi mới kinh tế với cái cốt lõi là phát triển sản xuất hàng hóa nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nhằm sửa
chữa những sai lầm về đường lối kinh tế dựa trên học thuyết Mác – Lê nin và
CNXH theo mô hình Xô Viết và mô hình “đặc sắc Trung Quốc”, nhưng đổi mới
không toàn diện, không triệt để cũng bởi những rào cản từ ý thức hệ sợ “đổi
mới được kinh tế nhưng mất tư tưởng, được bộ phận nhưng mất tổng
thể, được trước mắt nhưng mất lâu dài, được kết quả hiển nhiên nhưng
xa rời mục đích và những nguyên tắc cơ bản, được của cải nhưng hỏng
quan hệ sản xuất và con người”, như không ít lý luận gia “cộm cán” của
Đảng đã răn dạy, ngay cả khi công cuộc đổi mới hết sức sôi động và nền kinh tế
thoát dần ra khỏi khủng hoảng và lấy đà tăng trưởng.
(g) Chậm nhận biết sự tất yếu mang tính quy luật của phát triển
bền vững, nên kinh tế có tăng trưởng nhưng tình trạng lâm nguy đối với
văn hóa và sự tàn phá môi trường càng lớn, càng gay gắt. Chạy theo tăng
trưởng nhất là trên diện rộng và số lượng, gây bất ổn kinh tế vĩ mô
và cái giá phải trả từ đó là chất lượng tăng trưởng không cao, chất
lượng cuộc sống của người dân chậm được cải thiện, mức tụt hậu so
với các nước trong khu vực ngày càng lớn.
Sai
lầm trong việc chọn đường lối cùng với bộ máy cầm quyền yếu kém, hư hỏng, cộng
với sự lộng hành của các nhóm lợi ích bất chính và tham nhũng, đã đưa nước ta
vào tình trạng khủng hoảng, tụt hậu về kinh tế, lâm nguy về văn hóa và môi
trường bị xâm hại vô phương cứu chữa. Toàn Đảng với gần bốn triệu đảng viên, phải
chịu trách nhiệm về những sai lầm như đã nêu ở trên và phải sửa sai,
bằng cách từ bỏ đường lối xây dựng CNXH dựa trên chủ nghĩa Mác
– Lênin, chuyển sang đường lối dân tộc, dân chủ theo tinh thần của nền
cộng hòa dân chủ với sự tôn vinh nhân quyền và pháp quyền. Sứ mệnh và tầm
nhìn đó đòi hỏi Đại hội XII (cả đại hội các cấp tiến đến Đại hội
XII) không được quay lưng lại với yêu cầu
cải cách thể chế chính trị.
2. Trong quá trình dựng nước và giữ nước, có cả ngàn năm phải đối đầu với
mưu đồ đặt nước ta vào vị thế lệ thuộc nhằm phục vụ lợi quyền của Trung Quốc.
Chỉ tính riêng trong khoảng 40 năm gần đây (từ sau 1975), các thế lực bành trướng
bá quyền Trung Quốc đã chiếm Hoàng Sa (năm 1974); đánh chiếm Gạc Ma (năm 1988),
đứng sau lưng “Khơme đỏ” đánh Việt Nam ở biên giới Tây Nam (1976-1978), đưa 60
vạn quân tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía Bắc (1979), hạ đặt
giàn khoan HD981 trong vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam, và một chuỗi
hành động rất đáng quan ngại là việc “xây dựng các đảo nhân tạo”
đang được ráo riết thực hiện ở Trường Sa, Hoàng Sa không thuộc chủ
quyền của Trung Quốc.
Sự ngang ngược và ngạo mạn hết sức nguy hiểm
đó, phải được coi là những hành vi xâm lược, và phải được đối phó bằng
hành động chống xâm lược với ý chí và quyết tâm chính trị cao của khối đại đoàn
kết các dân tộc Việt Nam, của Nhà nước và của đảng cầm quyền.
Thế nhưng, tại nhiều diễn đàn trong nước và quốc tế,
nhất là tại hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 9 Khóa 11 và tại kỳ họp
thứ 8 của Quốc hội khóa 13 không những không ra được tuyên bố chỉ trích xâm
lược và kiên quyết chống xâm lược, mà còn có không ít những phát ngôn làm
được lòng Trung Quốc nhưng mất lòng dân vì những mơ hồ mất cảnh giác
từ nhận thức “cùng ý thức hệ XHCN” và những lời ngon ngọt “bốn
tốt”, “16 chữ vàng”. Thái độ mơ hồ mất cảnh giác, không giống một số
nước bạn như Nhật Bản, Philippines, đã, đang và sẽ tự mình đánh mất chủ
quyền, vừa không làm tròn trách nhiệm với các quốc gia, các cộng đồng
dân tộc thuộc khu vực ASEAN trong mối liên kết bảo vệ chủ quyền lãnh
thổ cũng như trong quyền sử dụng tài nguyên trên không, trên biển theo
luật quốc tế.
3. Chuẩn bị cho Đại hội XII là việc phải làm và cấp ủy các cấp của khóa XI có
trách nhiệm trong việc chuẩn bị này. Nhưng chuẩn bị chứ không phải áp đặt,
và càng không thể là thủ đoạn lấn quyền của Đại hội. Chuẩn bị Đại hội phải thực
sự coi trọng dân chủ, công khai, minh bạch (cả trong Đảng và trên toàn
xã hội).
Qua hệ thống thông tin đại chúng và tiếp cận bước đầu
với các dự thảo văn kiện trình Đại hội XII, thì thấy việc cải cách thể chế
chính trị (cả chế độ và đảng), không những chưa được quan tâm, mà còn buộc phải
theo tinh thần Cương lĩnh 2011 và Hiến pháp 2013, vốn cố bám giữ đường lối XHCN
theo chủ nghĩa Mác – Lê nin và sự độc quyền lãnh đạo của Đảng bằng siêu quyền lực.
Đây đang là vấn đề nóng bỏng phải xem xét triệt để mà Đại hội XII không thể
quay lưng lại được.
Về nhân sự cho cơ quan lãnh đạo các cấp trong nhiệm
kỳ Đại hội XII theo quyết định ngày 09/6/2014 của Ban Chấp hành Trung ương Khóa
XI, vẫn không có dân chủ thực chất và trên thực tế không tránh được sự sắp đặt
của cấp ủy khóa trước cho nhân sự của khóa sau, và cũng không tránh được sự chi
phối của một số ít người có quyền. Quy chế mới còn hạn chế hơn nữa quyền ứng cử,
đề cử, quyền bảo lưu ý kiến thiểu số và quyền được báo cáo với cấp
trên cho đến đại hội đại biểu toàn quốc của đảng viên, trong đó có những
quy định không phù hợp với điều lệ Đảng hiện hành.[5]
23.8.2015
Đ.C.T.
[1] Những
góp ý với ĐH XII của PGS Đào Công Tiến (nguyên Hiệu trưởng trường ĐH
Kinh tế TpHCM, nguyên thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng Võ Văn
Kiệt và Thủ tướng Phan Văn Khải, nguyên Phó Giám đốc ĐH Quốc gia TpHCM
và Phó Chủ tịch Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam) đã được chuyển đi từ
Đại hội chi bộ sở tại (ngày 17/4/2015), từ Hội nghị lấy ý kiến ở
ĐHQG TpHCM (20/5/2015) và ở Hội Khoa học Kinh tế VN (5/6/2015).
Cũng như nhiều lần trướctrong hàng chục năm
qua, những góp ý như vậy thường không đến được số đông dảng viên và
người dân, đặc biệt, không bao giờ được phản hồi từ những tổ chức
hoặc cá nhân hữu trách của Đảng.
Nói khác đường lối “chính thống” của Đảng
và nhất là nói trên các phương tiện thông tin đại chúng là vi phạm
những điều đảng viên không được làm. Tôi biết, đó là điều không nhỏ,
tức cũng là việc lớn, nhưng những góp ý với ĐH Đảng không đơn thuần
là chuyện của Đảng, của một số ít người trong Đảng, mà lớn hơn, là
chuyện của dân của nước, của nhiều đảng viên, nhiều người dân vốn
nặng lòng với chuyện dân chuyện nước cần biết và có trách nhiệm
biết.
[2] TBT
Nguyễn Phú Trọng tuyên bố: “Đổi mới chỉ là một giai đoạn, còn xây
dựng CNXH còn dài lắm. Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH
hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa” – Báo Tuổi Trẻ online 23/10/2013
(http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/20131023/du-thao-chua-vang-vong-nhu-loi-hieu-trieu/576098.html)
[3] Nhiều
người hỏi Bộ trưởng bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh thế nào
là thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, ông đáp: “Chúng ta cứ
nghiên cứu mãi cái mô hình đó, mà mãi có tìm ra đâu. Làm gì có mà
tìm.” – Thời báo Kinh tế Sài Gòn ngày 03/05/2014 (http://www.thesaigontimes.vn/114301/Cai-cach-the-che-tu-cau-hoi-chua-co-loi-giai.html)
[4] Thứ
trưởng bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng: “Tôi cứ suy nghĩ mãi
một điều, nếu chúng ta đi mà không rõ đi đâu, bằng cách nào, bao giờ
đến thì không bao giờ chúng ta đi nhanh và bền vững được.” – Thời
báo Kinh tế Sài Gòn ngày 22/11/2014 (http://www.thesaigontimes.vn/124350/Thu-truong-Bo-KHDT-Chung-ta-di-ma-khong-biet-di-dau.html)
[5] Mấy
điều không phù hợp với Điều lệ Đảng trong Quy chế bầu cử trong đảng
theo Quyết định số 244-QĐ/TW ngày 09/06/2014 của Ban chấp hành Trung
ương Đảng khóa XI:
- Theo Quy chế, cấp Ủy viên và Ủy viên thường vụ, Ủy viên Bộ chính trị và Ban Bí thư không được ứng cử và đề cử nhân sự ngoài danh sách do cấp ủy đề cử. Quy định này không phù hợp với quy định “Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp trên cho đến Đại hội Đại biểu toàn quốc” tại Khoản 5, Điều 9 của Điều lệ Đảng hiện hành.
- Quy chế bầu cử khống chế số dư tối đa không quá 30% số lượng cần bầu là lấn quyền của Đại hội vì Điều lệ hiện hành nêu rõ ở Khoản 2, Điều 9: “Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc, cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là Đại hội Đại biểu hoặc Đại hội Đảng viên” và ở Khoản 3, Điều 12 quy định: “Danh sách bầu cử do Đại hội thảo luận và biểu quyết thông qua”.
Quy chế bầu cử trong đảng coi “danh sách do
cấp ủy triệu tập đại hội đề cử là danh sách đề cử chính thức với
đại hội”, thậm chí “có thể lấy danh sách đó làm danh sách bầu cử”.
Như vậy có sự phân biệt đối xử giữa những người trong danh sách của
cấp ủy và những người tự ứng cử và được đề cử tại đại hội.
Nguyên tắc dân chủ, bình đẳng trong bầu cử bị vi phạm bởi sự phân
biệt đối xử đó.
Viet-studies nhận được ngày 23-8-15
No comments:
Post a Comment