Ngô Nhân Dụng
11/07/2015
Kể từ ngày 12 tháng Sáu năm 2015, giá trị các cổ phiếu
ghi danh trên thị trường chứng khoán Trung Quốc đã sụt mất hơn một phần ba, giảm
bớt 3,250 tỷ đô la, số tiền lớn bằng giá trị tất cả các công ty trong thị trường
chứng khoán nước Pháp, hoặc 60% giá trị của thị trường Nhật Bản. Hiện tượng chảy
máu đã tạm ngưng, thị trường bắt đầu lên được trong hai ngày 9 và 10 tháng Bảy,
sau khi chính quyền “ra lệnh” cho giới đầu tư “phải mua” hoặc “không được bán”.
Đảng
Cộng sản Trung Quốc có vẻ đã tạo được một “thị trường ổn định”, nhưng trong thực
tế không còn thị trường nữa mà phải gọi gọi đó là kinh tế chỉ huy. Kinh tế thị
trường đưa tới thịnh vượng là nhờ mọi người tự do quyết định khi mua bán, trao
đổi. Giá cả lên xuống là dấu hiệu cho biết thế thăng bằng giữa cung và cầu. Thị
trường là cơ chế tự điều chỉnh vì người mua kẻ bán tính toán theo những tín hiệu
đó mà quyết định sản xuất hay tiêu thụ, mua hay bán. Thiếu điều kiện “tự do
trao đổi” thì giá cả bị méo mó, không còn là “tín hiệu” nữa, hiển nhiên là
“không đáng tin”.
Sau
hơn hai tuần lễ thị trường hỗn loạn, Đảng Cộng sản Trung Quốc coi như đã “xóa bỏ”
cơ chế thị trường. Họ ra lệnh hệ thống ngân hàng của nhà nước phải cho
những người mua cổ phiếu được vay tiền một cách dễ dãi hơn. Họ thổi phồng một
quả bóng đã quá căng, vì chính hiện tượng người mua cổ phiếu vay nợ quá nhiều
là một nguyên nhân gây ra cơn khủng hoảng. Đồng thời, họ đưa thêm tiền cho các
công ty môi giới chứng khoán và ra lệnh phải góp nhau hai chục tỷ đô la để mua
các cổ phiếu những công ty và ngân hàng lớn nhất do nhà nước điều khiển; mục
đích là ghìm giữ một cách giả tạo không cho giá xuống, bảo vệ uy tín của Tập Cận
Bình và Lý Khắc Cường. Sau khi đưa ra hai biện pháp này, thị trường vẫn tiếp tục
xuống trong ba ngày liền, họ phải làm mạnh tay hơn nữa: Ra lệnh những cơ sở đầu
tư lớn không được bán cổ phiếu những công ty nào mà họ làm chủ trên 5% số cổ phần
của công ty đó. Không cho bán ra, giống như bịt cái mạch máu không cho chảy ra
nữa, thì cơn xuất huyết ngừng. Mặt khác hơn một nửa các công ty ghi tên trên thị
trường chứng khoán đã đình chỉ việc mua bán cổ phần của họ. Bởi vì nhiều công
ty khi vay tiền đã dùng cổ phần của chính họ làm thế chấp. Khi cổ phần xuống
giá, họ phải trả bớt nợ; cho nên ngưng mua bán là để giữ nguyên giá trị món thế
chấp vì giá không xuống nữa! Sau đó, chỉ số Thị trường Thượng Hải đã tăng lên gần
6% ngày Thứ Năm và 4.5% trong ngày Thứ Sáu, 10 tháng Bảy.
Chính
quyền Bắc Kinh đã tạm thời ngăn được không cho cơn sốt tăng nhiệt độ. Nhưng làm thế nào cứu mạng được bệnh nhân bằng cách bịt tắc mạch
máu của họ mãi mãi. Lệnh cấm bán được tạm thi hành trong sáu tháng, lệnh bắt buộc
mua cũng không thể kéo dài. Sau sáu tháng, chưa biết chuyện gì sẽ xẩy ra. Nhưng
một hậu quả chắc chắn là chương trình cải tổ cơ cấu nền kinh tế Trung Quốc đã dừng
lại, quay ngược chiều. Năm 2013, ông Tập Cận Bình đề ra chủ trương mới, ghi vào
cương lĩnh: Thị trường sẽ đóng vai trò trọng
yếu trong việc phân bố tài nguyên trong nền kinh tế. Đây là chủ trương thị
trường hóa, cho thị trường dần dần thay thế vai trò điều động của nhà nước để nền
kinh tế sẽ hướng về người tiêu thụ thay vì hoàn toàn lệ thuộc các cuộc đầu tư
phần lớn vô ích của nhà nước trung ương và địa phương. Trong ba tuần qua, chính
sách đó đã bị hy sinh, để tạm thời ổn định thị trường. Việc này gây hậu quả lâu
dài, vấn đề sẽ bàn trong một bài sau.
Một
đàn cừu đầu tư chứng khoán
Giá chứng khoán sụp đổ từ giữa tháng Sáu 2015 vì
trong năm qua đã lên cao một cách giả tạo. Bình thường, giá các cổ phiếu phản
ánh kỳ vọng về lợi nhuận tương lai của các công ty. Từ hai năm nay, số sản xuất
trong nền kinh tế Trung Quốc bắt đầu trì trệ, vì hầu hết tùy thuộc hàng xuất cảng
trong khi kinh tế thế giới đang trì trệ, khó bán hàng. Hơn nữa, trong các năm
trước chính quyền muốn đạt tỷ lệ tăng trưởng 9%, 10% một năm, đã đổ tiền đầu tư
vào việc xây dựng, đã tới lúc phải ngưng vì nhà máy mới dựng lên quá nhiều
không đủ việc làm. Từ đầu năm 2015 lợi nhuận các công ty Trung Quốc đã giảm so
với năm trước. Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cũng thấp hơn, đang từ 9 hay 10% xuống
7%.
Trong tình trạng như vậy mà giá các cổ phiếu lại
tăng lên hơn gấp đôi, ai cũng biết rằng có gì không ổn. Giá cả không phản ảnh
tình trạng thật mà do tâm lý thúc đẩy, người đầu tư chạy theo nhau mà không
quan tâm đến thực tế. Giống như tình trạng địa ốc ở Mỹ những năm 2006, 2007.
Giá nhà tăng vọt nhờ việc vay tiền dễ dàng với lãi suất thấp trong khi dân số
không tăng, lợi tức đầu người cũng không tăng; sẽ tới lúc giá cả phải xuống. Từ
tháng Năm 2015, một số công ty tài chánh quốc tế đã khuyến cáo thân chủ nên bán
cổ phiếu Trung Quốc.
Tại sao cổ phiếu Trung Quốc đã lên cao bất thường
như vậy?
Vì nhiều người trong guồng máy cai trị muốn đẩy thị
trường lên. Họ dựa vào chủ trương “cải tổ” mà Đảng Cộng sản đã đề ra từ năm
2013: Những người muốn đẩy thị trường lên có mục đích riêng của họ, rất có thể
họ kiếm lợi rất nhiều khi giá chứng khoán tăng lên, và biết tháo chạy ngay khi
nó mới xuống. Ngay khi thị trường suy sụp nặng trong tuần lễ đầu tháng Bảy, nhà
nước đã tung tin sẽ điều tra và trừng trị những kẻ “đầu cơ trục lợi”. Mới đầu
dân Trung Hoa trên mạng đã đổ tội cho người ngoại quốc bán non các cổ phiếu,
sau đó chính quyền phải cải chính để đỡ mất uy tín.
Để đẩy cho thị trường chứng khoán lên, guồng máy
tuyên truyền của Đảng Cộng sản được tích cực sử dụng. Họ cổ võ việc mua chứng
khoán để làm giầu, thực hiện “Trung Quốc Mộng” (中国梦). Trong tháng Tư năm 2015 có gần 20 ngàn trương mục
mới mở mua bán cổ phiếu. Một người có thể mở 20 trương mục. Ai đã ra lệnh cho
các báo, đài của Đảng Cộng sản làm công việc này? Những người đó có thể tự biện
hộ rằng họ chỉ thi hành chủ trương “thị trường hóa kinh tế” của đảng. Trong thực
tế, họ coi những nhà đầu tư nhỏ như một đàn cừu để họ dẫn lối cho đi.
Một hành động khác thúc đẩy giá thị trường lên là hệ
thống cho vay tiền để mua cổ phiếu, gọi là margin trading. Trong năm qua số người
mua cổ phiếu bằng tiền vay đã tăng thêm, thúc đẩy giá lên cao. Khi thị trường sụt
mất một phần ba giá trị vào ngày Thứ Sáu 3 tháng 7, cơ quan điều hành thị trường
của chính phủ còn nới lỏng điều kiện vay tiền hơn, thậm chí cho phép dùng nhà ở
làm thế chấp khi vay. Không khác gì đem cầm thế nhà để đánh bạc! Ngày Chủ Nhật, Nhân
dân nhật báo loan tin lớn: “Các chuyên gia tin tưởng thị trường sẽ
không xuống nữa”. Ngày Thứ Hai và Thứ Ba, thị trường vẫn xuống, sang Thứ Tư,
Thượng Hải xuống thêm 8%.
Vì Đảng
Cộng sản thúc đẩy bằng báo chí và cho vay tiền, nhiều người Trung Hoa đã bước
vào thị trường chứng khoán tăng lên trong một năm qua. Trong một năm, giá trị các chứng khoán trong thị trường lên đến 10 ngàn
tỷ mỹ kim vào đầu tháng Sáu, tăng thêm 6.7 ngàn tỷ, bằng trị giá tất cả thị trường
Tokyo!
Lý do chính khiến thị trường chứng khoán Trung Quốc
dao động mạnh hơn các nơi khác là vì 80 đến 85% trong số những người mua bán cổ
phiếu chỉ là những người dân bình thường. Tại các nước tiên tiến thì ngược lại,
hơn 80% các vụ mua bán (transactions) trên thị trường là do giới chuyên nghiệp
thuộc các quỹ công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư và công ty tài chánh lớn; giới đầu
tư lẻ chỉ chiếm 10% đến 15% các vụ mua bán mỗi ngày.
Nhiều doanh nghiệp nhà nước có tiền chưa dùng tới
cũng đem mua cổ phiếu. Khi thị trường địa ốc đứng khựng lại, nhiều người trung
lưu có sẵn tiền chuyển sang mua cổ phiếu. Các nông dân ra ruộng cho tới các
sinh viên chưa ra trường cũng có khi mang theo điện thoại di động để mua bán cổ
phiếu. Vì cả guồng máy tuyên truyền vẽ ra hình ảnh một giấc mộng đẹp dễ dàng. Họ
coi như đem tiền đi đánh bạc; với niềm tin tưởng ngây thơ rằng giá cổ phiếu chỉ
lên chứ không thể xuống. Cuối tháng Sáu vừa qua, số tiền nợ do các nhà đầu tư
vay của các công ty môi giới lên tới 2,200 tỷ đồng nguyên, khoảng 370 tỷ đô la
Mỹ. Nhưng đó chỉ là tiền vay qua hệ thống chính thức, số tiền vay qua một “hệ
thống xám” bên lề còn lớn hơn.
Giới “đầu tư lẻ” kể trên đã hăng hái nhảy vào thị
trường khi nó đang lên; họ vay tiền để góp phần thổi cho quả bong bóng chứng
khoán căng phồng. Họ rơi vào một cái bẫy, gánh chịu phần lớn trong số mất mát
hơn 3,200 tỷ đô la. Nhưng chắc chắn có những nhà đầu tư khác đầy đủ thông tin
hơn, đã biết đường tháo chạy và kiếm lời lớn trước khi thị trường sụp đổ. Họ là
những ai, chúng ta có thể biết được.
Hệ
thống tài chánh Xám
Bên cạnh hàng trăm triệu nhà đầu tư lẻ còn có các đại
gia và quan chức sử dụng các ngân hàng nhà nước hùn vốn lập ra những quỹ đầu tư
lớn dưới nhiều hình thức, bên ngoài hệ thống kiểm soát ngân hàng và điều hòa chứng
khoán.
Các ngân hàng thương mại, trong đó có năm ngân hàng
lớn của nhà nước, lập ra những công ty tín thác (trust, 信托公司) để có thể hoạt động bên ngoài
luật lệ ngân hàng. Các quỹ tín thác có thể hứa trả lãi suất cao hơn để thu hút
thân chủ, trong khi các ngân hàng thì bị nhà nước giới hạn, thường ở mức 3% một
năm. Họ dùng tiền thu được mua cổ phiếu và cho vay. Đến ngày 31 tháng Ba, 2015,
giá trị các cổ phiếu do 68 quỹ tín thác làm chủ lên tới 777 tỷ đồng nguyên (124
tỷ đô la). Trong ba tháng đầu năm trị giá những cổ phiếu của họ tăng thêm 225 tỷ
đồng nguyên (36 tỷ mỹ kim), theo thống kê chính thức. Nếu lúc đó họ bán ra, mức
lời là 33% trong ba tháng! Trong những thị trường bình thường khó ai đạt được
thành tích đó.
Các ngân hàng và quỹ tín thác lại gây thêm vốn qua
nhiều hình thức khác, những quỹ được tạo ra với các danh hiệu mới để hoàn toàn
nằm bên ngoài thẩm quyền của những cơ quan quản lý chứng khoán của nhà nước.
Một hình thức quỹ đầu tư khác là những Công ty Góp vốn
Cổ phần (Cổ phần thất phối công ty,股份匹配公司, stock-matching endowment firm) để hợp tác với các
ngân hàng trong việc mua bán cổ phiếu, vì chính các ngân hàng này không được
phép trực tiếp mua bán. Các ngân hàng nhỏ, các doanh nghiệp nhà nước dư tiền
thành lập các công ty góp vốn này để kiếm lời thêm. Mức lời cao hơn hẳn lợi suất
khi làm ăn chính thức với các hoạt động bình thường của họ.
Cả
ba định chế xám, các ngân hàng, công ty tín thác và công ty góp vốn, đều thu hút tiền của công chúng bằng cách phát hành những “chứng chỉ
quản lý tài sản” (lý tài sản phẩm, 理财产品,wealth management products, viết
tắt là WMP cho tiện). Họ bán những “sản phẩm” này cho những người quan hệ sẵn
tiền mà không muốn hoặc không có thời giờ trực tiếp mua bán cổ phiếu. Thân chủ
được hứa hẹn mức lời cao, ít nhất 2% cao hơn khi gửi ngân hàng. Nhưng mức độ rủi
ro của các WMP rất cao, vì hệ thống tài chánh xám dùng tiền gom được để đầu tư
hoặc cho vay để đầu tư vào thị trường chứng khoán. Những người mua WMP không được
thông báo đầy đủ để biết tiền của họ được dùng với rất nhiều rủi ro. Trong hợp
đồng họ ký vẫn có điều khoản nói rằng họ không có quyền khiếu nại nếu lợi suất
hứa hẹn không đạt được. Những người mua WMP phải đưa đầu chịu báng khi thị trường
sụp đổ vì đã ký như vậy; chỉ còn một cách là đi biểu tình phản đối, như đã xẩy
ra năm 2011.
Hệ thống tài chánh Xám dùng tiền thu được để cho các
nhà đầu tư lẻ vay mua cổ phiếu. Họ không bị kiểm soát như các công ty môi giới
chính thức nên có thể cho vay số tiền gấp 10 lần số vốn có sẵn. Những nhà đầu
tư nhỏ không thể vay nợ các ngân hàng của nhà nước đành phải đi vay các quỹ tín
thác. Trong các năm trước đây, các quỹ tín thác cũng bán các “lý tài sản phẩm”
WMP để thu tiền đem cho các nhà đầu tư địa ốc vay mượn, hoặc cho các xí nghiệp
vay ngắn hạn lấy suất lời rất cao. Gần đây thị trường địa ốc ngưng trệ cho nên
họ chuyển hướng cho giới mua cổ phiếu vay.
Ngồi
không kiếm lời dễ dàng
Các ngân hàng lớn của chính phủ Trung Quốc kiếm lời
dễ dàng nhờ cộng tác trong hệ thống Xám. Thí dụ, Ngân hàng Trung Quốc (Bank of
China, BoC) hợp tác với một Công ty Góp vốn, do một doanh nghiệp nhà nước
lập ra. Ngân hàng Trung Quốc bán các WMP cho thân chủ lấy 40 triệu
nguyên, còn Công ty Góp vốn đóng thêm 20 triệu. Với 60 triệu đồng, Công ty Góp
vốn đem cho các nhà đầu tư nhỏ vay, với lãi suất ít nhất là 15% một năm. Công
ty Góp vốn trả cho Ngân hàng Trung Quốc 10%, chỉ hưởng 5% tiền lời.
Ngân hàng Trung Quốc coi như ngồi không mà ăn 10% của 60 triệu!
Nhưng việc gom vốn bằng lý tài sản phẩm, WMP là một
hành động đầy rủi ro vì hệ thống tài chánh Xám thu hút ngày càng nhiều vốn, số
nợ của họ gia tăng trong khi khả năng kiếm lời trả nợ có giới hạn. Chính hệ thống
này đã thổi cho quả bóng địa ốc căng phồng lên, cho tới khi chính quyền thấy
nguy hiểm phải kìm bớt lại.
Một
rủi ro lớn là thời hạn chênh lệch của đầu vào và đầu ra. Các WMP đều đáo hạn trong thời gian ngắn, phải trả lãi và vốn. Trong
khi đó tiền thu được nhờ bán WMP thì được đầu tư vào cổ phần và trái phiếu là
những chứng khoán dài hạn. Trong nghề quản lý tài chánh khắp thế giới đều biết
rằng đáo hạn chênh lệch (duration mismatch) là một mối rủi ro rất lớn, vì khi
WMP đáo hạn thì không có tiền vì không thể bán các cổ phiếu hoặc trái phiếu khi
chúng đang xuống giá.
Chính một vị chủ tịch Ngân hàng Trung Quốc dã
báo động rằng hệ thống phát hành các WMP là một thứ “kim tự tháp” (Ponzi
scheme). Nghĩa là người ta kêu gọi bá tánh góp vốn hứa hẹn suất lời rất cao
nhưng chỉ lấy tiền của người góp sau trả cho người góp trước, chồng chất lên
nhau. Khi nào thiếu người góp thêm tiền thì cả hệ thống sụp đổ.
Vụ thất bại của Ngân hàng Hoa Hạ (Huaxia,华夏银行), năm 2011 là một trường hợp
đã gây sôi nổi một thời gian. Các nhà môi giới của quỹ tín thác do ngân hàng
này đứng đằng sau đã bán các WMP trị giá 12 ngàn tỷ đồng nguyên (gần 2 ngàn tỷ
mỹ kim) trong vòng sáu tháng đầu năm. Tháng 11, các nhà đầu tư nhỏ mua WMP, nhiều
người ở lớp tuổi 70, đã biểu tình tại Thượng Hải phản đối khi ngân hàng này
không trả được tiền lời 11% đến 13% như họ đã hứa hẹn. Cuối cùng, nhà nước phải
đem tiền ra cứu chữa. Trước đó, một ngân hàng khác ở Hà Nam đã không trả được
tiền vốn cho các thân chủ mua WMP, trị giá 430 triệu đồng nguyên. Nhưng vụ này
nhỏ và diễn ra ở xa các trung tâm tài chính cho nên không gây tiếng vang.
Hệ
thống tài chánh Xám là một quả bom nổ chậm đe dọa Trung Quốc, nhưng chính quyền không thể khép họ vào trong vòng kỷ luật vì cả hệ thống
ngầm này cũng giúp cho tiền vốn được luân lưu trong xã hội. Nếu chỉ có hệ thống
chính thức do nhà nước điều khiển thì không làm được vì quá cứng nhắc. Việc kiểm
soát hệ thống Xám cũng khó thực hiện vì đụng chạm quyền lợi của những người có
thế lực lớn, trong đó có chính các ngân hàng do nhà nước làm chủ.
Vì
sao giá chứng khoán xuống thê thảm?
Hệ
thống tài chánh xám giúp cho các ngân hàng lớn của nhà nước kiếm lời khi đầu tư
vào thị trường chứng khoán, mà theo quy chế họ không thể trực tiếp đầu tư. Các
quỹ tín thác và quỹ góp vốn được các xí nghiệp và ngân hàng nhà nước khuyến
khích nhưng hoạt động ngoài tầm kiểm soát của Ngân hàng Nhân dân cũng như các ủy
ban điều hành thị trường. Các ngân hàng lớn nắm đằng chuôi vì tất cả các hợp đồng
ghi rõ rằng nếu các quỹ trên thất bại thì phải trả lại vốn cho các ngân hàng đó
trước khi thanh toán cho các chủ nợ khác.
Hai
ngân hàng lớn nhất là Ngân hàng Trung Quốc (Bank of China,中国银行) và Ngân hàng Giao
thông (Bank of Communications, 交通银行) đều chuyển tiền qua
hệ thống xám để tham dự vào thị trường chứng khoán.
Cả
hệ thống nối kết này mới là những nhà “đầu tư lớn”, bên cạnh việc cho các nhà đầu
tư nhỏ vay. Khi mua bán cổ phần, họ nhận được các thông tin xác thực và đầy đủ,
họ thuê các chuyên gia tài chánh có tay nghề, và họ mua bán cổ phiếu một
cách hợp pháp, để sinh lời, mong có lời lớn để đủ tiền trả lãi cho những thân
chủ mua các WMP của họ.
Trong khi các nhà đầu tư nhỏ chạy đua nhau mua cổ
phiếu thì những nhà “đầu tư lớn” chờ giá lên mới từ từ bán ra. Đầu tháng Sáu thị
trường bắt đầu xao động khi chính quyền lo ngại, ban ra hai lệnh mới để kìm hãm
bớt cơn sốt chứng khoán. Một lệnh ấn định giới hạn số tiền vay mua cổ phiếu thấp
hơn, để giảm số tiền vay để đầu tư. Một lệnh khác ngăn bớt việc “bán non”
(short-selling), tức là các nhà đầu tư “mượn” những cổ phiếu mình không có đem
bán, hứa trả lại cổ phiếu trong một thời gian ngắn. Những người bán non
(short-sellers) tin rằng một công ty nào đó sẽ xuống, họ mượn cku của các công
ty này từ các nhà môi giới rồi bán ngay. Khi giá trị cổ phiếu đó xuống thật thì
họ sẽ mua đem trả lại cho chủ cũ, kiếm lời tức khắc; nếu họ đoán sai thì sẽ phải
chịu lỗ vốn.
Hai lệnh cấm trên khiến nhiều người trong thị trường
thấy có tín hiệu quá nhiều vụ đầu cơ trong thị trường, họ lo ngại rằng chính bọn
dầu cơ đã thổi cho thị trường lên một cách giả tạo để sau đó bán non kiếm lời. Chỉ
những chuyên gia thông thạo tin tức mới hiểu rằng thị trường lên gấp đôi chỉ vì
chế độ cho vay quá dễ dàng và được báo, đài của Đảng Cộng sản cổ võ.
Từ năm ngoái, khi thị trường đang lên mạnh, một số
nhà đầu tư lớn đã bắt đầu bán nhiều cổ phiếu mà họ đang giữ vì thừa biết rằng
quả bong bóng sẽ tới ngày xì hơi. Chắc họ không dại gì mà đem bán quá nhiều cổ
phiếu trong một lúc khiến thị trường xuống giá đột ngột, thiệt hại cho chính họ.
Nhưng khi thấy dấu hiệu thị trường đang xuống, sau ngày 13 tháng Sáu, 2015, một
số bắt đầu bán thì nhiều người khác cũng phải lo, bắt đầu bán thêm.
Hiện tượng các nhà đầu tư lớn bán cổ phiếu xuất hiện
vào cuối năm 2014. Trước đó, những công ty đầu tư lớn thường bán đi mỗi năm số
cổ phiếu trị giá 100 tỷ nhân dân tệ. Trong năm 2014, số cổ phiếu họ bán cao hơn
số mua vào 190 tỷ, gần gấp đôi, cho thấy họ mua vào ít, bán ra nhiều hơn. Riêng
trong nửa sau của năm 2014, số bán ra cao hơn số mua vào 162 tỷ. Trong năm
tháng đầu năm 2015 số bán ra hơn số mua vào tới 360 tỷ! Đó là thời gian chỉ số
thị trường Thượng Hải đang tăng 150% so với 12 tháng trước đó. Những con số
trên do David Cui, người nghiên cứu chiến lược đầu tư thuộc Bank of
America ở Hồng Kong cho biết. Từ giữa năm 2014 đến cuối tháng năm 2015, các “đại
gia đầu tư” đã bán ra số cổ phiếu trị giá hơn 520 tỷ đồng nguyên, gần 90 tỷ mỹ
kim, khi thị trường đang lên. Không biết lúc họ mua các cổ phiếu đó giá bao
nhiêu, nhưng chắc giá bán phải cao ít nhất gấp đôi giá mua. Họ đã lời hơn 45 tỷ
đô la Mỹ, trong vòng một năm! David Cui nhận xét: Thị trường chứng
khoán đã chuyển một số tài sản từ những người dân ngoài phố vào túi những người
giầu có, là những nhà đầu tư lớn biết bán đúng lúc thị trường đang lên.
Khi các đại gia bắt đầu bán nhiều thì thị trường xuống.
Những người vay nợ để mua cổ phiếu đứng tuyến đầu lãnh đạn. Khi giá cổ
phiếu xuống, những công ty cho vay bắt họ phải bù tiền vào. Thông thường, bất cứ
nơi nào trên thế giới, khi trị giá cổ phần xuống thì người vay nợ phải trả một
phần tiền cho chủ nợ. Thí dụ, nếu có 100 đồng vốn, vay thêm 100 đồng theo tỷ lệ
1/1 để mua cổ phiếu trị giá 200 đồng. Nếu giá cổ phiếu đó mất một phần tư, xuống
chỉ còn 150 đồng, thì người vay phải trả cho chủ nợ 25 đồng, để bớt nợ còn 75 đồng
trong khi vốn vẫn còn 75 đồng, giữ tỷ lệ 1/1 như cũ. Nếu giá xuống nữa, phải kiếm
tiền trả bớt nợ lần nữa.
Người vay nợ sẽ kiếm đâu ra tiền để trả nợ? Chính
quyền Bắc Kinh gần đây đề nghị người ta gán nhà để trả nợ mua cổ phiếu, nhưng đối
với dân Trung Hoa cái nhà không phải chỉ là một tài sản mà quý hơn nhiều. Bình
thường, người ta bán bớt cổ phiếu mình đang có để trả nợ. Việc bán này tạo áp lực
khiến giá các cổ phiếu bị đẩy xuống thêm. Đó là cái vòng luẩn quẩn khiến thị
trường đã xuống rồi còn xuống thấp hơn. Chính chế độ cho vay nợ dễ dàng là
nguyên nhân gây ra cơn khủng hoảng. Không khác gì cơn khủng hoảng địa ốc
năm 2007 ở nước Mỹ là do chính sách thả lỏng cho vay tiền mua nhà quá dễ dàng với
lãi suất rất thấp. Ở Trung Quốc, chế độ vay nợ dễ dàng hơn nữa. Nhưng người vay
tiền mua cổ phiếu vẫn phải tìm ra tiền trả bớt nợ khi nào giá trị đầu tư giảm bớt
50% hay 70%.
Hệ
thống tài chánh chông chênh và bất công
Sau vụ thị trường chứng khoán suy sụp, người dân
Trung Quốc mất niềm tin vào cả thị trường lẫn chế độ. Đảng Cộng sản loay hoay
mãi mới ngăn được cơn xuất huyết thị trường. Nhưng ai cũng thấy các biện pháp cứu
chữa hoàn toàn là tạm bợ.
Người ta nhìn thấy rõ cả “mô hình Trung Quốc” là một
tòa nhà chông chênh. Chế độ “tư bản nhà nước” đã đến lúc khựng lại, cho nên giới
lãnh đạo mới phải công bố một đường lối cải tổ, lấy thị trường làm động cơ chuyển
các tài nguyên, thúc đẩy kinh tế phát triển theo một hướng mới. Nhưng sau hai
năm thí nghiệm cải tổ, cả chế độ lại phải quay ngược chiều, dùng guồng máy nhà
nước can thiệp tàn bạo vào thị trường, để cứu nó khỏi sụp đổ nhưng cũng là để tự
cứu họ.
Hệ thống tài chánh Trung Quốc không những chênh vênh
dễ đổ mà còn tạo ra những bất công ngay trong cơ cấu. Bao nhiêu đại gia đã làm
giầu nhờ chuyển tiền từ túi người dân tiết kiệm qua hệ thống ngân hàng ngầm,
qua thị trường chứng khoán, nhưng cuối cùng chỉ vào túi các đại gia. Trong số đại
đa số dân Trung Hoa mất tin tưởng vào Đảng Cộng sản còn có một số người bất
mãn, oán hận vì họ bị mất tiền. Chỉ có khoảng 10% dân Trung Quốc đầu tư trong
thị trường chứng khoán nhưng con số đó cũng là 140 tỷ người! Nếu chỉ một phần,
50% những người đó mất cơ nghiệp và tiền dành dụm cả đởi trong cơn bão chứng
khoán vừa qua, thì cũng có tới 70 triệu người oán hận, thù ghét giới lãnh đạo đảng.
Điều mà họ sẽ nhận ra ngay là cả cơ chế kinh tế tài chánh đang dùng chỉ chứng tỏ
giới lãnh đạo dốt nát về kinh tế thị trường và tàn nhẫn dung túng cảnh người
bóc lột người bằng cơ chế gọi là thị trường đó.
Nhược điểm rõ ràng của thị trường chứng khoán Trung
Quốc là nó thiếu một hạ tầng cơ sở tối cần thiết là thông tin. Người đầu
tư vào cổ phiếu dựa trên các thông tin công khai mà quyết định mua hay bán.
Trong một nền kinh tế thị trường đích thực, các tin tức kinh tế được phơi bày
công khai. Các công ty ghi tên trên thị trường phải công bố đầy đủ tình trạng lời
lỗ của mình, mỗi ba tháng. Trên báo, trên đài, ai loan báo một bản tin hay nêu
lời bình luận về thị trường đều có trách nhiệm, bị mọi người theo dõi, kiểm
tra. Những báo, đài loan tin sai hoặc nói lời thiên vị sẽ bị công chúng trừng
phạt ngay. Các nguồn tin đối nghịch được tự do phổ biến.
Ở Trung Quốc không có một hạ tầng cơ sở như vậy.
Báo, đài nằm trong tay một đảng độc quyền và bị các quan chức cùng các nhà tài
phiệt thao túng. Cho nên cả hệ thống kinh tế và tài chánh chỉ phục vụ một tầng
lớp quý tộc mới, người dân bị hy sinh.
Chỉ nhìn vào một hiện tượng nhỏ là vụ thị trường suy
sụp cũng cho thấy cả mô hình Trung Quốc không thể đứng vững. Nếu không thay đổi
chính trị thì không thể nào đạt được tiến bộ kinh tế mới, như ông Tập Cận Bình
đang “nuôi giấc mộng vàng”.
Những người dân Trung Hoa mua bán cổ phiếu thuộc lớp
trung lưu. Dấn thân vào thị trường chứng khoán chứng tỏ họ là những người “tiên
phong” dám đánh cá” với cuộc đời. Họ sẽ nhìn ra là cả hệ thống kinh tế và chính
trị hiện hành chỉ đánh lừa họ, để cho một thiểu số hưởng lợi. Chắc họ sẽ đứng dậy
đòi thay đổi.
Người ta có thể đánh lừa một người suốt đời. Cũng có
thể đánh lừa tất cả mọi người trong một giai đoạn nào đó. Nhưng không ai có thể
đánh lừa tất cả mọi người mãi mãi được.
N.N.D.
Tác giả gửi BVN
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 08:38
No comments:
Post a Comment