Monday, October 27, 2008

ĐẢNG CSVN KHÔNG MUỐN NHÌN THẲNG VÀO SỰ THẬT

Kinh tế suy kém: Trách nhiệm nơi đâu?
Việt Long, phóng viên đài RFA
2008-10-24
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/Vietnam-in-denial-over-economic-woes-VLong-10242008161408.html

Tạp chí Kinh Tế Viễn Đông mới đây đã đăng tải một bài báo trình bày những nghịch lý trong chính sách kinh tế của Việt Nam, dẫn đến các hịêu quả yếu kém cho nền kinh tế.
Theo bài viết của Giáo sư Lê Sĩ Long, giám đốc chương trình Sáng kiến quốc tế về Nghiên cứu toàn cầu thuộc đại học Houston, Texas; Việt Nam hiện không giải quyết được những vấn đề kinh tế của mình trong bối cảnh cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.

Đề cao ổn định chính trị

Tình hình kinh tế của Việt Nam đang ảm đạm, không như những lời trấn an do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đưa ra gần đây.
Nạn lạm phát và giá sinh hoạt tăng cao rõ ràng đang phá bỏ những thành tựu mới đây trong lĩnh vực xoá giảm nghèo đói. Hệ thống bảo hiểm xã hội chỉ đáp ứng được cho 11% lực lượng lao động. Tỉ lệ dân số sống với thu nhập dứơi 1 đô la một ngày là khoảng 20%, gấp đôi tỉ lệ này cách đây một năm.
Vì lạm phát nên lương tiền mất giá, công nhân các xí nghiệp do nước ngoài đầu tư đã đình công với mức độ gấp tăng gấp hơn 4 lần trong hai năm qua, theo số liệu chính thức của chính phủ.
Bài báo của GS Lê Sĩ Long viết tiếp: nhưng chính phủ của Thủ tướng Dũng đặt nặng vấn đề ổn định chính trị và tính chính đáng của chính quyền, cho đó là vận xui thay vì là do chính sách không hay.

Trong hội nghị thảo luận với môt số chuyên gia kinh tế trong nước hôm 13 tháng 9 năm nay, ông Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh yếu tố kinh tế toàn cầu rối loạn như một trong các nguyên nhân đưa đến tình trạng kinh tế tệ hại ở Việt Nam.
Cùng lúc, ông cho rằng các kế hoạch của chính phủ đang có hiệu quả tốt, với những tỉ lệ giảm mức lạm phát, giảm đà tăng giá tiêu dùng tính theo từng tháng, thặng dư mậu dịch cu4ng giảm nhiều.
Ông Dũng còn khẳng định là quyết định tăng giá xăng 31% vào tháng 7 đã không làm tăng mức lạm phát hay đà tăng giá tiêu dùng như dự kiến.

Một số chuyên gia của các tổ chức nghiên cứu kinh tế tương đối có đầu óc độc lập hơn trong hội nghị này nêu câu hỏi về những yếu tố gây hại cho kinh tế, như thiếu biện pháp bảo đảm phẩm chất phát triển, thiếu nền quản trị tốt, thiếu công nhân lành nghề.

Vị Thủ tướng tránh trả lời thẳng, nói rằng những nỗ lực giải quyết những vấn đề đó không phải là ưu tiên, lại khó thực hiện trong lúc này. Theo ông thì vấn đề ưu tiên là phải khuyến khích các địa phưong và khu vực kinh tế đạt cho được đà tăng trửơng GDP 7% trong năm nay!
Thủ tướng Việt Nam sau đó còn trình bày quan điểm ấy trong hội nghị với các tổ chức quốc tế chính yếu đối với Việt Nam, hôm 20 tháng 9. Ông ngỏ ý tin tưởng lạm phát sẽ giảm trong vòng 16 tháng tới, và sự theo đuổi mục tiêu tăng trửơng cao để đem lại sự ổn định kinh tế vĩ mô là điều hợp lý!

Dân chúng bất mãn

Trong công chúng, có vẻ như càng ngày sự bất mãn về kinh tế của xứ sở càng tăng, đưa đến những cuộc thảo luận riêng tư về hiệu quả của các giải pháp của Nhà nước cùng khả năng của lãnh đạo.
Cũng có người tin rằng lạm phát đã tới đỉnh điểm và nền kinh tế không còn đối mặt với suy thoái nặng
nề.

