Friday, January 18, 2019

HỒI KÝ của NHÀ GIÁO NGUYỄN THƯỢNG LONG




HỒI KÝ của NHÀ GIÁO NGUYỄN THƯỢNG LONG



…Nhìn tôi tập tễnh bước thấp, bước cao vì cái khớp ngón chân bị Gout sưng đỏ, Viên Thượng Tá an ninh ái ngại: Ông bị Gout nặng mà ngày ngày ông cứ đều đặn 2 bữa Bia Hơi, như thế thì nguy lắm. Tôi bảo: Từ ngày giã từ bục giảng, tôi thấy sức khoẻ tôi sa sút nhanh quá. Trong khi tôi rất dị ứng với câu nói “Hãy sống chung với lũ!”… thì cái không khí lãng đãng khi bước chân vào cái không gian “Gần Mực là Bia Hơi!” có sức hấp dẫn tôi đến là kì lạ. Nhiều ý tưởng, nhiều bài viết của tôi đã chợt loé lên trong cái không gian đặc biệt đó đấy ông ạ. Viên đội trưởng chỉ ừ hữ và không tỏ ra tán thưởng hay phản đối tôi về cái thói quen Bia Bọt của tôi, ông ân cần hỏi han lần tôi trở về quê nhà chịu tang người anh trưởng tộc vừa qua đời. Tôi bầy tỏ sự ưu tư khi câu “Nghĩa tử là nghĩa tận” vẫn được những người đã bắt giữ tôi tôn trọng.

Tôi buồn bã nói với viên Thượng Tá: Tôi sẽ có tội và sẽ hối hận suốt đời nếu ngày hôm qua vợ chồng tôi không được về chịu tang anh tôi. Anh tôi là đích tôn của ông nội tôi, cụ Chánh Cố, nguyên Bắc Kỳ Nhân Dân Đại Biểu, người nổi tiếng một thời vì tư tưởng bài Pháp và thương dân nghèo. Anh tôi lìa xa thế gian này ở tuổi 93, anh tôi là một trong những trang lứa giác ngộ cộng sản rất sớm ở vùng bãi bờ Sông Đáy Mĩ Đức Hà Tây. Với 93 tuổi đời và ngót 70 tuổi Đảng, anh tôi đã kinh qua các cương vị lãnh đạo Đảng, Chính Quyền vùng Sêu - Đặng suốt từ những ngày Tổ Đổi Công đến thời Hợp Tác Xã Nông Nghiệp bậc cao bậc thấp… Anh tôi là một chứng nhân, là người chứng kiến và nếm trải đủ cay đắng và ngọt bùi của kỷ nguyên mới trên quê hương tôi trong ngót một thế kỷ đã trôi qua. Không rõ vì lý do gì mà trong Cải Cách Ruộng Đất từ vị trí một Đảng Viên của Đảng Cộng Sản Việt Nam, anh tôi bị lôi ra đấu tố là một phần tử Quốc Dân Đảng, bị giam giữ nhiều tháng, bị lăng nhục đến ê chề… Nếu lệnh sửa sai của Hồ Chí Minh về muộn vài ngày, anh tôi chắc đã nằm trong số % mà các cố vấn Trung Quốc chỉ đạo là phải gạt ra khỏi đời sống xã hội sau một phiên toà của Bần Cố Nông trong Cải Cách Ruộng Đất. Chiều hôm qua, vợ chồng tôi là những người cuối cùng rời khỏi nghĩa trang dòng họ, bên nấm mộ mới đắp, vợ tôi tấm tức khóc cho những đắng cay mà anh tôi đã nếm trải hay là khóc cho những gì mà tôi cũng đang nếm trải.

Thấy tôi như vẫn chưa qua hết những bi lụy vì một tang gia…, viên Thượng Tá khéo léo: Tôi nghĩ rằng ở tuổi 93, ông cụ đã có một cuộc vỗ cánh về với Thiên Thu thật xúc động. Ngày hôm trước là một ngày nắng lửa, ngày ông về chịu tang đất trời trở về dịu mát như trời thu. Tôi bảo: Nếu ngày hôm qua mà vẫn cứ 40 độ, chắc là tôi cũng “THẤY BÓNG THIÊN ĐƯƠNG” mất rồi… Ơn Trời điều đó đã chưa xảy ra.

***

Viên Thượng Tá An ninh chính trị quả là người có biệt tài định hướng các cuộc làm việc, chẳng mấy chốc ông ta đã lái cuộc thẩm vấn vào những bài viết thật cụ thể, những tác giả rất cụ thể. Tôi thật sự bất ngờ khi đã là buổi làm việc thứ 9 rồi mà lại quay về với bài thơ “Rừng Ơi” của nhà thơ Bảo Quốc và về tác giả Dân Ngôn với bài thơ “Trường ca sân gôn” (TQ 89). Tôi cứ tưởng những vấn đề này đã dứt điểm được từ những lần làm việc trước với một nữ điều tra viên rất trẻ có gương mặt dịu dàng như một cô giáo và một nam điều tra viên luống tuổi có dáng dấp như Giáo Thứ trong Sống mòn của Nam Cao. Trước sự phê phán rất quyết liệt của viên thượng tá về câu Bảo Quốc viết: “Năm 60 Đảng bảo phá rừng/ Lấy gỗ về dựng xây đất nước...”, theo Viên Thượng Tá viết thế là không được, là vu khống cho Đảng CSVN. Một lần nữa tôi khẳng định năm 1960 lúc đó tôi đã 13 – 14 tuổi rồi, tôi cổ quàng khăn đỏ đã đứng trước toàn trường nghêu ngao hát “Bài ca người thợ rừng” (Ai bảo rừng xanh là quái ác…). Ca khúc đó được giải nhất trong cuộc thi sáng tác bài hát về thi đua khai thác rừng năm đó. Những người thuộc trang lứa 60 – 70 …chưa ai quên những ngày tháng người ta coi khai phá được nhiều rừng để lấy gỗ, lấy đất canh tác… là làm giầu cho đất nước, là lập thành tích để báo cáo lên cấp trên. Thử hỏi, nếu không có chủ trương của Đảng thì làm sao lại có những cuộc thi đua phá rừng như thế! Thi đua sáng tác bài hát về khai thác rừng như thế! Đảng lãnh đạo toàn diện, đảng là đỉnh cao trí tuệ kia mà!.

Vì quá thấm đòn việc ngày ngày tôi phải đi đi lại lại làm việc với cơ quan an ninh dưới trời nắng nóng liên tục 40 độ C tôi suýt nổi quạu, may quá tôi vẫn giữ được giọng từ tốn: “Nếu để bảo vệ được rừng thượng nguồn, nếu giữ được môi trường sinh thái cho tất cả mọi người, cho muôn đời con cháu thì hôm nay tôi có phải “Dựa Cột” tôi cũng cam lòng”.

Về điều gọi là mối quan hệ của tôi với tác giả Dân Ngôn, trước sau tôi vẫn nói: Tôi chỉ gặp anh Dân Ngôn đúng có một lần tại Nhà Hàng Đức Tín Hà Đông cùng vài anh bạn Giáo Dục. Tôi rất tôn trọng Thượng Tá Dân Ngôn khi anh là một con người thi ca, lúc khác anh là một con người công dân khi anh sống với những bức xúc đời thường và trước sau tôi luôn khẳng định: Bài “Việc này có nên” của anh đăng trên TQ từ 2008 là một bài báo hay, một tiếng nói rất dũng cảm. Sau khi tác giả Dân Ngôn kiên trì gõ cửa 7 toà báo Lề Phải trong nước, không một tờ báo nào dám đăng, bài báo đó đã được TQ 2008 đăng tải, nhờ đó mà nhân dân Việt Nam mới biết được một hiện thực thật đau lòng. Khi đời sống nhân dân đa phần còn đói nghèo mà Quốc Hội lại bỏ ra một lượng tiền bạc khổng lồ để làm 500 bức tranh chân dung 500 vị ĐBQH khảm đá quý với giá mỗi bức không dưới 3000 – 4000 USD! Việc làm đó rất cần phải lên án.

Về bài “Trường Ca Sân Gôn” của anh Dân Ngôn, trước sau tôi vẫn nói: Khi quyết định chọn đăng bài này trên TQ 89 tôi đã đọc rất kĩ bài lục bát đó. Về niêm luật, về nghệ thuật xử lý ngôn từ trong thể thơ Lục Bát…, tôi luôn coi Dân Ngôn là một tài năng không thua kém Nguyễn Duy và Đồng Đức Bốn những ÔNG HOÀNG trong làng 6 - 8. Viết Trường Ca sân gôn, Dân Ngôn phải sử dụng bút pháp chính luận, lại phải khai thác tối đa tính ước lệ và ẩn dụ của thi pháp đa thanh, rất dễ tạo ra một phảng phất phóng túng, đó là điều rất nguy hiểm. Với giới cầm bút thì thông cảm được, với những người có nhiệm vụ bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ thì đó là điều không thể tha thứ. 

Trước lối phê phán theo kiểu chiết tự, cắt câu, quy nạp rồi kết tội rất nặng cho tác giả Dân Ngôn, tôi hoàn toàn bất lực và trước cơ quan an ninh tôi cũng đã phải ký nhận phần trách nhiệm của mình trong việc cho phép xuất hiện bài này trên TQ 89, nhưng tôi vẫn thấy bài thơ đó đã phần nào nói được cái nỗi đau của người nông dân bị mất đất, mất ruộng cho các dự án sân gôn. Kết tội nặng nề cho tác giả Dân Ngôn, không biết cơ quan an ninh có thấy áy náy & bất công không khi chính ông Nguyễn Tấn Dũng cũng đã phải có những điều chỉnh về chuyện này. 

Trong lúc tôi hết sức trân trọng những sản phẩm tinh thần mà anh Dân Ngôn đã tặng tôi, thì trong con mắt của các nhân viên an ninh, đó là thứ văn thơ xấu (!?) và có lẽ trong một căn phòng khác, trước sức tấn công áp đảo của các nhân viên thẩm vấn rất chuyên nghiệp anh Ngôn đã quá dễ dàng sám hối rồi đi đến quyết định chối bỏ “Những đứa con tinh thi ca” của mình. Về chuyện này, tôi nghĩ tác giả Dân Ngôn cũng đã là “Một người cha” thiếu trách nhiệm với những sản phẩm tinh thần của mình.

Không một người Việt Nam nào lại không biết Kiều (ND), tác phẩm vĩ đại có thể làm rạng danh mọi nền văn học, thế mà vẫn có người chê Kiều và họ cấm vợ con trong nhà không được đọc. Học giả Đào Duy Anh năm 1953 đã từng ra một đề luận cho tú tài là: “Anh hay chị hãy chứng minh Kiều là một dâm thư”, thì bài “Trường Ca sân gôn” của Dân Ngôn có thể tôi cho là hay, cơ quan an ninh lại cho là dở… điều đó cũng là lẽ thường tình của một đời sống văn học ngày càng cởi mở.

Điều càng đáng đau lòng hơn, vì một lý do nào đó, anh Dân Ngôn lại đưa ra những lời khai không đúng và rất bất lợi cho tôi xung quanh việc bài “Trường Ca sân gôn” xuất hiện trên TQ 89. Tôi rất buồn, nhưng tôi không giận anh Ngôn lâu. Tôi mong muốn cơ quan an ninh nên có cái nhìn cảm thông với những con người đã từng vô tư hy sinh những năm tháng đẹp nhất của đời mình trong đội hình: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước / Mà lòng phơi phới dậy tương lai”.

Những con người đã từng lâng lâng trong cảm hứng hết sức lãng mạn của thứ thi ca cũng hết sức xến: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm!”. Nhưng hôm nay họ đang vô cùng hẫng hụt và đau khổ trước những gì mà họ đã, đang nhìn thấy. Thượng Tá Dân Ngôn nằm trong lớp người này. Là người đã chọn bài, biên tập và quyết định đăng tải bài “Trường Ca sân gôn” trên TQ 89… mọi lỗi lầm là ở nơi tôi, do tôi mọi bề.

***

Tôi chủ động thể tình tiếp:

Hôm nay đã là ngày làm việc thứ 9 rồi thưa ông! Tôi nghĩ: Tôi chỉ thực sự bị coi là có tội khi tôi đối diện với sự phán quyết của Toà Án, vậy mà nhiều lúc tôi có mặc cảm mình đã là người mất tự do. Đó là một chỉ dấu không bình thường cho một xã hội được cai quản bằng pháp luật và một xã hội mà quyền con người luôn được tôn trọng.

Thưa ông! Cuộc làm việc giữa các ông, những người có trách nhiệm bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ với tôi, người phê phán những sai lầm của đảng, của chế độ rất khó có thể có một tiếng nói chung. Tôi nghĩ điều mà chúng ta vẫn có thể ôn tồn ngồi với nhau suốt 9 ngày qua chính là cả 2 phía đều muốn thượng tôn những gì mà Hiến Pháp và Pháp Luật đã khẳng định. Tôi hoàn toàn bất ngờ khi thấy Viên Thượng Tá An ninh nói: Chúng ta tạm đình tra vào hôm nay, ông ra về, sau này có làm việc tiếp, chúng tôi sẽ báo sau. Mong rằng ông tiếp tục có tinh thần hợp tác tốt.

Trong khi các nhân viên an ninh hối hả hoàn tất các biên bản ghi lời khai, tôi như bị rơi vào một trạng thái rất lạ như là hiện tượng “Nhập Đồng”. Không cần biết những người đang ngồi trước tôi có để ý gì đến tôi nữa không, tôi rỉ rả độc thoại cho tôi, cho người thân của tôi và cho tất cả mọi người:

Tôi cũng đã từng bị rơi vào tình cảnh như những gì mà Đỗ việt Khoa đang phải chịu. Thôi thì buông xả đi cho những người làm Giáo Dục đã và vẫn đang vẽ râu vẽ ria cho chúng tôi, sau lưng chúng tôi. Trong sự cố xẩm chiều 15 /6/2010 vừa qua, có ai chê trách gì được tôi, vợ tôi, các con tôi, các cháu nội, cháu ngoại của tôi khi tất cả những đồ đạc tài sản chẳng đáng giá bao nhiêu của gia đình đã bị hất tung và lục soát.

Có ai trách cứ được tôi khi tôi cũng biết bỏ ngoài tai mà tìm đến trạng thái VÔ NGÃ để mỉm cười trước những lời cay độc của người đời:

- Nằm trên đống sách, vở, tài liệu…như thế ông này tránh sao khỏi chứng “Tẩu Hoả Nhập Ma” .

- Ông này đâu có còn là con trẻ mà không hiểu nổi câu: “Hy sinh đời bố để củng cố đời con!” (ý họ chê tôi là không biết tự chế để cho con trai tôi được đề bạt Giám Đốc. Người chê tôi đâu có biết kể cả khi tôi trơn như một con lươn, hoặc điêu toa thớ lợ như một thằng Điếm, một con Điếm bẩn thỉu đứng đường thì con tôi cũng không thể được đề bạt giám đốc“Trung Tâm Dự Báo” được, khi mà cuộc chơi đó chỉ dành cho các Đại Gia, các băng nhóm. Kể cả khi tôi là người có tiền thì tôi cũng không thể làm việc đó, làm việc đó là tôi tự phủ định những giá trị mà tôi đã theo đuổi và tôn thờ...

Tôi nay nếu chưa dám nhận là mình đã già, thì cũng chẳng ai bảo tôi là còn đầu xanh tuổi trẻ nữa. Mọi phẩm chất trong tôi đều đã định hình và sơ cứng. Những việc tôi đã làm là kết quả biện chứng của những giá trị tiềm ẩn trong tôi. Giờ đây nếu tôi đưa ra những hối hận xướt mướt, những van vỉ để được khoan hồng… là tôi một lần lừa dối cơ quan an ninh đấy.

Tôi luôn ý thức được rằng, tôi đã sống không đến nỗi nào trước cuộc đời này. Trước những gì mà tôi đã làm, tôi không phải cúi mặt trước gia đình, quê hương, người thân, bạn bè và lớp lớp học trò mà tôi đã góp phần đào tạo. Nếu có điều gì đó không ổn là do năng lực của tôi còn hạn chế, bởi tôi cũng chỉ là một thực thể bình thường trong một trần gian chưa bao giờ là hoàn chỉnh và càng chưa bao giờ là toàn mỹ.

Một khi tôi thực sự là kẻ có tội với Tổ Quốc tôi, Nhân Dân tôi thì “Lưới Trời lồng lộng – Chậy đâu cũng không khỏi nắng”. Tôi chấp nhận sự phải trả giá cho những tội lỗi mà tôi đã gây ra & tội tôi đến đâu tôi chịu đến đó.

Như bất cứ ai, tôi cũng ÁI - Ố - HỈ - NỘ…, cũng hy vọng rồi lại thất vọng, cũng Minh Triết rồi lại U Mê, cũng mong manh như một kẻ lạc loài giữa một đám đông hỗn độn, cũng là đáng thương trong những bi kịch dạng: “Trong một tập thể toàn những anh “Gù” thì thằng nào “Thẳng Lưng” sẽ bị gọi là thằng “Tật Nguyền” !.

“Trong một đám đông toàn những ông “Câm Lặng” thì thằng nào biết “Nói”, dám “Nói” sẽ bị coi là thằng “Tâm Thần”! Và để sống sót được thôi cũng đành:

“Cứ tự mình dán băng keo vào miệng
Con gọi Mẹ chỉ còn nghe ú ớ 
Yêu Tổ Quốc chỉ còn nghe ú ớ” (!?)

(Lại chào Đất Nước – Thơ Thanh Thảo)

Đây chính là bi kịch lớn nhất trong các bi kịch của người Việt Nam đương đại. Đó chính là sự toàn thắng của thái độ sống giối trá trước cuộc đời.

Qua 9 ngày làm việc vừa qua, thông điệp mà cơ quan an ninh đặt ra trước tôi là, tôi sẽ phải bàn giao lại cho ông Nguyễn Thanh Giang những gì mà ông Giang đã nhờ cậy tôi, đã tấn phong cho tôi và từ nay tôi không được giữ một vai trò gì với tờ Tổ Quốc nữa (?!). Với tôi, kể cả những lúc lạc quan nhất, tôi luôn nghĩ: “Một cánh chim cô đơn, không mang lại một Mùa Xuân”, có tôi hay không có tôi thì mặt bằng Đệ Tứ Quyền (Quyền tự do ngôn luận – Tự Do báo chí) của người Việt Nam vẫn như thế thôi. 

Trước áp lực của chính quyền, những người làm báo Tổ Quốc trong nước khó mà tránh khỏi một giải pháp tương tự như cuộc “Tuẫn Tiết Tập Thể” của các trí thức trong cơ quan IDS (Viện nghiên cứu phát triển) mấy tháng vừa qua. Những ngày qua, ca từ trong một ca khúc về Hà Nội của Lê Vinh: “Cháy hết mình cánh Phượng nhẹ nhàng rơi…” cứ luẩn quẩn mãi trong tôi như một điềm gở, một ám ảnh buồn. Những Cánh Hoa… không ngừng lả tả rơi xuống lòng Đất Mẹ Việt Nam để ngày mai sẽ tái sinh trên mặt đất có quá nhiều đau khổ & nghịch lý này một viễn cảnh huy hoàng: “Trăm Hoa đua nở - Trăm Nhà đua tiếng!”.

Đó là hy vọng, còn lúc này, Đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn tiếp tục lỗi hẹn với Nhân Dân Việt Nam. Viễn cảnh về một Việt Nam thực sự được hưởng Tự Do Ngôn Luận – Tự Do Báo Chí vẫn còn xa vời lắm. Viễn cảnh đó vẫn còn ở nơi rất xa, rất xa… nơi đó vẫn còn ở phía dưới Đường Chân Trời & Đồng Bào tôi vẫn tiếp tục, tiếp tục đợi chờ! một cuộc đợi chờ mỏi mòn xuyên thế kỷ./.

Hồ Núi Cốc 17/7/2010 cùng các đồng môn Địa Lý 
Lớp B 1967/1970 gặp mặt sau 40 năm ra trường.


*
*

Hơn 50 năm trước, ở tuổi hoa niên, tôi đã từng mê mẩn trước những trang hồi ký có tên “Bất Khuất” viết về những hoạt động của ông Nguyễn Đức Thuận, một TW Uỷ viên ĐCS Việt Nam được Đảng chủ động cài lại miền Nam để chuẩn bị cho những bước phát triển mới của chính trường Miền Nam sau Hiệp định Giơ ne vơ 1954. Cuốn sách đó do tác giả Trần Đĩnh viết, xuất hiện vào năm 1965. Cuốn sách này một thời được đưa vào giảng dậy trong chương trình văn học hệ phổ thông 10 năm và đã từng được thế hệ tôi suy tôn như một mẫu mực nghệ thuật, một biểu tượng hoành tráng, một tượng đài vô song của điều gọi là “Chủ nghĩa anh hùng cách mạng”. Nhưng... mỉa mai thay, chính Trần Đĩnh lại là nhà văn PHẢN TỈNH và “PHẢN ĐỘNG” (Xin nhớ là tôi để trong ngoặc kép” sớm nhất. Với tác phẩm “Đèn Cù” xuất bản tại Mỹ 2014, ông lại tiếp tục làm đổ nhào những tượng đài cứ ngỡ là sẽ “ĐỜI ĐỜI” và “MÃI MÃI”, làm bật tung những góc khuất nhếch nhác đến thê thảm trong đời sống cung đình của Việt Nam mà thế hệ U70 – U80 chúng tôi đã hồn nhiên tin tưởng... nên lĩnh đủ.

Gần 50 năm đã trôi qua, giờ đây nếu ai hỏi tôi: Chương đoạn nào của cuốn Bất Khuất là hay nhất? Tôi xin thưa: Đó là chương viết về cuộc bắt giữ ông Thuận giữa đường phố Sài Gòn của một nhân viên an ninh có biệt danh Sáu đen và những cuộc thẩm vấn liên hồi dưới những đèn pha cực mạnh của các nhân viên an ninh trong Tổng nha Cảnh sát đô thành Sài Gòn dành cho ông Nguyễn Đức Thuận tại một căn phòng nằm gần Sở Thú Sài Gòn. Căn phòng ghê gớm đó có biệt danh Pecarande

Thật trớ trêu, ngót 50 năm trước tôi thích cảnh nào thì nay trời trao cho tôi cảnh vậy. Đúng 8 h 30 sáng ngày 03/2/2010 tôi phải bước vào phòng thẩm vấn, một thứ Pecarande của chế độ mới ở số 6 đường Quang Trung Hà Đông - Hà Nội theo giấy triệu tập của công an Thành phố Hà Nội. 

GIẤY TRIỆU TẬP (Lần thứ nhất)

Khi cánh cửa phòng thẩm vấn khép lại, tôi biết tôi sẽ phải đối diện với hàng loạt câu hỏi và câu trả lời của tôi sẽ đem lại sự hiểu biết đúng đắn về tôi và cũng có thể lắm nếu tôi danh không chính, ngôn không thuận... họ sẽ hiểu sai về tôi, về tờ báo của chúng tôi và hệ luỵ sẽ đến với tôi là vô lường. 

Hàng loạt giấy triệu tập

…Và thời gian đã trễ nải trôi trong tiếng máy ro ro êm êm của các thiết bị ghi âm, ghi hình đang chĩa vào tôi và tôi không nhầm một đường truyền Audio đã được thiết lập nối liền phòng thẩm vấn tôi với một trung tâm ở đâu đó…mà trước máy sẽ là các sĩ quan cao cấp, các chuyên viên phân tích lời khai giám sát chặt chẽ từng lời khai, từng nét mặt của tôi trong từng thời điểm, từng tình huống. 

Trong lúc cô thư ký có gương mặt của một cô giáo hơn là gương mặt của một sĩ quan an ninh đang hoàn thiện những thủ tục ban đầu cho một bản cung và các nhân viên an ninh khác trong phòng đang nghiêng ngả loang loáng chụp ảnh tôi từ mọi góc độ, tôi lơ đãng nhìn ra bên ngoài qua một khe cửa hẹp mà trong lòng man mác buồn. Nếu thực sự là một đời sống pháp quyền thì kể cả khi tôi đứng bên vành móng ngựa, tôi vẫn phải được đối xử như đối xử với người chưa có tội. Bụng bảo dạ, truyện này cũng nhỏ thôi quan tâm làm gì, thế mà tôi lại buột miệng: 

“Các quý vị đã quay, chụp tôi quá nhiều. Tôi có một đề nghị: Khi sử dụng các hình ảnh của tôi, xin quý vị chọn những hình ảnh nào phản ánh đúng con người tôi, xin đừng như báo ANTG số 815 ra ngày thứ tư ngày 10/12/2008 đã chọn hình ảnh thật bất xứng với tư chất của Giáo Sư Nguyễn Đăng Mạnh để minh hoạ cho bài “Chất độc hại trong một cuốn hồi kí” của nhà nghiên cứu Thượng Nguyên. Ai đời, ông Nguyễn Đăng Mạnh, một Nhà Giáo Nhân Dân, Một nhà văn, một giáo sư văn chương, Giải thưởng Văn Học Nghệ Thuật cấp nhà nước, người đã góp sức đào tạo ra biết bao những Cử Nhân, Thạc Sĩ, Tiến Sĩ văn chương…mà lại hiện diện trên mặt tờ báo có lượng độc giả đáng nể trong hình hài như một đầu gấu đầy chất bặm trợn!?. Biết đâu đấy, nay mai rồi sẽ có một bài báo của một ông Y ông Z nào đó có nhan đề: “Kẻ cơ hội chính trị Nguyễn Thượng Long đã cúi đầu nhận tội”(!?) kèm với một tấm hình tôi bơ phờ, ủ rũ như một kẻ bụi đời, một gã cô hồn trước mắt mọi người. Đáp lại lời buột miệng của tôi, các nhân viên an ninh chỉ im lặng. Tôi cũng chẳng giận gì họ, thôi thì việc cấp trên giao cho họ thì họ cứ làm, việc tôi tôi làm và câu hỏi đầu tiên của viên Thượng Tá đã đưa tôi ra khỏi những tạp niệm xét cho cùng cũng là vô nghĩa giữa cõi thế gian đang bị lấp đầy bởi những điều phi lý này. 

Hỏi: Trưởng thành từ các môi trường sư phạm, hoàn thành nghĩa vụ lao động trong công việc của người thầy, cuối đời lại vương nghiệp báo chí…! điều gì đã xẩy ra vậy? 

Trả lời: Không biết có phải cuộc đời tôi là một dẫn chứng sinh động cho 4 cái nghề như có họ với nhau : Nhà văn, Nhà báo, Nhà giáo, Nhà nghèo không ? Tôi đến với hoạt động báo chí là sự phát triển tự nhiên và tất yếu. Những người lần đầu gặp tôi đều nghĩ tôi là nhà báo, chẳng ai nghĩ tôi làm nghề dậy học. Có lẽ tôi sinh ra để cầm máy ghi âm, cầm máy ảnh chứ không phải là cầm phấn đứng trên bục giảng. Thế hệ tôi là thế hệ không được tự do khẳng định thiên hướng nghề nghiệp cho mình. Công bằng mà nói tôi cũng là một thứ hèn, đã cúi mặt chấp nhận tư thế “Nhà nước đặt đâu - Con dân ngồi đấy”. Tôi và GD - ĐT suốt 40 năm... tuy không phải là một cuộc “Hôn nhân vì tình yêu”, tôi vẫn tự hào là tôi vẫn giữ được phẩm hạnh của người cầm phấn trước học trò của mình. 

Hôm nay ông hỏi điều gì đã xẩy ra? Xin thưa, nếu ngành giáo dục đừng bộc lộ những gì là bất xứng, có lẽ tôi cũng tẻ nhạt như mấy ông giáo già ù lì nơi tôi thôi. Sự đời lại không như vậy, trước sự tụt dốc đến thảm hại của nghề cao quý, ngay từ giữa những năm 1990 tôi đã có hàng loạt bài viết cảnh báo về sự băng hoại của Giáo dục, tôi đã từng như “Con Thiêu Thân” trong nỗ lực tố cáo những giối trá trong thi cử của GD – ĐT Hà Tây. Tôi cũng đã từng quyên mình nhẩy ra bênh vực những “Con Thiêu Thân” khác lâm nạn trong các nỗ lực tương tự như những nỗ lực của tôi, những Đỗ Việt Khoa (Giáo viên Hà Tây), Edu Lê Đình Hoàng (Giáo Viên Nghệ An)… và tôi đã đến với báo chí trong những lộn xộn và láo nháo như vậy. 

Hỏi: “Qúa trình đến với BNS Tổ Quốc của ông đã diễn ra như thế nào? Ai đã đưa ông đến với những chức danh như thành viên của Ban biên tập, Phó tổng biên tập…Theo ông, tờ báo này là sản phẩm của ai? Ông nghĩ gì về tờ báo này? 

Trả lời: Tôi nghĩ, nếu không có nhóm những nhà trí thức Việt Nam ở Pháp, những người có tấm lòng thành với đất nước thì không thể có tờ Tổ Quốc, mặc dù bộ phận TQ trong nước có những gương mặt trí thức nổi trội, những lão thành cách mạng bậc tiền bối, những cây viết chính luận xuất sắc... họ đã công khai ghi danh trong Ban cố vấn, trong Ban biên tập. 

Còn tôi, tôi bắt đầu viết bài cho BNS Tổ Quốc lúc tôi mới rời ngành GD – ĐT để nghỉ hưu. Đó cũng là lúc ông Đỗ Việt Khoa giáo viên Địa Lý Hà Tây được VTV3 Đài truyền hình TW vinh danh là Người Đương Thời được cả nước yêu thích nhất 2006. Đó cũng là lúc tân Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục Đào Tạo Nguyễn Thiện Nhân xuất hiện trong ánh hào quang của một Minh Chủ, người có sứ mạng đạp phanh để cứu đoàn tầu GD lúc đó đang băng băng lao xuống vực thẳm bằng cuộc vận động Hai không (Không gian dối trong thi cử và không vị thành tích trong thi đua). Cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên, khi một thời gian ngắn sau thời điểm đó, Chính Phủ Nguyễn Tấn Dũng đã mời ông Nhân tham chính trong cương vị một Phó Thủ Tướng trẻ tuổi. Tôi đến với BNS Tổ Quốc lúc báo chí chính thống không còn mặn mà với cuộc vận động hai không, hàng loạt tờ báo chính thống đã từng đăng tải loạt bài phanh phui những tiêu cực của GD-ĐT Hà Tây của tôi trong giai đoạn trước thì nay đều đồng loạt hờ hững với bài vở của tôi. Tôi đến với tờ Tổ Quốc trong linh cảm cay đắng rằng nếu tôi chưa về hưu thì không sớm thì muộn cả tôi cả Đỗ Việt Khoa sẽ bị hạ nhục và sẽ bị người ta “Hành quyết” như hành quyết những kẻ tội đồ và “Phát súng hai không” của ông Nhân rồi cũng sẽ trở thành những gì tương tự như một điều lố bịch. 

Như vậy, tôi đến với tờ Tổ Quốc có khác gì đâu một cuộc hẹn hò của định mệnh, như một tất yếu. Khi thấy tên mình trong BBT của tờ TQ, tôi không quan tâm lắm,vì theo tôi tờ TQ lúc đó chỉ là một thực thể ảo khi Việt Nam đã hoà nhập vào WTO với biết bao lời hứa của ĐCS với cộng đồng quốc tế về tự do ngôn luận, tự do báo chí cho Nhân Dân Việt Nam và khi internet đã len lỏi vào từng căn nhà, từng chiếc bàn làm việc thậm chí cả trong buồng ngủ của mỗi gia đình. Nên khi Tiến Sĩ Địa Vật Lý Ngyễn Thanh Giang nói với tôi: “Giai đoạn này tôi muốn dành thời gian cho việc hoàn thiện một số công trình thuộc chuyên môn của tôi và tôi cũng muốn hoàn thiện một số cuốn sách còn đang viết dở. Long giúp tôi trông nom tờ Tổ Quốc với cương vị là một phó tổng biên tập”. 

Trước khi tôi chấp nhận lời thỉnh cầu của ông Giang, tôi biết những gì ông Giang nói với tôi, ông cũng đã từng mang đi để chiêu dụ Bác Sĩ Phạm Hồng Sơn, Nhà Báo Nguyễn Vũ Bình…song cả 2 anh đều từ chối. Tôi nhận công việc đó là vì lương tâm, lương tri tôi mách bảo : Đó là một tờ báo tốt. Như vậy tôi không hề bị động trong công việc của một Phó tổng biên tập tờ Tổ Quốc. Từ TQ số 60 trở đi tôi dốc sức cùng với các trí thức khác ở trong nước cũng như ngoài nước, những người có tấm lòng thành với đất nước và bằng kinh nghiệm, sự hiểu biết của mình tôi cùng với mọi người nỗ lực đẩy lùi, loại bỏ những bài viết bất lợi cho dân tộc, bất lợi cho tiến trình đi đến Tự Do – Dân Chủ và Nhân Quyền cho người Việt Nam để tờ báo luôn luôn : 

* Là tiếng nói ôn hoà thể hiện những suy tư và ước vọng của người Việt Nam. 

* Là tờ báo không khơi gợi những hận thù, không tán thành bạo loạn, lật đổ. 

* Là tờ báo dũng cảm đối diện với những vấn đề nóng, vấn đề gai góc, vấn đề được coi là nhậy cảm mà hơn 700 tờ báo chính thống trong nước đồng loạt né tránh. 

* Là một kênh phản biện tích cực đầy tinh thần trách nhiệm để ĐCS, Chính quyền trong nước dựa vào đó mà có những điều chỉnh chính sách sao cho có lợi nhất cho đất nước, cho dân tộc. 

* Là sự tập dượt cho người Việt Nam trong nước chuẩn bị bước vào giai đoạn ĐCS chấp nhận tự do ngôn luận, tự do báo chí cho Nhân Dân Việt Nam như những gì 

ĐCS đã hứa với cộng đồng quốc tế. 

* Tờ BNS Tổ Quốc tiếp tục là tờ báo không đặt ra mục đích kinh doanh, không có chế độ nhuận bút, tất cả chỉ vì sự nghiệp nâng cao dân trí, vì sự thay đổi nhận thức cho người dân theo hướng văn minh và tiến bộ. 

Hỏi: Trong tay tôi là BNS Tổ Quốc số 80, để ra được một số báo có 32 trang như thế này, Phó tổng biên tập đã có quá trình làm việc thế nào? 

Trả lời: Tôi không biết giai đoạn trước, để ra được một số Tổ Quốc thì những người có trách nhiệm ngày đó đã xoay sở như thế nào?. Từ số 60 mà tôi làm việc với chức danh Phó tổng biên tập thì quá trình đó là: 

Tôi dành nhiều thời gian để đọc rất kĩ những bài mà các tác giả đã gửi vào Email của tôi, đọc kĩ các bài trên các trang mạng. 

Tuyển lựa những bài có lợi cho đất nước, có lợi cho Nhân Dân trong giai đoạn phấn đấu hướng tới Tự do - Dân Chủ - Nhân Quyền. 

Với những bài có nội dung tốt nhưng có thể vì trạng thái tâm lý của người viết không ổn nên họ có những lời lẽ cực đoan, thì tôi biên tập lại để bài báo đó vẫn giữ được ý tưởng tốt của người viết mà lại tránh được những dị ứng không cần thiết của người đọc. Ví dụ: Một tác giả khá nổi tiếng, vì quá bức xúc trước thái độ sống giối trá đang trở thành một thứ hội chứng lây lan ra toàn xã hội đã viết: “Đu ma ba quân giả dối đời…”, tôi thẳng thừng xoá bỏ động từ quá dung tục đó và thay bằng: “Bá Ngọ ba quân giả dối đời…”. Câu chửi vẫn là một câu chửi, nhưng rõ ràng lọt tai người nghe hơn. Cũng bằng cách thức đó, tôi cùng với anh em biên tập làm việc cật lực để tờ báo tránh những rắc rối không cần thiết khi phải đối diện với những đề tài, những lĩnh vực được coi là nhậy cảm và sản phẩm báo chí của chúng tôi khi đến với người đọc phải sáng bừng là những giá trị Chân - Thiện - Mỹ, là tấm lòng trong sáng, là thông điệp hoà bình của người viết muốn gửi đến người đọc và nhờ đó mối quan hệ của người viết và người biên tập là mối quan hệ của những người bạn với những người bạn dựa trên sự tin tưởng nhau. 

Khi đã tuyển chọn được một lượng bài cần thiết, tôi gửi Gmail cho các thành viên khác trong tờ báo để anh em cùng biên tập lại kĩ càng hơn rồi anh em đó lên khuôn một bản thảo. Sau khi bản chính thức được lên khuôn, anh em lại gửi qua Gmail cho tôi và ông Giang để chúng tôi đọc duyệt lần cuối cùng. trước khi chính thức FW đi các Email của bè bạn để cùng thưởng thức. 

Với một quy trình làm báo hết sức thiện nguyện, hết sức có nguyên tắc, và cũng hết sức có trách nhiệm với cộng đồng như thế, tờ Tổ Quốc đã thực sự trở thành một sản phẩm báo chí được người đọc trong nước và ngoài nước đón nhận với thái độ trọng thị và tin tưởng. Tờ BNS Tổ Quốc cùng với nhiều kênh thông tin khác như IDS, Bauxit info …nhiều năm tháng qua đã làm xã hội Việt Nam ngày càng đậm nét dân sự hơn và chất trại lính của một xã hội toàn trị kiểu Stalin, Mao Trạch Đông và Pôn Pốt... đã ít nhiều nhạt nhoà và nứt vỡ. 

Cuối 2008 một chiến dịch tổng lực của truyền thông được khởi động nhằm xoá xổ BNS Tổ Quốc. Hàng loạt báo lề phải tung ra những đòn đánh, những loạt bài bôi nhọ, miệt thị tờ báo của chúng tôi là tờ báo phản động của bọn cơ hội chính trị, bọn bất mãn, những nhà dân chủ yêu Đô la hơn yêu nước …(!?). Đến nay tôi tin rằng, số những “Sát Thủ” sẵn sàng xuống tay hạ sát tờ TQ theo kịch bản thô thiển như thế ngày càng ít đi và vào thời điểm này nếu vì một lí do nào đó họ buộc phải viết theo chỉ thị của ai đó thì nếu còn là người có lương tri... luơng tâm họ sẽ phải cắn rứt. 

Hỏi: Vì sao đến số 80 tờ TQ lại quay về cơ cấu nhân sự như từ số 1? (Tức là không còn ghi chức danh cho các thành viên cuả BBT). 

Trả lời: Theo tôi truyện đó cũng không có gì là đặc biệt. Kể cả lúc tờ TQ ghi danh tôi là Phó tổng biên tập thì cũng chẳng bao giờ tôi coi tôi là nhân vật quan trọng của tờ báo, là yếu nhân của tờ báo. Câu hỏi này cơ quan an ninh nên đặt ra cho những người khởi xướng ra tờ báo thì hợp lý hơn. 

Trong mắt tôi tờ Tổ Quốc chỉ là một tập hợp của một số trí thức cả trong nước, cả ngoài nước có tấm lòng thành thực với đất nước và dân tộc. Mọi người cùng nhìn nhau mà làm việc trên tinh thần thiện nguyện, tự giác và tôn trọng nhau. Theo tôi về phương diện nhân sự tờ Tổ Quốc không hề có vấn nạn chạy chọt quyền chức như hơn 700 tờ báo thuộc lề phải trong nước. Việc tờ Tổ Quốc giai đoạn này cơ cấu nhân sự chỉ có Ban cố vấn và Ban biên tập là hợp lý. 

Hỏi: Tờ Tổ Quốc nay đã ra được 80 số trong hơn 3 năm, vấn đề tài chính của tờ báo đã được giải quyết như thế nào? 

Trả lời: Tôi chưa bao giờ chủ trương tìm hiểu kĩ về truyện này, nếu vào dịp cuối năm 2008, đầu 2009 không có chiến dịch đánh tờ Tổ Quốc của một loạt báo lề phải, tôi cũng sẽ chẳng biết gì về truyện này.Tôi nhớ để trả lời những chất vấn của nhiều người, giai đoạn đó ông Giang đã một lần hé mở : “ Nguồn tài chính cho tờ TQ là do 3 nguồn, gồm: Sự giúp đỡ của ông Nguyễn Gia Kiểng - Một trí thức yêu nước ở Pháp, cũng là nhà lãnh đạo của “TẬP HỢP DÂN CHỦ ĐA NGUYÊN”sự giúp đỡ của các Mạnh Thường Quân ở hải ngoại…Ngay từ những ngày đầu đến với tờ TQ tôi đã biết tờ Tổ Quốc không có chế độ nhuận bút, không đặt ra mục đích kinh doanh nên không có cơ chế kế toán, không có động thái giải trình về thu chi hàng năm. Nếu ai muốn tìm hiểu kĩ càng về truyện này xin hỏi ông Giang thì hợp lý hơn. 

Hỏi: Ông có bao giờ nghĩ rằng, sự tồn tại của tờ TQ là sự tồn tại trái với Hiến pháp và Pháp luật của Việt Nam không? 

Trả lời: Tôi không bao giờ nghĩ như thế. Nếu tôi nghĩ như thế tôi đã không tìm đến với tờ báo này. Tôi nghĩ rằng, những người làm báo TQ chỉ lúng túng khi nhà nước yêu cầu xuất trình giấy phép xuất bản. Tờ báo của chúng tôi không thể xin được thứ giấy này. Nhưng thay vì trình giấy phép, chúng tôi sẽ trình ra: 

HIẾN PHÁP NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM:
Điều 53: Hiến pháp CHXHCN Việt Nam: Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân. 

Điều 69: Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin, có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật. 

TUYÊN NGÔN QUỐC TẾ VỀ NHÂN QUYỀN (LIÊN HỢP QUỐC) 

Điều 19: Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bầy tỏ quan điểm, kể cả bảo lưu ý kiến không phụ thuộc vào bất cứ sự can thiệp nào, cũng như sự tự do tìm kiếm, thu nhập truyền bá thông tin và ý kiến bằng bất cứ phương tiện thông tin đại chúng nào và không giới hạn về biên giới. 

Điều 30: Không cho phép bất cứ một quốc gia nào, nhóm người hay một cá nhân nào được quyền tham gia vào bất cứ hành vi nào nhằm phá hoại bất cứ quyền và tự do nào nêu trong bản tuyên ngôn này. 

CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ VỀ NHỮNG QUYỀN DÂN SỰ CHÍNH TRỊ ( LIÊN HỢP QUỐC BIỂU QUYẾT 1966 VIỆT NAM THAM GIA 1982) XIN TRÍCH LỤC: 

Điều 19: Mọi người có quyền giữ vững quan điểm mà không bị ai can thiệp. Mọi người có quyền tự do phát biểu quan điểm. Quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến mọi tin tức và ý kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn phẩm dưới hình thức nghệ thuật hay mọi phương tiện truyền thông khác, không kể biên giới quốc gia. 

Điều 5: Không một quốc gia nào, một phe nhóm hay một cá nhân nào có quyền tiêu diệt những quyền tự do đã được Công ước thừa nhận hoặc để giới hạn các quyền tự do này. 

Xung quanh chuyện này có người đã bắn tin đến tôi rằng: Những điều ông Long nói là đúng thôi, thế với Luật xuất bản và Luật báo chí thì những người làm báo TQ nghĩ gì? Tôi đã trả lời: Một đất nước thực sự là Pháp quyền – Pháp trị thì luôn luôn coi Hiến pháp là “Luật Mẹ”, mọi bộ luật, mọi đạo luật chỉ là “Luật con” & “ Luật con”có nhiệm vụ cụ thể hoá nội dung của “Luật Mẹ” để người dân có điều kiện thụ hưởng những gì mà Hiến Pháp đã quy định. Tôi nghĩ rằng, nhìn nhận sự hiện diện của tờ TQ có thể vận dụng cách nói của ông Luật Sư danh tiếng Lê Công Định, người vừa phải thụ án tù 5 năm tù giam : “ BNS Tổ Quốc, xét theo hành vi khách quan thì đó là tờ báo không có giấy phép !”có vậy thôi. Nói thật lòng với nhau, xã hội Việt Nam như bà Ngô Bá Thành đã từng thẳng thừng nói giữa Quốc Hội rằng : Việt Nam có cả một rừng luật, nhưng khi thực thi người ta lại chỉ quen dùng luật rừng!” thì những người làm báo TQ khi không có giấy phép nhưng lại rất đúng về Hiến Pháp, về Tuyên ngôn nhân quyền, về Công ước quốc tế về quyền dân sự chính trị…là điều hoàn toàn có thể lí giải được. 

Hỏi: Có dư luận… nhờ có Tiến Sĩ Nguyễn Thanh Giang mà thầy giáo Địa Lý Nguyễn Thượng Long mới trở thành nhà tranh đấu cho dân chủ... Ông nghĩ gì về điều này? 

Trả lời: Mặc dù ông Giang là Tiến Sĩ Địa Vật Lý (Geophysics), tôi chỉ là một Cử Nhân Đia lý (Geography) bình thường…tôi chưa bao giờ là học trò của ông Giang. Nói tôi đã từng vì ngưỡng mộ ông Giang mà tự tìm đến ông Giang, đã từng viết nhiều bài bênh vực ông Giang thì đúng hơn. Sau sự kiện không biết ông Giang chịu áp lực từ đâu? Có người nói là từ cơ quan an ninh mà ông đùng đùng bắt tôi và cụ Luật Sư Trần Lâm phải tạm đình bản tờ Tổ Quốc mà không hề đưa ra một lý do thuyết phục nào. Tôi thực sự bị sốc, bị bất ngờ vì sự kiện này. Lần đầu tiên tôi được mục kích chân dung đích thực của thần tượng mà tôi đã từng vì kính nể mà hộ giá. Nhân đây tôi cũng chính thức bác bỏ sự kiện một kẻ nào đó đó mạo danh tôi lên diễn đàn hội luận dân chủ cho Việt Nam lớn tiếng kể tội ông Giang. Tôi cũng cười khẩy với bài viết “Nguyễn Thượng Long sau sự cố vấp ngã” của Nickname “longtrung9@gmail.com” viết về tôi. Lại một lần nữa tôi chứng kiến sự thấp kém về trí tuệ của những kẻ lưu manh chính trị trà trộn vào phong trào dân chủ mượn bút để kiếm ăn. Người ta chỉ nói là vấp ngã khi đã làm một việc gì sai trái rồi phải hối hận. Tôi luôn trân trọng và tự hào về chức danh Phó tổng biên tập BNS Tổ Quốc... thì không thể gọi là vấp ngã, càng không thể có cái gọi là hối hận. Người nào phản bội tờ Tổ Quốc, người đó sẽ phải hối hận. Tôi không phản bội ai hết. Từ chỗ quá ngưỡng mộ con người Nguyễn Thanh Giang cũng như quá yêu qúy tờ Tổ Quốc, đến lúc tôi bỗng tá hỏa khi thấy tờ báo này... ngoài sứ mệnh là diễn đàn của THDCĐN, nó còn là sân chơi cuả cơ quan an ninh thông qua bàn tay Nguyễn Thanh Giang. Điều này tôi chưa từng nghĩ đến, đã bắt tôi phải chọn trạng thái lãnh cảm trước những gì mà tôi đã chứng kiến. Hãy để các nhân vật của một vở kịch lớn nhiều lớp lang, nhiều tuyến nhân vật diễn hết vai diễn của mình trong một cuộc chơi vô cùng tội lỗi với nhân dân đang vô cùng đau khổ và bế tắc. Xin trả lại Nickname “longtrung9@gmail.com” tất cả những gì mà quý vị đã gán ghép cho tôi như: “Nguyễn Thượng Long… nhà Dân Chủ, Nhà hoạt động chính trị nổi tiếng nhưng đã vô ơn với người đã giúp đỡ mình” để tôi mãi mãi thanh thản với công việc cầm bút với một khát khao duy nhất là được viết, được nói với đồng bào đau khổ của mình rằng: “Chúng ta đang sống những ngày tháng như thế nào?”. Tất cả chỉ có vậy thôi. Để giữ gìn cái toàn cục, tôi chủ động tạm thời không duy trì mối quan hệ nào với ông Giang nữa, kể cả khi ông Giang tung bài đánh tôi và cụ Luật Sư lão thành nổi tiếng Trần Lâm lên mạng xã hội, tôi vẫn kiên định chủ trương trước sau là không đối lời. Và tôi vững tin: “BNS tổ quốc không thể đình bản vào lúc này”

Hỏi: Nếu nhà nước yêu cầu BNS Tổ Quốc phải đình bản! Ông nghĩ gì? 

Trả lời: Thưa ông ! Tờ TQ đứng vững được bấy lâu nay, trước hết là nhờ chất lượng bài vở của những người viết. Khi tờ báo của chúng tôi đã được đông đảo các giới bạn đọc đón nhận bằng thái độ trân trọng thì chúng tôi cũng phải có trách nhiệm với họ. Chúng tôi buông bút một cách quá dễ dãi, người đọc sẽ nghĩ gì về chúng tôi. Mặt khác phần quan trọng sức sống của tờ báo đâu có nằm trong tay Đại Tá Phạm Quế Dương với chức danh Chủ nhiệm, trong tay TBT Nguyễn Thanh Giang, Phó TBT Nguyễn Thượng Long cùng toàn bộ Ban cố vấn…mà là đến từ THDCĐN của Học giả Nguyễn Gia Kiểng ở hải ngoại. Nếu hôm nay nhà nước yêu cầu bộ phận trong nước cuả tờ Tổ Quốc phải im tiếng ! Xin nhà nước cũng có một cái gì đó tương tự như Nghị Định 97 mà nhà nước đã đưa ra để giải quyết vụ IDS và chúng tôi sẽ hội ý nhau để có một giải pháp hợp lý. 

Buổi sáng kết thúc bằng một tranh luận cũng rất ôn hoà giữa tôi và cô thư ký. Chẳng hiểu sao tôi không hề một lần nói tới cụm từ “Như thế những người làm báo Tổ Quốc chúng tôi đã vi phạm Hiến Pháp và Pháp luật”, vậy mà cụm từ đó lại xuất hiện trong biên bản? Tôi yêu cầu xoá bỏ cụm từ đó. Tôi chỉ công nhận BNS Tổ Quốc là tờ báo không có giấy phép, có vậy thôi. 

* * * 

Buổi chiều, viên Thượng Tá khệ nệ đặt trước mặt tôi ngót 30 tập bài viết đã xuất hiện trên tờ Tổ Quốc và yêu cầu tôi kí xác nhận bút tích của mình. Tôi thực sự bất ngờ về sức viết chỉ tính từ ngày tôi ra khỏi ngành giáo dục. Tôi lúi húi làm theo lời chỉ dẫn của cô thư kí xinh đẹp, kí vào từng trang viết, từng bài viết của mình vừa ngẫm nghĩ: 

Trên con đường người Việt Nam đi tìm tự do ngôn luận, tự do báo chí như bất cứ một dân tộc văn minh nào khác, những người làm báo Tổ Quốc đã đặt được một cột mốc đáng tự hào và không thể phủ nhận. Tôi cũng không quên những gì đã đến với tôi trong những năm tháng qua. Quên sao được lời khuyên nhủ tôi kéo “Cờ trắng” của một ông cũng có số má trên các trận chiến đánh võ mồm trên mạng, rồi cũng lại chính ông kễnh này đi đâu cũng rêu rao rằng: “An ninh nói với Moa, hãy tránh xa Nguyễn Thượng Long ra, ông ta đã đặt một chân xuống hố rồi! Vấn đề chỉ là công an bắt lúc nào thôi!”. Lại có một nhà đối kháng trong lúc hoang mang đã nhắc nhở tôi: “Rồi Công an sẽ bắt ông thôi!”. Tôi có thói quen không đối lời trước những lời tương tự, cũng là bởi: “Nếu tôi có tội với Tổ Quốc tôi thì “ Lưới trời lồng lộng - Chạy đâu cũng không khỏi nắng và nếu tôi có lỗi với nhân dân đau khổ của tôi thì tội tôi đến đâu tôi chịu đến đó. Tôi không để ai phải chịu thay cho tôi”. Điều giản dị đó có được trong tôi là vì trên mọi nẻo đường, trên từng suy nghĩ, tôi không là phiên bản của ai, tôi không a dua ai, nói leo ai, ăn theo ai. 

Đặt bút xuống mặt bàn sau khi kí xác nhận xong các tài liệu, các văn bản, tôi lơ đãng quan sát các nhân viên an ninh đang lặng lẽ tháo rỡ máy móc, thiết bị trong phòng thẩm vấn thì viên Thượng Tá an ninh chia tay tôi bằng một câu thật bất ngờ: “Sao ông không búi tó như hơn 2 năm trước chúng ta đã gặp nhau?”. Tôi vui vẻ trả lời: “Thực ra tôi hợp với mái tóc như thế, phải cái là đám học trò tôi chúng lại cứ hay bắt chước. Năm đó tôi kỉ niệm một năm ngày “Rửa tay cất phấn”, đám học trò đến với tôi ông nào cũng búi tó như các hảo thủ, các lãng tử tìm nhau trên Lương Sơn Bạc. Lần đó tôi vô cùng bối rối trước bao nhiêu người. Người thông cảm thì không sao, kẻ ác khẩu dạng ông kễnh nọ bảo “Thầy nào trò ấy”. 

Suốt dọc đường về, tôi cứ ngẫm nghĩ mãi về câu hỏi lúc chia tay tôi của viên Thượng Tá an ninh đó. Tôi nghĩ ông ta cũng thật lòng mà hỏi cái chuyện tóc tai đó thôi và thật may tôi cũng không buột miệng theo lối trình diễn đối kháng rất thời thượng thường thấy trong làng Dân Chủ ở Việt Nam giai đoạn này mỗi khi một số người phải đối diện với cơ quan an ninh. Việc tôi có giữ được là tôi trong phòng thẩm vấn hay không là phụ thuộc vào những gì mà tôi đã thể hiện trong cả ngày 3/2/2010 chứ đâu chỉ phụ thuộc vào một lời xét cho cùng cũng là vô thưởng vô phạt./. 

Những ngày Tết năm Canh Dần 2010 
Đến những ngày cuối năm Mậu Tuất 2018 


*
*

Một mình giữa bầy Sói...

Cũng vào những ngày này 10 năm về trước, báo chí lề phải, đặc biệt là các tờ báo của ông tướng công an Hữu Ước bỗng xuất hiện loạt bài đánh dữ dội tập Hồi ký của nhà giáo, nhà văn Nguyễn Đăng Mạnh. Người ta đưa cho nhau đọc những bài viết của Đặng Huy Giang (Bệnh thường tình mà nên tránh), bài của Đỗ Hoàng (Một cuốn hồi ký lẫn nhiều sạn), bài của Nguyễn Hữu Thắng (Về hồi ký của Nguyễn Đăng Mạnh – Tác giả SGK văn học), của Thanh Trúc (Tâm sự đường đời hay nơi trút hận). Đặc biệt người đọc thấy rất không bình thường khi đọc những bài của Chu Giang - Nguyễn Văn Lưu (ông này chắc là người Thanh Hoá), với bài “Về hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh” đăng trên Hồn Việt số 18 ra tháng 12/ 2008 và bài của Thượng Nguyên (ông này chắc chắn là dùng bút danh) với bài “Chất độc hại trong một cuốn hồi ký” đăng trên An ninh thế giới số 815 ra ngày thứ tư (10/12/2008.)

Có một điều không bình thường nữa là loạt bài kể trên không hề vấp phải nỗ lực phản biện đáng kể nào trên các kênh thông tin chính thống cũng như không chính thống. Phải chăng đã có một sự đồng thuận tuyệt đối với các tác giả này? Theo tôi không phải như vậy.

Tôi nghĩ, đến nay về cơ bản xã hội Việt Nam vẫn chỉ là xã hội bưng bít thông tin. Những gì mà báo đảng, đài đảng nói đến, mặc nhiên được coi là chân lý, là quan điểm chính thống. Nhà báo, Nhà đài của đảng mà đã đánh ai, chửi ai thì người đó thân bại, danh liệt và tàn đời là cái chắc. Người cầm bút trong một xã hội như thế để an toàn cho bản thân buộc phải hạ mình làm kẻ xu thời, bưng bô, minh hoạ cho người cầm quyền để lĩnh lương mà thôi.

Khi các nước cộng sản đông Âu lần lượt theo nhau chuẩn bị xụp đổ, một giai đoạn ngắn người cầm bút trong nước được đảng cởi trói với lời động viên của đảng trưởng Nguyễn Văn Linh làm nức lòng mọi người: “Hãy tự cứu trước khi trời cứu” và “Hãy nhìn thẳng vào sự thật, quyết không bẻ cong ngòi bút”. Cố nhà văn Nguyễn Minh Châu ngay lập tức đã ra lời tuyên bố “Hãy hát lời ai điếu cho một nền văn học minh họa” và lập tức văn đàn nước Việt sôi sục với những hiện tượng văn học đặc sắc gắn liền với tên tuổi của những Nguyễn Huy Thiệp – Dương Thu Hương - Phùng Gia Lộc – Tạ Duy Anh – Phạm Thị Hoài – Bảo Ninh… Nhưng than ôi! “Cuộc vui ngắn chẳng tày gang” ít lâu sau, người cầm bút lại bị trói lại. Gần đây, để tránh từ minh hoạ, người ta nói đến một cái “Lề Phải” bắt buộc đối với mọi người. Trên cái “Lề Phải” chật hẹp đó chen chúc nhau là hơn 800 tờ báo, tạp chí các loại là những “Hội nghề nghiệp” mà có lúc người ta đã gọi là “Hội nhà đất” vì các quan thì mải tranh nhau ghế nọ, ghế kia để được phân nhà, phân đất, còn lính tráng hội viên… ngoài một thiểu số rất nhỏ giữ được phẩm chất kẻ sĩ, đa số còn lại để sống được với nghề đành phải nhắm mắt mà thớ lợ, mà đổi trắng thay đen, cúi mặt mà mưu sinh mà kiếm sống trong cảnh: “Chợ trời thật giả đâu chân lí / Hàng hoá lương tâm cũng thiếu thừa!”

Trong bối cảnh như thế, những chiến sĩ an ninh cầm bút trong đội quân đặc nhiệm của tướng quân Hữu Ước mặc sức tung hoành múa bút mà như múa gươm, múa kiếm ở chốn không người, không có đối thủ. Người ta cũng đã quá quen với những trận Boxing mà chỉ có một bên được tự do ra đòn còn người bên kia bị trói chặt chân tay, bịt mắt và bịt mồm mà chịu trận. Trận Boxing giữa “Võ sĩ Thượng Nguyên” và cuốn Hồi kí của Nhà giáo Nhân Dân Nguyễn Đăng Mạnh trên ANTG ngày 10/12/2008 là một trận so găng bất công như vậy.

Trong bài đánh của mình, Thượng Nguyên lớn tiếng đòi nhà giáo Nguyễn Đăng Mạnh phải trình làng đầy đủ băng ghi âm, ghi hình, đầy đủ các loại chứng cớ này nọ làm cơ sở cho việc viết hồi ký của ông. Điều đó chỉ là những đánh đố mà Thượng Nguyên đã cười khẩy khi biết rằng thầy Mạnh không thể trưng ra được. Có những chi tiết để trưng ra được thì bà cụ thân sinh ra thầy Mạnh phải sinh thành ra ông sớm hơn hàng chục năm trước. Đòi hỏi vô lý này của Thượng Nguyên được thể hiện rất đậm nét ở phần viết có tiêu chí: “Xác định nguồn tài liệu để ông Mạnh viết chương này”, tức là chương 7 của cuốn hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh – Chương viết về những hồi ức liên quan đến đời tư của ông Hồ chí Minh. Hãy xem Thượng Nguyên nghĩ gì và viết gì về truyện chứng cớ:

“Theo lời giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh thể hiện trong cuốn hồi ký thì toàn bộ nội dung chương này (chương 7- NTL), những chi tiết độc nhất, ác nhất, xấu nhất…nói về Bác Hồ và những người dưới quyền và bảo vệ Bác Hồ thì hoàn toàn ông nghe người ta kể. Mà những người kể đó không có một ai từng được sống gần cụ Hồ. Tỉ như Vũ Thư Hiên (Một người lưu vong ở nước ngoài), Dương Thu Hương (Nữ văn sĩ sinh năm 1947). Một vị giáo sư ở ĐHSP Hà Nội (Không nêu tên), rồi tới giáo sư Ngô Thúc Lanh (Không nói rõ địa chỉ). Nhưng buồn cười ở chỗ ông Lanh lại nghe ông Văn Tân kể cho người khác và truyền đạt lại.” (ANTG số 815-10/12/2008) (Hết trích)

Trong bài báo ngắn đó, 3 lần Thượng Nguyên giới thiệu mình suốt đời làm công tác nghiên cứu mà lại không hề biết những nhân vật đã tiếp xúc với ông Mạnh là ai. Thế thì Thượng Nguyên đã nghiên cứu cái gì? Những người làm công tác nghiên cứu ở trang lứa 60, 70… trở lên, ai mà chẳng biết nhà văn Vũ Thư Hiên hội viên Hội nhà văn Việt Nam là con lớn của cụ Vũ Đình Huỳnh nguyên thư kí riêng của ông Hồ và nhiều năm cụ Huỳnh đã sống bên cạnh ông ấy. Ai mà chả rành Dương Thu Hương là ai? Ai mà chẳng biết giáo sư Ngô Thúc Lanh, nhà toán học nổi tiếng quê ở làng Gáo - Tảo Khê – Vân Đình - Ứng Hoà – Hà Tây cũ. Ai chả rành Văn Tân là một học giả nổi tiếng về nhiều lĩnh vực. Ai trong giới nghiên cứu mà trong đời chẳng một lần lật giở những trước tác, khảo cứu của ông Văn Tân. Có lẽ chỉ có một mình nhà nghiên cứu Thượng Nguyên là không biết những nhân vật nổi tiếng này.

Tôi không hiểu là một nhà nghiên cứu, ông Thượng Nguyên giao tiếp với bạn bè theo kiểu cách gì mà ông lại dị ứng với cách giao tiếp của ông Mạnh với mọi người như thế. Có thể Thượng Nguyên giao tiếp với ai xong là đến màn trao cho nhau những những chứng cớ theo kiểu “ông đưa chân giò bà thò chai rượu” cũng nên! Tôi nghĩ, nếu mọi giao tiếp trong đời sống đều phải tuân thủ cái quy định thô thiển đó thì có lẽ chẳng ai dám nói chuyện với ai.

Thượng Nguyên nói chương 7 trong hồi ký của ông Mạnh là chương độc nhất, ác nhất và xấu nhất nói về Hồ Chí Minh và những người dưới quyền ông, là người luôn cổ xuý cho một đời sống đa nguyên, tôi quan niệm đó là quyền phát biểu ý kiến của Thượng Nguyên. Tôi cũng rất coi trọng ý kiến cho rằng, chương 7 hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh là một chương hay về Hồ Chí Minh vì chương này đã đem lại cho người đọc một hình ảnh lãnh tụ thật hơn, đời hơn và nhân bản hơn. Thượng Nguyên viết:

“Cuối cùng là chính thức ông giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh tận mắt thấy Chủ Tịch Hồ Chí Minh chỉ có 2 lần. Đó là từ sau cách mạng tháng 8/1945, Bác Hồ về thăm Bắc Ninh. Lúc đó ông NĐM dậy học cấp 2 ở trường Hàn Thuyên (trong khối học sinh đứng vẫy cờ đón Bác). Lần thứ 2 vào khoảng 1961 khi Bác Hồ về thăm Nghệ An. Lúc đó ông NĐM công tác ở ĐHSP Vinh. Như thế có nghĩa là 2 lần ông Mạnh tận mắt nhìn thấy cụ Hồ, không liên quan gì tới những nội dung vớ vẩn, bậy bạ ông thể hiện trong chương 7 này” (Hết trích) 

Tôi không thể hiểu nổi nhà nghiên cứu Thượng Nguyên dựa vào đâu mà tự đề ra quy định, muốn viết về ai thì phải sống với người đó. Xin hỏi các ông đã từng có bài đánh giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh như: Nguyễn Văn Lưu, Đặng Huy Giang, Nguyễn Hữu Thắng, Đỗ Hoàng và ngay cả Thượng Nguyên… vậy ai trong số các quý vị đã từng sống với gia đình ông Mạnh mà nay các ông tung bút dữ dằn đến thế? Để thêm phần thuyết phục, Thượng Nguyên hạ bút khoe:

“Bởi làm công tác nghiên cứu, tôi có may mắn được tiếp cận với nhiều nguồn tài liệu. Đặc biệt là nguồn từ cơ quan tình báo, an ninh (chủ yếu xâm nhập từ nước ngoài vào và quần chúng trong nước khi nhận được đã giao nộp cho cơ quan an ninh). Tôi nhớ cách nay trên 10 năm, lục trong cái đống hổ lốn tài liệu phản động ấy thống kê lại thấy có tới mười mấy %(?) là tài liệu mà kẻ địch và phần tử xấu tập trung đả kích, bôi nhọ uy tín lãnh tụ Hồ Chí Minh mà trong đó một số bản có những chi tiết giống như trong chương 7 của hồi ký NĐM. Hồi đó, tôi nghe nói (Lại là tôi nghe nói!? – NTL) các cơ quan chức năng đã tiến hành truy tìm nguồn gốc tài liệu này, nhưng không rõ kết quả ra sao?”(ThượngNguyên báo đã dẫn).

Tôi nghĩ, nếu quả thật có một nhà nghiên cứu Thượng Nguyên thật thì đó cũng chỉ là một nhà nghiên cứu kiểu thầy bói sờ…voi mà thôi. Chẳng có một nhà nghiên cứu nào mà lại có phương pháp luận nghiên cứu là “Tôi nghe nói…” để rồi viết ra những dòng chữ cực kỳ vô trách nhiệm với người được nghiên cứu, mà đối tượng được nghiên cứu ở đây lại là một giáo sư nổi tiếng. Thượng Nguyên lớn tiếng chỉ trích ông Mạnh là “Đồ hóng hớt”, là “Nghe hơi nồi chõ” thì với đoạn trích trên, Thượng Nguyên cũng bộc lộ mình cũng rứa! Đặc biệt tệ hại là Thượng Nguyên buông thõng một kết luận hết sức phản cảm: “Không rõ kết quả ra sao…!?”. Rất may, có lẽ Thượng Nguyên chỉ là một nhà nghiên cứu cấp Phường chứ Thượng Nguyên mà ngồi ghế chánh toà thì vô khối lương dân phải chết oan vì ông .

Cùng với những phát triển như vũ bão của cách mạng KHKT, đặc biệt là những tiến bộ vượt bậc của công nghệ thông tin, trong một thế giới hội nhập, nhân loại của thế kỷ 21 đang hồ hởi, vùng vẫy để bước ra khỏi những định kiến chính trị đầy kìm hãm, thoát khỏi các loại vỏ kén chính trị đầy giáo điều gò bó để khẳng định tầm vóc đích thực của mình, của dân tộc mình, quốc gia mình thì Thượng Nguyên lại tỏ ra thích thú giới thiệu mình như sứ giả của một thời mông muội:

“Bao năm làm cái nghề nghiên cứu, chỉ quen đọc tài liệu có sẵn do người ta chuyển tới, ngồi phân loại rồi đọc, thành ra cái khoản mạng mung kể như mù tịt(!?)”. (Hết trích)

Theo Thượng Nguyên kể, cuối cùng nhờ được một thằng cháu nào đó làm tin học, nó truy cập hộ cho để Thượng Nguyên nghiền 302 trang “Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh” chỉ trong một đêm là xong béng, lại có chương, có đoạn Thượng Nguyên nói phải đọc tới 2 lần! Tôi nghĩ Thượng Nguyên bịa quá dở. Một cuốn sách viết về cả một đời đi học, dậy học, viết văn của giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh, nhà văn Nguyễn Đăng Mạnh mà Thượng Nguyên chỉ lườm nguýt có một đêm lại đọc trên máy tính rất khó đọc thì đây thực sự là một kỉ lục mà không một Blogger nào có thể phá được. 

Tôi nghĩ, Thượng Nguyên chưa đọc hồi ký NĐM, ông ta chỉ nghe người ta kể lại rồi đặt hàng để ông ta viết bài đánh mà thôi. Thượng Nguyên lý giải thế nào về hiện tượng ông Nguyễn Đăng Mạnh viết chữ “Tắc” thì Thượng Nguyên lại luận ra là chữ “Tộ” sau đây: Trang 121 ông Nguyễn Đăng Mạnh viết trong hồi ký của ông:

Tôi được tận mắt thấy Hồ Chí Minh 2 lần. Lần thứ nhất sau cách mạng tháng 8. Sau cuộc khởi nghĩa tháng tám 1945 bố tôi đưa cả gia đình về Thị xã Bắc Ninh. Tôi tiếp tục học cấp 2 ở Trường Hàn Thuyên… (Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh).

Nhà nghiên cứu Thượng Nguyên lại luận ra là: “Cuối cùng chính thức ông Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh tận mắt thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có 2 lần. Đó là từ sau cách mạnh tháng 8 năm 1945. Bác Hồ về thăm Bắc Ninh. Lúc đó ông Nguyễn Đăng Mạnh dậy học cấp 2 ở Trường Hàn Thuyên (!?) (ANTG số 815- Thượng Nguyên). 

Thế mà Thượng Nguyên hối hả đi đến kết luận: “BIỆN PHÁP XỬ LÝ NÀO TRƯỚC SỰ VIỆC TRÊN?”

Thưa các đồng nghiệp! Thưa các thầy cô giáo dậy văn trên nhiều vùng đất nước đã từng thụ nghiệp từ thầy Nguyễn Đăng Mạnh! Thưa các Thạc Sĩ, các Tiến Sĩ văn chương đã từng được Thầy Mạnh dìu dắt! Các vị nghĩ gì về những dòng chữ mà nhà nghiên cứu Thượng Nguyên đã viết về người thầy của các quý vị? Phần tôi, tôi nghĩ chỉ có những kẻ chuyên sài bằng giả và cả đời kiếm sống bằng nghề bưng bô mới viết lên những dòng chữ bố láo như thế này:

“Một nhà giáo Nhân Dân, một giáo sư văn chương, Giải thưởng nhà nước về Văn Học - Nghệ Thuật đã từng vang bóng một thời. Theo thiển ý của tôi, để thanh thản quãng đời còn lại, tốt nhất là ông nên trả lại những gì người ta đã dành cho ông (Học hàm, Học vị, Danh hiệu, Giải thưởng…) ẵm nó làm gì để trong lòng canh cánh bao nỗi hận. Và nếu có thể hãy tìm đến một nơi nào đó trên hành tinh này, mà ở nơi đó người ta có thể ban thưởng cao hơn, xứng tầm với trí tuệ của ông” (Báo đã dẫn) Tôi linh cảm thấy hình như chẳng có một Thượng Nguyên bằng xương bằng thịt nào hết, Thượng Nguyên ở đây là một nhóm người có văn hóa của những kẻ chuyên sài bằng giả mà thôi.

*

Trong một bài viết khác, có nội dung tương tự nhưng của tác giả Nguyễn Văn Lưu, Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh lại phải chịu những đòn đánh “Quỷ khóc - Thần sầu” kiểu khác. Nguyễn Văn Lưu chê Nguyễn đăng Mạnh là trịch thượng là không hiểu gì về tiếng Việt khi ông Mạnh gọi Stalin (Đại nguyên soái quân đội Xô viết, Nhà lãnh đạo Liên bang Xô Viết), Churchil (Thủ tướng Anh), Roosevelt (Tổng thống Hoa Kì) là “3 tay này…”!?.Tôi không hiểu người dân Anh, dân Mỹ họ kính yêu Thủ tướng, Tổng thống của họ theo kiểu cách gì? Không biết họ có tung hô các ông này như người Việt Nam tung hô Bác Hồ của người Việt Nam không? Tôi biết chỉ có ông Tố Hữu có câu thơ tung hô ông Stalin đã làm người Việt Nam có tự trọng nào cũng rất ngượng: “…Tiếng đầu đời con gọi Stalin!” .Tôi e rằng, ông Lưu sẽ mắng ông Tố Hữu: Gọi như thế cũng là trịch thượng, phải gọi là: “…Tiếng đầu đời con gọi bác Stalin!” mới là đúng tiếng Việt!

Thưa nhà lý luận phê bình Nguyễn Văn Lưu, ông thần đồng Trần Đăng Khoa lúc 9 – 10 tuổi viết về Tổng thống Mĩ còn sách mé, trịch thượng hơn ông Nguyễn Đăng Mạnh nhiều, ông Khoa viết: “...ngu xuẩn nhất nhì là Tổng Thống Mỹ!” sao không thấy ông nổi đoá lên! Cứ theo cái logic kính yêu & sự sành sỏi về tiếng Việt của ông thì từ nay dân Việt sẽ phải gọi các bậc Tiên Đế của mình gắn liền với những tiền tố, tiếp đầu ngữ gì…thì mới là đúng tiếng Việt? Tôi không phải là NHÀ, là LỀU gì, tôi thất vọng về chuyện này quá. Chẳng lẽ văn đàn nước Việt đã tàn mạt đến mức, giờ đây các NHÀ chỉ chăm chú vào những chuyện vớ vẩn như thế để bắt bẻ nhau cho qua ngày đoạn tháng hay sao? Dựa trên những bắt bẻ về từ ngữ, Nguyễn Văn Lưu đã vội quy kết Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh là trịch thượng và không am tường tiếng Việt!? (Còn nữa)

Đón đọc: Phần II - “Suy nghĩ về “Mặt Trời” trong lăng Ba Đình”

Hà Đông 2 - 2018


- Nguyên giáo viên dậy Địa Lý GD-ĐT Hoà Bình-Hà Tây
- Nơi ở :Văn la – Phú La – Hà Đông – Hà Nội.
- ĐT: 0433521066 & 01652323836






No comments: