Anne-Marie
Slaughter & Mira Rapp‑Hooper – Project
Syndicate
Biên
dịch: Đậu Thế Hoàng | Biên tập: Lê Hồng
Hiệp
Posted on 07/03/2017
Dựa vào hành vi của Tổng thống Mỹ Donald Trump kể từ
sau khi thắng cử, cũng như qua thông điệp rõ ràng theo hướng biệt lập chủ nghĩa
trong tuyên bố nhậm chức của ông, có vẻ như sẽ an toàn nếu đánh giá rằng chính
sách đối ngoại của chính quyền Trump sẽ xóa tan nhiều giả định lâu nay về vai
trò của Mỹ trên thế giới. Điều này có thể sẽ gây hoang mang lớn cho các đồng
minh châu Á của Mỹ.
Vẫn còn quá sớm để kết luận chính xác ý nghĩa thực sự
mà nhiệm kỳ tổng thống của Trump có thể có đối với châu Á là gì. Rất nhiều khả
năng có thể xảy ra. Trump có thể đảo ngược chính sách “xoay trục” chiến lược
sang châu Á của Tổng thống Barack Obama, để cho khu vực này nằm trong tình trạng
hỗn mang. Cũng có thể ông vẫn duy trì sự tập trung vào châu Á, song bằng một
cách thức tiếp cận thiên về quân sự hơn. Hoặc ông có thể cùng Trung Quốc tạo
nên thứ gọi là G2 của hai cường quốc lớn nhất thế giới.
Trong bất cứ trường hợp nào thì rõ ràng là sau nhiều
thập niên duy trì sự tiếp nối (trong chính sách), kể từ khi Tổng thống Richard
Nixon và cố vấn an ninh quốc gia Henry Kissinger thực hiện chuyến thăm bất ngờ
tới Trung Quốc vào năm 1972, chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc giờ lại đang
là một câu hỏi bỏ ngỏ. Những quốc gia vốn có nền quốc phòng phụ thuộc vào sự bảo
đảm an ninh của Mỹ như Nhật Bản, Hàn Quốc và Australia đều bày tỏ sự quan ngại
sâu sắc.
Nhiều quốc gia châu Á đã quen với cam kết bảo đảm an
ninh của Mỹ thông qua sự can dự chính trị sâu sắc và có thể đoán trước với Mỹ.
Trái với các thỏa thuận an ninh đa phương như NATO, các liên minh của Mỹ ở châu
Á được dựa trên các hiệp ước song phương riêng lẻ. Do đó, những nước này rất dễ
bị tổn thương trước các dao động của chính quyền Trump.
Các liên minh song phương gia tăng sự kiểm soát của
một cường quốc lên các đồng minh nhỏ hơn, trong khi những thỏa thuận đa phương
phân bổ quyền lực và sự ảnh hưởng một cách đồng đều hơn. Đây chính là thực tế
đang diễn ra tại châu Á, khi Mỹ là trung tâm của hệ thống ‘trục và nan hoa’,
còn các quốc gia khác được kết nối với nhau thông qua duy nhất một trung tâm
đó. Cấu trúc này còn được gọi là mạng lưới hình ngôi sao, rất hữu hiệu để phối
hợp hành động và tích tụ nguồn lực.
Như nhà khoa học chính trị Victor Cha lập luận trước
bầu cử, những dịch chuyển về năng lực trong khu vực, sự nổi lên của các mối đe
dọa và thách thức mới, cũng như việc mở rộng kết nối trong thế kỷ 21 đòi hỏi một
cấu trúc an ninh mới có tính đa phương hơn. Việc Trump nghi ngờ các thể chế đa
phương và không chấp nhận các chi phí cho sự thuyết phục, chi phí bên lề và cơ
cấu mà một sự lãnh đạo tập trung yêu cầu, khiến quá trình chuyển đổi đó càng
thêm cấp thiết.
Thay vì thất vọng, các đồng minh châu Á của Mỹ nên tự
giải quyết vấn đề và bắt đầu liên kết với nhau. Bằng cách xây dựng và thể chế
hóa quan hệ với nhau, những nước này có thể tái định hình mạng lưới an ninh của
mình trong khu vực từ cấu trúc hình ngôi sao mà Mỹ là trung tâm thành kiểu mô
hình dạng lưới, trong đó họ liên kết với nhau như đã làm với Mỹ. Hệ thống này
có thể củng cố sự ổn định trong những giai đoạn bất ổn theo ba cách cốt yếu.
Thứ nhất, nếu Mỹ không thể thực hiện các cam kết khu
vực, ví dụ như tham gia xây dựng năng lực cho các đối tác đang đương đầu với
các yêu sách chủ quyền hung hăng của Trung Quốc trên Biển Đông, thì các đối tác
liên kết có thể giúp các đồng minh của Mỹ bù đắp điều đó. Nhật Bản, Australia
và Hàn Quốc đã hỗ trợ an ninh cho các quốc gia Đông Nam Á trên cơ sở song
phương. Một cơ chế phối hợp đa phương sẽ giúp cho những nước này hài hòa hóa
các nỗ lực của mình, từ đó thúc đẩy năng lực theo đuổi các lợi ích an ninh
chung, ngay cả khi nguồn lực và khả năng lãnh đạo của Mỹ đang bị suy yếu.
Mặt khác, nếu các đồng minh ở châu Á đang nghi ngờ
các ý định của Mỹ, thì những đối tác liên kết có thể tạo cho họ sự ảnh hưởng nhằm
đòi hỏi tính minh bạch lớn hơn. Mỹ thường thảo luận riêng lẻ với từng đồng minh
ở Nhật Bản và Hàn Quốc về các vấn đề quốc phòng và nhân quyền nhạy cảm liên
quan tới Triều Tiên. Đây là lý do khiến hai nước này đều phải phụ thuộc vào Mỹ
về thông tin lẫn năng lực.
Tuy nhiên, bằng cách ứng phó với Triều Tiên dựa theo
cấu trúc ba bên, Hàn Quốc và Nhật Bản có thể liên kết thông tin nhận được từ Mỹ
và tăng cường vai trò của mình trong việc hình thành biện pháp đối phó. Thỏa
thuận chia sẻ tình báo chung GSOMIA mới đây giữa hai nước là một bước đi quan
trọng để nâng cao tính minh bạch như vậy thông qua hình thức liên kết.
Tương tự, cách thức tiếp cận liên kết này có thể đặt
các quốc gia châu Á vào một vị trí vững chắc hơn để kiềm chế Mỹ nếu chính quyền
của Trump có những hành động gây bất ổn trong khu vực, ví dụ như việc gia tăng
căng thẳng với Trung Quốc. Trump hiện đang làm dấy lên nghi ngờ về cam kết của
ông ta đối với chính sách “một Trung Quốc”, bao gồm việc nhận một cuộc điện thoại
chúc mừng của tổng thống Đài Loan sau cuộc bầu cử, và đe dọa áp thuế quan cao
lên Trung Quốc, nước vốn bị ông cáo buộc (sai) là phá giá tiền tệ trong nước để
giành được lợi thế thương mại không công bằng.
Nếu Trump tiếp tục duy trì hướng đi này, Trung Quốc
sẽ đáp trả bằng hành động tương tự như đã từng tuyên bố. Những động thái này đều
không có lợi đối với các đồng minh của Mỹ.
Dĩ nhiên, nếu một trong số các đồng minh tương đối
nhỏ của Mỹ nỗ lực thách thức các hành động của Mỹ, thì nước đó sẽ phải đối mặt
với cái giá rất đắt còn cơ hội thành công là rất thấp. Nhưng nếu các đồng minh
bắt tay nhau thông qua các thể chế quốc tế và đối thoại đa phương, thì họ sẽ có
thể thuyết phục được chính quyền của Trump thay đổi phương thức giải quyết mà
không gây tổn hại tới lợi ích cốt lõi của riêng mình.
Tin tốt là các đồng minh của Mỹ ở châu Á sẽ không bắt
đầu từ con số không. Trong vài năm trở lại đây, một số mạng lưới đang dần hình
thành một cách hữu cơ. Nhật Bản đã ký kết nhiều thỏa thuận an ninh và kinh tế
song phương với Philippines và Australia. Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
không chỉ là một tổ chức liên kết chặt chẽ, mà nó còn tích cực nuôi dưỡng nhiều
mối quan hệ đối tác với các nước láng giềng Đông Bắc Á thông qua một loạt các
thỏa thuận song và đa phương.
Chính quyền của ông Obama từng công nhận xu thế này.
Năm 2016, nước Mỹ tiến hành xúc tiến ý tưởng một “mạng lưới an ninh có nguyên tắc”
tại châu Á, một khẩu hiệu mà dường như không thể tồn tại dưới thời của tổng thống
Trump. Obama cũng từng tổ chức nhiều cuộc gặp ba bên với Nhật Bản và Hàn Quốc.
Những hệ thống dạng mạng lưới có đặc điểm rất bền chắc,
bởi vì không một nốt riêng lẻ nào quan trọng đối với sự sống còn của cấu trúc
đó, ngay cả khi một liên kết bị gãy thì cấu trúc vẫn tồn tại. Lô-gich này được
sử dụng để thiết kế mọi thứ từ hàng rào cho tới lưới đánh cá. Đã đến lúc áp dụng
nó trong các dàn xếp an ninh của châu Á. Nếu các đồng minh của Mỹ ở châu Á đi
những nước cờ đúng đắn, họ có thể sẽ nổi lên từ kỷ nguyên của Trump một cách bền
bỉ và vững chắc hơn bao giờ hết.
-------------
Anne-Marie
Slaughter, cựu Vụ trưởng Vụ hoạch định chính sách, Bộ Ngoại
giao Mỹ (2009-2011), là Chủ tịch và CEO của viện nghiên cứu chính sách New
America, Giáo sư hưu trí về Chính trị và Quan hệ quốc tế tại Đại học Princeton,
và là tác giả của cuốn sách: Unfinished Business: Women Men Work Family.
Mira
Rapp‑Hooper là thành viên cao cấp của Chương trình An ninh châu
Á-Thái Bình Dương tại Trung tâm An ninh Hoa Kỳ mới (CNAS).
Copyright: Project Syndicate 2016 – How
America’s Asian Allies Can Survive Trump
No comments:
Post a Comment