Những người này thấy nhẹ nhõm khi giá xăng dầu giảm hai lần trong tháng 8, dù vẫn cao hơn 25% so với đầu năm. Tuy nhiên nhiều nhà đã phải âu lo cho tình hình kinh tế gia đình chưa từng tệ hại như vậy trong cả chục năm nay.

Giáo sư Lê Sĩ Long của đại học Texas viết tiếp: Chính sách của Thủ tướng Dũng đầy nghịch lý, khi vừa chống lạm phát vừa đẩy mạnh đà tăng trưởng. Đối với giới chuyên môn thì phải mất cái nọ mới được cái kia.

Giám đốc ADB tại Việt Nam, ông Ayumi Konishi, nói rằng trong lịch sử chưa có nước nào thành công trong cả hai mục tiêu ấy cùng một lúc.

Cơ quan Ecomnomist Intelligence Unit dự đoán tăng trưởng GDP của Việt Nam giảm xuống 4,9% năm nay và 4,l6% sang năm, trong khi tỉ lệ tăng giá tiêu dùng giảm từ 25% còn 15,2% sang năm.

Tương tự, ADB cho rằng Việt Nam muốn vượt mục tiêu tăng trưởng GDP 6,5% thì cái giá phải trả là gia tăng lạm phát và thặng dư mậu dịch, theo lời giám đốc Konishi.

Ảnh hưởng khủng hoảng

Nếu cho rằng yếu tố quốc tế là căn nguyên của các khó khăn kinh tế của Việt Nam, thì trận bão ấy cũng còn lâu mới hết. Giá thực phẩm và giá dầu thế giới giảm chỉ giúp lạm phát và giá tiêu dùng đỡ tăng nhanh như dự kiến, không chựng lại.
Ngược lại cơn khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ sẽ tác động mạnh đến các định chế kinh tế và nền thương mại của Việt Nam. Việt Nam dễ bị thiệt hại vì cần hợp đồng xuất khẩu sang Mỹ.

Các ngân hàng và tập đoàn công ty Nhà nước khó tìm vốn liếng và đối tác từ bên ngoài. Mức xuất khẩu và đầu tư nước ngoài yếu đi, giữa lúc đang tăng mạnh so với năm ngoái.
Các thị trường xuất khẩu truyền thống của Việt Nam đều bị trì trệ kinh tế hay lạm phát, như Mỹ, châu Âu, Phi-Líp-Pin, Indonesia, Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan.

Tổng quát, dường như các lãnh tụ đảng Cộng sản Việt Nam không muốn nhìn thẳng vào sự thật.

Họ vẫn cho các vấn đề là do từ bên ngoài, và sử dụng các biện pháp hành chính để bù vào những hao hụt thua lỗ. Họ muốn trở lại đà phát triển kinh tế cao mà không chịu nhìn nhận rằng tình trạng kinh tế trì trệ hiện nay chính là vì đà tăng trưởng quá nhanh.
Nhất là các cơ chế, hạ tầng cơ sở cũng như nhân lực đều kém khả năng để chuyển đà tăng trưởng nhanh thành ra tăng trửơng có phẩm chất.
Nền kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng hằng năm bình quân 7,5% trong thập niên qua. Bình quân GDP trên đầu người tăng từ 100 đô la năm 1990 lên tới 833 mỹ kim năm 2007. Tăng trưởng kinh tế và thành tích xoá đói giảm nghèo lại kèm thêm sự thành công về thu hút đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên tăng trưởng kỳ diệu là nhờ vào chính sách cương quyết chuyển sang kinh tế thị trường, chính sách đã chuyển đổi tận gốc một nền kinh tế khởi đi từ mức quá thấp.
Chính sách này đưa lao động nông thôn vào công nghiệp, thu hút đầu tư nước ngoài, và đầu tư mạnh vào kinh tế, tức là những “đầu vào” đem lại tăng trưởng.
Tăng trửơng kỳ diệu đã không đi đôi với tiến bộ về hiệu năng và sức sản xuất, màchỉ là kết quả của luồng vốn và sức lao động ở đầu vào.
Ở đầu ra, sức sản xuất công nghiệp đo lường bằng tỉ lệ giữa các yếu tố hiệu năng, vốn và lao động, đã giảm sút nặng nề. Điều này có nghĩa là Việt Nam không sử dụng hữu hịêu những tài nguyên hiếm quý, đã quản trị yếu kém làm gia tăng chi phí sản xuất, và giá lao động rẻ không đủ bù cho hiệu năng sản xuất quá thấp.

Vai trò của chính quyền?


Việt Nam vẫn còn có thể trở lại đà tăng trưởng mạnh như xưa, nếu giới lãnh đạo tạo được môi trừơng kinh tế xã hội và chính trị thuận lợi cho phát triển.
Hiện nay khu vực tư nhân tạo ra 90% công vịêc và 70% sản phẩm, nhưng khu vực quốc doanh được nhận lãnh phần lớn vốn liếng và tín dụng của Nhà nước. Một công ty quốc doanh chi phí gấp 8 lần công ty tư doanh để tạo ra 1 công việc.
Theo Ngân hàng Thế Giới tính toán, loại bỏ hệ thống quốc doanh thì có thể tiết kiệm được 30% chi phí chuyển vận và kỹ thuật.
Chỉ cần tạo sân chơi bằng phẳng, Việt Nam sẽ dễ dàng tạo thêm công ăn việc làm để thu hút lao động dư dôi và tăng sức sản xuất, tiến tới đà tăng trửơng 11% như Trung Quốc.
Nhưng chính phủ chỉ chịu đổi mới toàn diện chính sách kinh tế khi rơi vào khủng hoảng vì không chịu đổi mới.
Từ 1979 khủng hoảng đã là chất xúc tác khiến Việt Nam trên thực tế phải bỏ chính sách kinh tế xã hội chủ nghĩa cổ hủ, nhưng kinh tế vẫn có nhiều phần kém hịêu quả. Ngày nay khó có cơ hội lãnh đạo Đảng lại cho phép cởi mở chính trị để đối phó viễn ảnh khủng hoảng kinh tế.

Cần một chính sách mạnh tay

Chuyên gia Johnathan Pincus của Chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc tại Việt Nam cho rằng Việt Nam không thiếu người hiểu ra nguyên do bất ổn kinh tế hiện nay và phương cách chống lạm phát để hồi phục và ổn định thị trường. Nhưng họ lại không ở những vị trí để được quyền hành động.
Vì vậy, ông Pincus cho rằng chính lãnh đạo Đảng và chính phủ phải chịu trách nhiệm về tình hình kinh tế hiện nay.

Chương trình Việt Nam của đại học Harvard theo yêu cầu của Thủ tướng Dũng, đệ nạp một bản phân tích chiến lược kinh tế của Việt Nam. Bản phân tích kết luận rằng các định chế chính trị, hành chính, cả học thuật của Việt Nam đã bị những nhóm quyền lợi lũng đoạn để đem lại lợi riêng và bành trướng.
Các chuyên gia hàng đầu thế giới của Harvard quy trách, rằng mối đe doạ lớn nhất cho Nhà nước Việt Nam chính là sự bất cập của chính quyền ấy.
Văn bản của Harvard còn cảnh báo rằng hiện tượng lạm phát tại Việt Nam là do chính phủ gây ra, phần lớn là hậu quả của sự kém cỏi trong cách điều hành nền kinh tế vĩ mô, cùng với những quyết định đầu tư sai trái.
Để sửa chữa người ta cần tới một sự đồng tâm nhất trí mới để phát triển, để đổi mới. Đó không phải là chuyện dễ, khi Việt Nam còn chưa bị khủng hoảng kinh tế tệ hại và sự đồng tâm hồi năm 1986 đã không còn nữa.

Trong trường hợp tình hình suy sụp mãi, giả dụ Tổng bí thư Nông Đức Mạnh được giao cho nhiệm vụ làm lại từ đầu, thì ông Mạnh hẳn sẽ quay lại chính sách tiền tệ gọi là cơ bản hơn, theo đó thì lạm phát không phải là một hiện tượng tiền tệ, mà là vì đầu tư từ ngoài vào ồ ạt và tín dụng nội địa gia tăng mạnh mẽ.
Sự nhất trí về một chính sách như vậy tất nhiên sẽ giúp quốc gia độc đảng Việt Nam tiến mạnh trên con đường ấy, nhưng Việt Nam sẽ không thể nào đạt được hiệu quả kinh tế hay nền phát triển kinh tế vững bền.

(Việt Long lược dịch từ bài viết của Gíao sư Lê Sĩ Long đăng trên tạp chí Far Eastern Economic Review, số tháng 10-2008)

No comments: