Wednesday, November 20, 2019

NHẠC VÀNG KHO TÀNG ÂM NHẠC VIỆT NAM (Nguyễn Quang Duy, Melbourne, Úc Đại Lợi)




NỘI DUNG :

Nguyễn Quang Duy
.
Nhạc Việt: tác giả và thính giả
Trần Phố Hội

============================================


Nguyễn Quang Duy
November 20, 2019 at 5:53 PM

Miền Nam trước đây gọi nhạc vàng là tân nhạc để phân biệt với cổ nhạc. Sau chiến tranh, bên thắng cuộc mở “mặt trận” tấn công vào nền văn hóa miền Nam, cả tân nhạc lẫn cổ nhạc đều bị nghiêm cấm và bị hủy diệt.

Tân nhạc bị gán ghép là nhạc tâm lý chiến, nhạc phản động, nhạc xuyên tạc đường lối, chống phá cách mạng, hay bị xem là thứ nhạc sến, nhạc đồi trụy, nhạc ru ngủ, nhạc lãng mạn bi quan, nhạc vàng vọt.

Từ ngữ nhạc vàng xuất phát từ miền Bắc đã nhanh chóng được người miền Nam chấp nhận để phân biệt với nhạc đỏ là loại nhạc cộng sản.

Trong tâm tư người miền Nam màu vàng là màu da, màu dân tộc, màu mai vàng phương Nam, màu tươi trẻ, màu của kim loại quý hiếm vào bậc nhất. Bởi thế cờ vàng và nhạc vàng nhanh chóng được xem là báu vật của Việt Nam Cộng Hòa.

Vì yêu nhạc vàng…

Khi đất nước chia đôi, cách mạng văn hóa được phát động tại miền Bắc, nhạc vàng bị nghiêm ngặt cấm đoán. Nhạc đỏ với âm điệu Trung Hoa nhanh chóng thống trị nền âm nhạc miền Bắc, nhưng vẫn còn nhiều người yêu nhạc thường lén lút thưởng thức nhạc vàng.

Một vụ án văn nghệ liên quan đến ban nhạc 3 người bị tố cáo hát xen kẽ nhạc vàng trong những đám cưới và những cuộc liên hoan, được xử công khai tại Hà Nội vào tháng 1/1971.

Ông Phan Thắng Toán tự Toán Xồm bị kết án 15 năm tù giam và tước quyền công dân 5 năm. Ông Nguyễn Văn Đắc 12 năm tù và tước quyền công dân 5 năm. Ông Nguyễn Văn Lộc tự Lộc Vàng, 10 năm tù và tước quyền công dân 4 năm.

Thập niên 1980, khi họ ra tù, nhạc vàng đã khá phổ biến nhưng cả ba vẫn bị quản chế và gặp phải muôn vàn khó khăn.

Ông Toán Xồm không nhà sống lang thang đã qua đời trên hè phố Hà Nội vào đúng đêm 30/4/1994, tưởng niệm 19 năm miền Nam lọt vào tay cộng sản.
Ông Đắc mất năm 2005 trong nghèo khổ.
Ông Lộc Vàng sống bôn ba mãi đến gần đây mới mở một quán cà phê nhỏ ở Hà Nội lấy tên Lộc Vàng.

Văn nghệ tự do

Chủ trương của Việt Nam Cộng Hòa được ghi rõ trong cả 2 Hiến pháp 1956 và 1967 là xây dựng một xã hội dựa trên triết lý nhân bản, khai phóng và dân tộc.

Văn nghệ được tự do hoạt động nên chỉ trong vòng 20 năm đã có hàng chục ngàn bản tân nhạc đủ thể loại chính thức phát hành, trong số đó, có hàng trăm tác phẩm đã trở thành bất hủ.

Đa số nhạc miền Nam đều chan chứa tình người, tình yêu quê hương, yêu đất nước, nỗi mong muốn thanh bình trở lại.

Tân nhạc được chia thành dòng nhạc tiền chiến, nhạc đại chúng, nhạc trẻ, nhạc du ca và nhạc phản chiến.

Còn được phân loại thành nhạc lính, nhạc tình, nhạc kích động, nhạc khiêu vũ, nhạc dân ca, nhạc sắc tộc, nhạc ngoại quốc lời Việt, nhạc chiêu hồi, nhạc chính huấn, nhạc đạo, nhạc thiếu nhi, nhạc hướng đạo, nhạc sinh hoạt…

Người miền Nam trân quý tác giả nên trân trọng đặt tên cho dòng nhạc Lam Phương, nhạc Phạm Duy, nhạc Trần Thiện Thanh, nhạc Hoàng Thi Thơ, nhạc Anh Bằng…

Trước khi hát một bản nhạc, người điều khiển chương trình hay ca sỹ thường giới thiệu tên tác giả và hoàn cảnh tác phẩm được sáng tác.

Việc giới thiệu tác giả và tác phẩm đã trở thành một phần của nền văn hóa Việt Nam Cộng Hòa.

Mỗi tác giả mỗi khác, mỗi bài nhạc mỗi khác, mỗi ca sỹ trình diễn mỗi khác, biểu hiện sự phong phú và đa dạng của âm nhạc miền Nam.

Ở miền Nam nhà nào cũng có radio, nhiều nhà có tivi, có dĩa hát, có máy thu thanh cassette… không có thì nghe ké nhà hàng xóm.

Nhiều ca sỹ, nhiều ban nhạc, nhiều hãng băng dĩa cassette cạnh tranh phục vụ đại chúng.

Từ tờ mờ sáng nhạc vang vọng khắp nơi, đến tối mịt mù, đôi khi vẫn nghe tiếng nhạc dập dình.

Những bản nhạc bolero, rumba, chachacha, tango dễ nhớ, dễ hát và dễ đi vào lòng người.

Người miền Nam hát bất cứ lúc nào có thể hát được. Đám cưới, đám hỏi hát hò, đến cả ngày giỗ đám ma cũng tụm năm tụm bẩy hát cho nhau nghe.

Họ hát từ tiền đồn heo hút, hát trong nhà thờ, trong chùa ra đến góc đường, góc chợ, quán ăn, hát cho nhau nghe và cho chính mình nghe.

Họ quan niệm hát hay không bằng hay hát, họ đồng cảm và đồng sáng tác bằng cách chế lời đổi nhịp điệu bài hát.

Máu văn nghệ chìm đắm trong tim óc người miền Nam, trở thành nếp sống, nếp văn hóa Việt Nam Cộng Hòa.

Trong tù “cải tạo”, nhạc miền Nam bị cấm, ai hát bị biệt giam đến chết, các tù nhân vẫn hát, hát cho nhau nghe, hát để gìn giữ báu vật Việt Nam Cộng Hòa.

Nhạc vàng Bắc Tiến

Những ngày đầu 30/4/1975, không ít người miền Nam ngạc nhiên khi nghe bộ đội Bắc Việt hát những bài viết về người lính miền Nam như Rừng Lá Thấp của Trần Thiện Thanh hay Xuân Này Con Không Về của Trịnh Lâm Ngân.

Khác chiến tuyến nhưng họ hát với tấm lòng của người lính xa nhà mong muốn chiến tranh chấm dứt để về lại quê hương.

Về miền Bắc, trong ba lô người bộ đội, chiếc cassette nhỏ và chục băng nhạc làm quà. Làng trên xóm dưới bắt đầu biết đến nhạc miền Nam.

Còn ở miền Nam, các đội cờ đỏ truy lùng nhạc chế độ cũ. Người yêu nhạc bị mang ra khu phố đấu tố, nhiều thanh niên bị cưỡng bức đi Thanh Niên Xung Phong, có người còn bị bắt đi cải tạo chỉ vì lén lút chơi nhạc vàng.

Đầu năm 1979, chiến lợi phẩm của bộ đội miền Bắc là những kho cassette và băng nhạc trên đất Campuchia, nhạc vàng lại một lần nữa tràn ngập miền Bắc.

Rồi những radio cassette, những cuộn băng nhạc hải ngoại được chuyển ra miền Bắc, tiếp tục sự nghiệp Bắc tiến của nhạc vàng.

Khi ấy Hà Nội đã chuyển hầu hết công an và cán bộ tuyên giáo vào Nam nên nhạc vàng công khai cạnh tranh với loa phường và các đài chính thống.

Nhạc vàng trở thành món ăn tinh thần cho người dân miền Bắc, nhất là những người sống ở thành thị.

Nhạc vàng theo chân người Việt “xuất khẩu lao động” sang tận Liên Xô và Đông Âu. Ở đâu có người Việt ở đó có nhạc Việt Nam Cộng Hòa.

Ở miền Nam, sau những cuộc truy quét, nhạc vàng bắt đầu sống dậy. Nhiều ca sỹ lén lút thu thanh, nhiều quán cà phê hát nhạc vàng, nhiều đoàn hát “chui” về tận miền quê trình diễn.

Ngược lại, số người nghe nhạc đỏ giảm sút rất nhiều, nhất là với những người trẻ muốn quên đi chiến tranh và cách mạng.

Đến năm 1986, Hà Nội phải chính thức công nhận nhạc vàng, một danh mục gồm 36 tác phẩm âm nhạc của miền Nam được công khai trình diễn. Nhiều chương trình văn nghệ nhạc vàng được công khai tổ chức.

Ở hải ngoại các nhạc sỹ tiếp tục sáng tác tạo ra dòng nhạc vàng hải ngoại. Đến thập niên 1990, băng video Paris By Night, ASIA, Vân Sơn,… từ hải ngoại gởi về được bà con trong nước nhiệt tình ủng hộ.

Nghị quyết 36 ra đời, Hà Nội chính thức chỉ đạo phục vụ văn nghệ “đồng bào” hải ngoại. Nhạc vàng được Hà Nội chính thức nuôi dưỡng. Nhiều ca sỹ nhạc vàng được Hà Nội cung cấp tiền và phương tiện ra hải ngoại trình diễn. Hà Nội còn chấp nhận một số ca sỹ hải ngoại về nước hát.

Các nhạc sỹ đỏ bị “vắt chanh bỏ vỏ”, nhạc đỏ bị bỏ xó không ai màng tới, đến đài phát thanh, đài truyền hình Hà Nội cũng phát nhạc vàng.

Nhạc Việt Nam Cộng Hòa sống dậy

Bước sang thời đại Youtube và Facebook, chỉ cần chiếc máy tính, chiếc điện thoại cầm tay, mọi người có thể dễ dàng thưởng thức kho tàng âm nhạc Việt Nam Cộng Hòa.

Nhiều bạn trẻ mặc đồ lính Việt Nam Cộng Hòa hát nhạc vàng thu hút hằng triệu người xem.

Nhạc vàng không chỉ giúp giới trẻ tìm hiểu lịch sử Việt Nam Cộng Hòa, một số bạn trẻ dùng lời ca tiếng hát làm phương tiện đấu tranh với mong ước phục hồi thể chế tự do.

Nhạc vàng còn được sử dụng để phản kháng làn sóng nhạc Hàn, nhạc Mỹ, nhạc Trung… giữ gìn tình tự dân tộc và văn hóa Việt Nam.

Nhạc vàng được hát khắp nơi từ miền núi xa xăm phương Bắc xuống Cà Mau tận cuối miền Nam và mọi nơi trên thế giới.

Nhạc vàng đã bị “chôn” nhưng vẫn sống, ngày càng sống mạnh. 44 năm qua, nhiều thế hệ tiếp nối vẫn yêu quý nhạc miền Nam, tìm ra sự thật lịch sử và hướng về một ngày đất nước có tự do.

Trong vòng 20 năm Việt Nam Cộng Hòa xây dựng thành công một kho tàng văn hóa dựa trên triết lý nhân bản, khai phóng và dân tộc.

Kho tàng  

-------------------------------

XEM THÊM


Nhạc Việt: tác giả và thính giả
Trần Phố Hội

Một nhạc phẩm có giá trị hay không là do sự đón nhận của thính giả, càng được nhiều thính giả thích nghe, thích hát thì nhạc phẩm càng có giá trị. Có nhiều nhạc phẩm được chính tác giả hài lòng nhưng sau khi phổ biến lại không được người nghe đón nhận và sau đó mai một với thời gian, ngược lại có những nhạc phẩm trước khi phát hành thì tác giả lo lắng nhưng sau khi phổ biến thì được công chúng đón nhận nồng nhiệt, vị dụ như nhạc phẩm “Chuyện Tình Lan Và Điệp” của Mạc Phong Linh và Mai Thiết Lĩnh (Lê Dinh, Minh Kỳ và Anh Bằng). Điều này cho thấy ảnh hưởng của thính giả trong âm nhạc cũng rất quan trọng, thính giả có thể giúp làm cho âm nhạc Việt Nam hoàn hảo hơn, nâng cao giá trị của tác phẩm và tác giả, hay ngược lại; và như vậy thì trách nhiệm của thính giả cũng nặng nề lắm.

Đây không phải là một bài bình luận hay phân tích về âm nhạc mà chỉ là một chia xẻ về vai trò của thính giả trong âm nhạc để rồi tìm cách làm cho nền âm nhạc Việt Nam được trong sáng hơn.

Thời còn ở bậc Trung học tôi thường nghe nhạc khi học bài; mấy người lớn hay la rầy tôi về chuyện này, họ bảo vừa học bài vừa nghe nhạc thì học sao cho “vô”. Tôi biết vì muốn tôi nên người nên họ mới la rầy tôi như thế, và tôi cũng đồng ý với họ nhưng vẫn không bỏ được thói quen đó. Có lẽ thời ấy tôi nghe nhạc mà không để ý mấy đến lời ca, chỉ nghe âm điệu cho êm tai và tránh những tiếng động hay sự ồn ào khác.

Khi làm việc ở Việt Nam trước 75 thì tôi thường nghe nhạc vào buổi tối, trước khi đi ngủ.. Lời ca, tiếng nhạc đã đem lại cho tôi sự êm đềm, thanh thản; giúp tôi thấy thoải mái trước khi rơi vào giấc ngủ. Thời gian này tôi nghe nhạc “kỹ” hơn, nhất là lời ca. Tôi say mê những lời ca trong nhiều bài hát đã diễn tả thật trung thực quê hương nghèo khổ của tôi như “Quê hương anh nước mặn đồng chua, Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá... Áo anh rách vai, quần tôi có hai miếng vá, Miệng còn cười buốt giá chân không giày... (bài Tình Nước của Vũ Hòa Thanh)”, hay “Quê hương tôi có con sông đào ngây ngất, Lúc tan chợ chiều xa tắp, Bóng nâu trên đường bước dồn, Lửa bếp nồng, vòm tre non, làn khói ấm hương thôn!.. (bài Tình Hoài Hương của Phạm Duy)”. Tôi yêu mến những lời ca mộc mạc, chân thật như vậy, và khi nghe những lời ca đó tôi có cảm tưởng như đang nghe về chính mình.

Mỗi khi nghe một bản nhạc hay tôi mong muốn được biết tác giả, nhất là muốn biết tác giả sáng tác bản nhạc đó trong trường hợp nào, muốn biết nguồn cảm hứng nào đã giúp tác giả có được lời ca, điệu nhạc tuyệt vời khi sáng tác nhạc phẩm đó. Sau này nhờ có nhiều chương trình ca nhạc với chủ đề “Tác phẩm và Tác giả” nên tôi được biết về cuộc đời của nhiều nhạc sĩ cũng như cơ duyên đưa đến sự ra đời của nhiều nhạc phẩm hay, từ đó mỗi khi nghe nhạc tôi luôn luôn chú tâm đến 3 yếu tố: lời ca, giai điệu và tác giả.

Nếu lời ca và giai điệu ảnh hưởng đến giá trị một bản nhạc thì tác giả cũng có ảnh hưởng không kém, có khi còn quan trọng hơn vì không có tác giả thì làm gì có nhạc phẩm. Khi nghe một bản nhạc hay mà biết được nguồn gốc của bản nhạc, biết được tác giả là ai, đã sáng tác trong hoàn cảnh nào, v.v... thì cảm nhận được nhiều hơn và thấy hay hơn. Thật ra một nhạc phẩm tự nó chỉ là một vật vô tri vô giác, giá trị của nó tùy vào sự đón nhận của thính giả là chính. Một bản nhạc được nhiều người ưa thích thì có giá trị cao, bị nhiều người chê thì chẳng có giá trị gì. Một bản nhạc dù được tác giả hài lòng không hẳn là một bản nhạc hay nếu không được đa số thính giả đón nhận.

Miền Nam chúng ta có một kho tàng âm nhạc vừa to lớn vừa có giá trị cao quý, với mấy ngàn nhạc phẩm và rất nhiều nhạc sĩ tài ba. Đa số những nhạc sĩ ở miền Nam là những người có tư cách, có thiên tài, có lòng nhân ái, yêu đồng bào, yêu quê hương. Những tác phẩm của họ nói lên tình yêu thương giữa người và người, giữa người và quê hương, thể hiện những vui buồn trong cuộc sống và chia lìa, tang tóc của cuộc chiến.

Nói đến những nhạc sĩ tài danh ở miền Nam trước 75 thì nhiều lắm nên tôi không dám nêu danh ở đây vì sợ không ghi đủ tất cả quý vị đó, trong bài viết ngắn gọn này tôi chỉ nói đến hai nhạc sĩ đã gây tranh luận khá nhiều trong chúng ta.

Khi mới chín tuổi tôi đã nghe nhạc Phạm Duy (PD) và yêu thích nhạc của ông vô cùng. Những bài ông viết về quê hương, đất nước, về những người dân quê nghèo khổ tôi thấy trong đó có làng tôi, có những nông dân chung quanh tôi vả cả tôi nữa. Tôi say mê nhạc PD từ nhỏ, khi còn trong nước cho đến lúc ra hải ngoại.

PD từng tham gia Kháng chiến chống Pháp một thời gian, sau đó ông rời chiến khu rồi vào miền Nam để tiếp tục tự do sáng tác nhạc. PD là tên tuổi lớn và đầy ảnh hưởng tại miền Nam Việt Nam với những hoạt động tích cực dành cho cả âm nhạc và chính trị. Vì lý do chính trị, nhạc của ông bị cấm hoàn toàn tại miền Bắc Việt Nam sau 1954, và toàn Việt Nam sau 1975. PD có trên một ngàn bài hát (1), nhiều bài rất hay và nổi tiếng.

Cũng giống như nhiều người cùng trang lứa với tôi, trước 1975 tôi thích nhiều nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn (TCS), có lẽ phần lớn do ảnh hưởng của xã hội, của bạn bè thời đó, phong trào nghe nhạc TCS nổi lên trong giới sinh viên học sinh làm tôi bị lôi cuốn theo. Sau này suy nghĩ về hiện tượng TCS tôi tự hỏi có phải phong trào nghe nhạc TCS là do sinh viên học sinh thực sự say mê nhạc của ông hay đây là kết quả của một chiến dịch tuyên truyền đại quy mô của CS miền Bắc nhằm dựng lên một thần tượng âm nhạc cho “Cách Mạng” như họ biến hóa một kẻ khủng bố thành thần tượng chiến đấu như “anh hùng  Nguyễn văn Trỗi”,  và nếu TCS không theo VC thì liệu ông có được nổi tiếng như vậy không? Cũng nên nhắc lại rằng miền Nam VN thời đó có “Phong Trào Phản Chiến”, gọi là “phản chiến” cho có vẻ yêu chuộng hòa bình nhưng thực ra họ chỉ chống đối chính phủ VNCH là bên tự vệ mà không hề phản đối CS miền Bắc là bên gây chiến, và thành phần hoạt động đắc lực cho phong trào này là giới sinh viên học sinh. Nhạc TCS tuy nổi tiếng trong giới sinh viên học sinh, nơi Phong Trào Phản Chiến hoạt động hữu hiệu nhất, nhưng không phổ biến trong giới bình dân như nhạc của Trúc Phương, Minh Kỳ, Lam Phương, Nhật Ngân, Nhật Trường, Anh Bằng v.v...

Như chúng ta biết TCS tuy sinh ra ở Đắc Lắc nhưng lớn lên ở Huế và theo học trường Lycée Français, rồi vào Sài Gòn học ở Jean-Jacques Rousseau, và sau cùng học Sư Phạm Qui Nhơn; TCS không nghèo nàn khổ cực như bao người khác cùng lứa tuổi với ông.

Trước 75 TCS dạy học ở Bảo Lộc, Lâm Đồng nhưng hay có mặt ở Sài Gòn. Ông sống ung dung, hưởng mọi đặc ân của Miền Nam nhờ sự che chở và bao dung của Lưu Kim Cương và Đặng Tuyết Mai (vợ Nguyễn Cao Kỳ) trong khi ấy bạn bè ông phải dấn thân vào cuộc chiến khốc liệt để bảo vệ Miền Nam. Được một cuộc sống như vậy đáng lẽ TCS phải biết ơn miền Nam, biết ơn những người đã che chở cho ông thì ngược lại TCS âm thầm theo VC, phản lại chính những ân nhân của mình, điều này minh chứng rằng TCS là người không tốt, là kẻ phản phúc, vong ân bội nghĩa, nói theo ngôn ngữ bình dân là “ăn cháo đá bát”, y hệch như Hồ chí Minh đối với bà Nguyễn Thị Năm (bà Năm là ân nhân lớn của Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Lê Thanh Nghị, v.v..., và là người bị xử bắn đầu tiên trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất-CCRĐ).

TCS là người có học thức mà không hiểu được sự tàn ác của CS Nga thời Stalin, của CS Tàu thời Mao Trạch Đông, không hiểu được những tội ác tày trời của Hồ chí Minh qua việc cộng tác với thực dân Pháp để giết những người Quốc Gia yêu nước, qua việc ngăn chận và giết hại những người miền Bắc muốn di cư vào Nam năm 1954, qua cuộc CCRĐ sau khi đất nước bị chia đôi. Chuyện Nga đem quân sang chiếm Hung Gia Lợi (Hungary) năm 1956 để dập tắt cuộc Cách Mạng ở đó, chuyện Nga đàn áp đẫm máu cuộc nổi dậy của nhân dân Tiệp (Czechoslovakia) năm 1968, chuyện cách mạng văn hóa ở Tàu cộng năm 1966, vụ thảm sát Mậu Thân ở Huế năm 1968, và bao nhiêu chuyện khác nữa cũng không làm cho TCS thấy CS là độc tài, tàn ác. Tất cả những điều này cho thấy TCS là người thầy giáo yếu kém, kiến thức nông cạn, thiếu hiểu biết về chính trị và lịch sử.

Sau khi nghe TCS lên đài phát thanh Sài Gòn ngày 30/4/75 kêu gọi ở lại xây dựng đất nước và lên án những người ra đi tìm tự do thì tôi không còn cảm nhận những bản nhạc hay của TCS như trước nữa, tuy nhiên khi ấy tôi cũng chưa từ bỏ nhạc của TCS. Tôi hy vọng ông sẽ nhận ra sự sai lầm của mình sau khi sống với VC.

Khoảng giữa thập niên 1980 TCS sang Montreal, Canada và TCS đến xin hát ở chùa Quan Âm, chùa cho hát với điều kiện TCS ở lại tị nạn. TCS không chịu điều kiện đó và đã trở về VN sau khi thăm gia đình ở Montreal. Sống với VC cả chục năm hẳn TCS đã thấy rõ những xấu xa của chế độ, thấy những thối tha của đám người cầm quyền, vậy mà khi có cơ hội từ bỏ những thứ xấu xa ấy thì ông lại chọn bám lấy chúng! Bao nhiêu người Việt liều chết ra đi tìm tự do còn TCS đến được bến bờ tự do an toàn và có đầy đủ điều kiện thuận lợi để ờ lại Canada tị nạn CS, thế mà ông lại trở về VN, vì sợ VC? vì vẫn theo VC? hay vì tiếc chút bổng lộc của VC? Sự kiện này làm tôi thấy TCS quá yếu hèn, không có một chút tư cách của người bình thường nói chi đến nghĩa khí của một nhà mô phạm, từ đó tôi đánh giá con người ông rất thấp và tôi không muốn nghe nhạc của ông nữa.

Năm 2005, khi đã 84 tuổi, PD trờ về VN để sinh sống thì tôi không còn hứng thú gì khi nghe nhạc của ông, tuy nhiên tôi chưa từ bỏ nhạc PD vì nhiều lý do. Trước 75 và trong thời gian sống bên Hoa Kỳ thì theo tôi biết PD không theo VC, không làm tay sai cho VC. Ông không lên án những người bỏ nước ra đi tị nạn sau 75. Trong chiến tranh PD không phản bội miền Nam, không phải bội bạn bè. Nhiều người trong chúng ta đã lên án PD khi ông trở về VN, theo tôi thì lên án ông không có gì sai. Một số người rộng lượng khi nói đến chuyện PD về VN thì thở dài mà bảo rằng “trách chi cái ông già lẩm cẩm đó”.

Đối với một thầy giáo thì đạo lý là điều quan trọng, chẳng những người thầy phải biết quý trọng đạo lý mà còn phải làm gương cho học trò, thế mà TCS đã làm những chuyện phản lại đạo lý khi ông phản bội ân nhân của ông. Nếu TCS thực tình tin vào chủ nghĩa Cộng sản và vào bưng để chống lại Miền Nam thì người ta còn thấy ông có chút bản lãnh của một trí thức, đàng này ông sống dưới sự bao che của bạn bè, ân nhân rồi âm thầm phản bội họ, đó là điều vô lương tâm, vô đạo đức. Một người như vậy mà nhạc của ông vẫn được các trung tâm băng nhạc ở hải ngoại dùng trong các đại nhạc hội, được giới thiệu một cách trang trọng, được người nghe vỗ tay tán thưởng thì PD thấy chuyện trở về VN của ông sẽ không làm tổn hại đến những nhạc phẩm của ông, đến tên tuổi của ông, đến sự nghiệp âm nhạc của ông. Chính chúng ta đã gửi cho PD thông điệp sau đây “nhạc của ông quá hay thì ông muốn làm gì cũng chẳng sao”.

Những điều tôi nói về hai nhạc sĩ PD và TCS trên đây là nói về con người, nói về nhân cách, nói về đức độ. Một xã hội chỉ có thể phát triển, thăng tiến, thanh bình, thịnh trị khi kẻ cầm quyền và người dân có nhân cách, biết phải biết trái, ơn đền nghĩa trả, quý trọng đạo lý, v.v... Người có tài và có đức thường giúp cho xã hội an bình thịnh vượng nên đáng được quý trọng, trái lại người có tài mà thiếu đức thì thường làm cho xã hội băng hoại, đổ nát. Giá trị đích thực nhất của con người là tư cách, thứ đến mới là tài năng.

Không phải ai có tài cũng đáng được quý trọng, tôn thờ như thần tượng; nhìn vào Hollywood thì chúng ta thấy đa số tài danh ở đó thay vợ đổi chồng như thay áo, tự cao tự đại, những vấn đề không hiểu biết thấu đáo cũng lên tiếng răn dạy người khác. Một Jane Fonda đã quá đủ cho người Việt chúng ta thấy cái tai họa của người có tài. Những người tài danh ở Hollywood đã đóng góp được gì cho xã hội? Phải chăng họ đã cho chúng ta những giây phút giải trí với cái giá cắt cổ vì chính họ đã làm tăng giá nhiều mặt hàng qua tiền quảng cáo. 

Thử tưởng tượng trong một Đại Nhạc Hội lớn ở Little Saigon có hơn ba ngàn khán giả, Việt Khang vừa kết thúc nhạc phẩm “Một Mai Giả Từ Vũ Khí” của Nhật Ngân, khán giả đứng dậy vỗ tay vang dội cả hội trường, khi tiếng vỗ tay bớt dần thì MC trịnh trọng bước ra giới thiệu “Thưa quý vị, tiếp theo đây là một nhạc phẩm rất nổi tiếng ở miền Nam trước 75, bài hát mang tựa đề Ướt Mi của TCS. Như quý vị đã biết TCS là một nhạc sĩ đa tài với nhiều tình khúc tuyệt vời, với những bài ca về cuộc chiến đã làm nên hiện tượng TCS, trong âm nhạc ông là một nhạc sĩ nổi tiếng nhưng ngoài đời ông là một kẻ phản phúc, một nhà giáo thiếu kiến thức về lịch sử, và một kẻ hèn nhát...”, nếu là khán giả của Đại Nhạc Hội đó quý vị sẽ phản ứng ra sao? Vỗ tay hoan hô? Đứng dậy đi làm “thủ tục hành chánh buổi sáng”? Nếu quý vị la ó phản đối vì cho rằng MC nói bậy bạ thì quý vị đã làm một chuyện không đúng; trong trường hợp này MC đã nói đúng và nói thật, một sự thật mà quý vị chưa quen nghe hay không muốn nghe.

Nếu chúng ta, những người nghe nhạc, thẳng thắn bày tỏ cảm nghĩ của mình về nhạc sĩ, về những chuyện khả ố của họ, thì những nhạc sĩ có tư cách sẽ cố gắng giữ tư cách, những nhạc sĩ thiếu tư cách sẽ cố gắng sửa đổi để trở thành người tốt hầu được thính giả yêu mến và quý trọng, và sẽ giúp những nhạc sĩ khác khi đến tuổi xế chiều không nịnh bợ VC như trường hợp sau đây.

Tháng 6/2018, Vũ Đức Sao Biển viết bài đăng trên báo Người Lao Động ngày 17/6/2018 có tựa đề “Để ngày cuối tuần hạnh phúc” trong đó có các đoạn như sau:

“Mấy ngày vừa qua, đã có hiện tượng một số anh em công nhân  bị rủ rê, lôi kéo vào chỗ tụ tập đông người; thậm chí ngừng việc hàng loạt khiến hoạt động của xí nghiệp, công ty bị ngưng trệ. Hiện tượng đáng tiếc ấy đã được tổ chức Công đoàn các cấp kịp thời phân tích, uốn nắn, ổn định tình hình.”

“Phải nói rằng trong suốt lịch sử dân tộc thì chỉ có thời đại chúng ta đang sống, người Việt Nam mới có được cuộc sống no đủ, an vui đến như vậy”

“Hãy sống và tuân thủ pháp luật. Hãy tận dụng ngày cuối tuần, biến nó thành ngày hạnh phúc quý giá, đầm ấm với gia đình, vợ con. Hãy nấu một bữa ăn ngon và nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí cùng gia đình, phục hồi sức lực để tiếp tục làm việc tuần tới.” (2), (3)

Giặc Tàu phương Bắc đang xâm lăng quê hương, chính quyền thì bán nước, công nhân yêu nước xuống đường biểu tình chống ngoại xâm, trong tình cảnh đó VĐSB (một thầy giáo, một nhà mô phạm) lại kêu gọi những người biểu tình hãy ở nhà “nấu một bữa ăn ngon và nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí cùng gia đình”

Sau khi đọc bài này tôi không muốn nghe nhạc của ông nữa.

Tuy không hài lòng khi thấy các trung tâm băng nhạc hay những đại nhạc hội vẫn còn dùng nhạc TCS nhưng có một điều đáng khích lệ là cho đến nay chưa có một chương trình ca nhạc tưởng niệm TCS ở hải ngoại (theo tôi biết và hy vọng như vậy). Tại sao thế? Phải chăng họ cũng biết rằng TCS không xứng đáng để được vinh danh.       

Nếu chúng ta, người Việt tị nạn CS ở hải ngoại, đã kềm chế không tổ chức chương trình ca nhạc tưởng niệm TCS vì ông không xứng đáng thì nên cố gắng tiến thêm một bước là không nghe nhạc của ông nữa. Trong phạm vi riêng tư của một gia đình hay một buổi họp bạn của một nhóm nhỏ thì chuyện hát nhạc TCS không thành vấn đề nhưng không nên dùng nhạc của ông trong các chương trình văn nghệ Cộng Đồng, nhất là những chương trình có chủ đề nhằm hổ trợ cho sinh hoạt đem lại tự do, dân chủ cho VN.

Chuyện PD trở về VN để kiếm tiền khi đã 84 tuổi thì thật đáng bị chê; còn chuyện của ông thầy giáo kiêm nhạc sĩ TCS vong ân bội nghĩa, đã đến bến bờ tự do mà lại quay về VN để hưởng bổng lộc của VC thì thật đáng coi thường hay khinh miệt. 

Kho tàng âm nhạc ở miền Nam trước 1975 đã quá phong phú, nay cộng thêm những tác phẩm ở hải ngoại sau 1975 viết về niềm đau của quê hương và cuộc đời tị nạn thì chúng ta có quá nhiều nhạc phẩm hay để thưởng thức; nếu bỏ đi nhạc TCS hay những bài hát của một số nhạc sĩ thiếu tư cách khác thì chúng ta vẫn còn rất nhiều những tác phẩm hay và có giá trị mà khi thưởng thức chúng ta hài lòng trọn vẹn vì cả ba yếu tố lời ca, giai điệu và tác giả đều có giá trị.

Thính giả có trách nhiệm rất lớn trong việc làm cho nền âm nhạc Việt Nam trong sáng bằng cách đối xử với tác giả một cách trung thực, khen khi họ có nhân cách, đức độ; và chê khi họ không có tư cách và làm những chuyện thiếu liêm sĩ.

Trần Phố Hội
Mùa Xuân 2019





No comments: