Andrew Browne - The Wall Street
Journal
Phạm Vũ
Lửa Hạ dịch
13/06/2015
Khi các căng thẳng với Trung Quốc gia tăng, những
nhà tư tưởng chính sách đối ngoại Mỹ đang phủi bụi dùng lại những tư tưởng của
chiến lược ngăn chặn từ thời Chiến tranh Lạnh – và bày tỏ nghi vấn đối với sự đồng
thuận lâu đời về chủ trương thu hút sự can dự của Bắc Kinh.
*
Viết vào năm 1967, giữa lúc cao trào của Chiến
tranh Lạnh, Richard Nixon tuyên bố một tham vọng mới của Mỹ: “thuyết phục Trung
Quốc là Trung Quốc phải thay đổi”.
Ông viết: “Nếu nhìn xa trông rộng, chúng ta không thể
nào để Trung Quốc mãi mãi đứng ngoài gia đình các quốc gia, để mặc Trung Quốc
dung dưỡng những suy nghĩ hão huyền của họ, ấp ủ những nỗi thù oán của họ và đe
dọa các nước láng giềng của họ.” Bốn năm sau, sau khi đã bước vào Tòa Bạch Ốc,
Nixon xoay xở dàn xếp được chủ trương “mở cửa với Trung Quốc” hứa hẹn biến cường
quốc cộng sản này thành một đối tác ngoại giao, một đối tác sẽ chịu chấp nhận
các giá trị của Mỹ và có thể thậm chí chấp nhận chế độ dân chủ của Mỹ.
Đối với nhiều người Mỹ hiện nay, khi thấy chính quyền
của Chủ tịch Tập Cận Bình mạnh tay đàn áp giới bất đồng trong nước trong khi
tranh giành với Mỹ để chiếm vị thế chủ soái ở Châu Á, lời hứa hẹn đó dường như
càng xa vời hơn bao giờ hết. Trong cuốn sách mới xuất bản “The Hundred-Year
Marathon” (“Cuộc đua marathon trăm năm”), Michael Pillsbury, một
chuyên gia về Châu Á và quan chức Ngũ Giác Đài dưới thời Tổng thống Ronald
Reagan và Tổng thống George H.W. Bush, viết rằng “Trung Quốc đã không đáp ứng
được gần như tất cả những kỳ vọng lạc quan của chúng ta.”
Chính sách đối ngoại của Mỹ đã đến thời điểm bước
ngoặt, khi những nhà phân tích thuộc đủ mọi trường phái chính trị từ tả sang hữu
đã bắt đầu phủi bụi sử dụng lại các lập luận thời Chiến tranh Lạnh và cho rằng
cần có chính sách ngăn chặn (containment) đối với Trung Quốc. Quan điểm đồng
thuận ở Washington về các lợi ích của “sự can dự có tính xây dựng” với Bắc Kinh
từng rất vững chắc nhưng nay đã tan vỡ.
Tám đời tổng thống Mỹ, cả Cộng hòa lẫn Dân chủ, đều
tin rằng [chiến lược] can dự (engagement) là cách thực tế duy nhất để khuyến
khích tự do hóa ở Trung Quốc. Jimmy Carter truyền lại chính sách của Nixon cho
Ronald Reagan; George W. Bush truyền lại cho Barack Obama.
Trong những tháng gần đây có thể thấy rất rõ là
chính sách của Mỹ đang rối như tơ vò. Các báo cáo tư vấn nhiều chưa từng thấy từ
các trung tâm học thuật và viện nghiên cứu hàng đầu đã đề xuất mọi thứ từ phản ứng
quân sự đối với Trung Quốc đến những nhượng bộ toàn diện. Những phương thuốc
này khác nhau nhưng có chung điểm xuất phát: tâm lý bi quan về chiều hướng hiện
tại của quan hệ Mỹ-Trung.
Tổng thống Mỹ
Richard Nixon, phải, nâng ly chúc mừng Thủ tướng và Ngoại trưởng Trung Quốc Chu
Ân Lai trong một yến tiệc ở Hàng Châu, Trung Quốc, ngày 27/2/1972 (Ảnh: Corbis)
Sự thay đổi quan điểm ở Washington có thể rốt cuộc hệ
trọng không kém gì sự thay đổi quan điểm đã xảy ra ở Mỹ ngay Đệ nhị Thế chiến,
khi nước Mỹ nhận ra rằng Liên Sô sẽ không tiếp tục là đồng minh nữa. Đó chính
là khi nhà ngoại giao và nhà tư tưởng chính sách huyền thoại của Mỹ George F.
Kennan xây dựng kế hoạch ngăn chặn của mình.
Trong một bài báo năm 1947 đăng trên tạp chí Foreign Affairs (bản dịch tiếng Việt), ông viết rằng Mỹ “trong khả năng của
mình phải tăng đáng kể những áp lực căng thẳng mà chính sách của Liên Sô phải vận
hành dưới những áp lực đó, phải buộc Kremlin có mức độ ôn hòa và thận trọng hơn
nhiều so với mức độ mà Liên Sô đã phải có trong những năm gần đây, và bằng cách
này thúc đẩy những khuynh hướng mà cuối cùng phải dẫn đến sự đổ vỡ hoặc tan rã
dần dần của quyền lực Sô Viết.” Chiến lược của Kennan – làm kiệt quệ Liên Sô bằng
sự phản kháng không khiêu khích – làm an tâm những nước Châu Âu lo ngại họ gặp
phải một lựa chọn khó khăn giữa chiến tranh và quy phục.
Một nỗi lo tương tự về các hành động và ý định của
Trung Quốc hiện nay đã bao phủ nhiều nước Châu Á. Các nước bạn và đồng minh
trong khu vực này đang lũ lượt đứng về phía Mỹ để nhờ bảo vệ khi Trung Quốc của
họ Tập tăng cường hải quân, đưa tàu của mình ra xa hơn giữa đại dương mênh mông
và đẩy mạnh các tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của mình. Trong động thái cương quyết
mới nhất, nhưng không phải duy nhất, để cảnh báo khu vực này, Trung Quốc hiện
đang nạo vét các bãi đá san hô nhỏ nhoi ở Biển Đông để xây đường băng, dường
như là dành cho máy bay quân sự.
Mỹ đang phản kháng. [Chiến lược] “xoay trục” đặc
trưng của Tổng thống Obama – vừa nhằm trấn an những nước bạn âu lo của Mỹ vừa để
công nhận tầm quan trọng chiến lược lớn lao của khu vực này trong thế kỷ 21 –
đang đưa tàu chiến Mỹ tân tiến đến Singapore, thủy quân lục chiến đến Úc và cố
vấn quân sự đến Philippines. Nhật, đồng minh chủ chốt của Mỹ ở Châu Á, đang tái
vũ trang và đã điều chỉnh hiến pháp có tính hòa bình thời hậu chiến của mình để
cho phép các lực lượng của mình đóng một vai trò rộng lớn hơn trong khu vực. Mục
đích của phần lớn hoạt động này là để bảo vệ độc lập của các quốc gia Châu Á nhỏ
hơn hiện đang lo ngại rằng nếu không có sự hỗ trợ này thì họ có thể chẳng còn lựa
cách nào khác hơn là rơi vào quỹ đạo của Trung Quốc và chịu thua trước những
tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc – nói cách khác, quy phục.
Về phần mình, Trung Quốc hoàn toàn tin rằng Mỹ đang
theo đuổi một chính sách ngăn chặn. Kevin Rudd, cựu thủ tướng Úc (và bản
thân là một chuyên gia về Trung Quốc), tóm tắt cảm nhận của Bắc Kinh về các mục
tiêu của Mỹ trong năm điểm chính trong một nghiên cứu gần đây ở Đại học Harvard: cô lập Trung Quốc,
ngăn chặn Trung Quốc, giảm sức mạnh Trung Quốc, chia rẽ nội bộ Trung Quốc và
phá hoại giới lãnh đạo chính trị Trung Quốc.
Tất nhiên tình hình căng thẳng mới này trong quan hệ
Mỹ-Trung khác hẳn sự đối đầu thời Chiến tranh Lạnh đã khiến Châu Âu bận tâm
trong mấy chục năm, khi xe tăng của NATO và khối Hiệp ước Warszawa đối mặt nhau
ở hai phía của những ranh giới mà chẳng bên nào dám vượt qua. Nhưng về một
phương diện quan trọng, lịch sử đang lặp lại: Cả Trung Quốc và Mỹ đã bắt đầu
không xem nhau là đối tác, kẻ cạnh tranh hay đối thủ, mà xem nhau như kẻ thù.
Việc Trung Quốc tăng cường tên lửa và hải quân, cũng
như phát triển các năng lực chiến tranh trực tuyến và chiến tranh không gian mới,
là nhắm trực tiếp vào mục đích ngăn không cho quân đội Mỹ can thiệp vào bất cứ
cuộc xung đột nào ở Châu Á. Trong khi đó, nhiều dự án “ruột” của Ngũ Giác Đài –
các công nghệ Chiến tranh Giữa Các Vì sao như laser và các hệ thống vũ khí tân
tiến như máy bay oanh tạc tầm xa – đang được xây dựng có cân nhắc tới Trung Quốc.
Vậy cụ thể thì Mỹ nên làm gì? Trong một trong những
báo cáo hiếu chiến nhất của các báo cáo gần đây từ các viện nghiên cứu, Robert
D. Blackwill, một cựu phó cố vấn an ninh quốc gia Mỹ và đại sứ tại Ấn Độ dưới
thời Tổng thống George W. Bush, và Ashley J. Tellis, một nghiên cứu viên cao cấp
tại Quỹ Carnegie về Hòa bình Quốc tế và là cựu viên chức trong Hội đồng An ninh
Quốc gia dưới thời Tổng thống Bush, viết rằng [chiến lược] can dự với Trung Quốc đã khiến một đối
thủ cạnh tranh mạnh hơn.
Họ tuyên bố rằng đã đến lúc có một đại chiến lược mới:
bớt can dự và tăng “cân đối” để bảo đảm “mục tiêu trọng tâm” là Mỹ tiếp tục vai
trò chủ soái toàn cầu. Ngoài những vấn đề khác, Mỹ nên tăng cường quân đội của
mình ở Châu Á, chặn không cho Trung Quốc tiếp cận với công nghệ quân sự, đẩy
nhanh các đợt triển khai hệ thống phòng vệ tên lửa và tăng các năng lực tấn
công trực tuyến của Mỹ.
Với Michael D. Swaine, cũng thuộc Quỹ Carnegie, đây
là một công thức chắc chắn dẫn đến một cuộc Chiến tranh Lạnh khác, hoặc tệ hơn.
Ông vạch ra một giải pháp toàn diện mà trong đó Mỹ sẽ nhường
vị thế chủ soái ở Đông Á, biến phần lớn khu vực này thành một vùng đệm được giữ
gìn trị an bằng một cán cân các lực lượng, bao gồm những lực lượng từ nước Nhật
được củng cố sức mạnh. Tất cả các lực lượng ngoại quốc sẽ rút khỏi Triều Tiên.
Và Trung Quốc sẽ đưa ra những lời bảo đảm rằng họ sẽ không tấn công Đài Loan,
mà Trung Quốc đang xem là một tỉnh phản nghịch.
Những cách giải quyết như vậy, cho dù khả dĩ, cũng sẽ
mất mấy chục năm mới hình thành được. Trong khi đó, David M. Lampton, một giáo
sư tại Trường Nghiên cứu Quốc tế Cao cấp thuộc Đại học Johns Hopkins, cảnh báo
rằng các mối quan hệ Mỹ-Trung đã tới mức nhạy cảm dễ bùng phát. Trong một bài
phát biểu gần đây, ông nói: “Những nỗi lo sợ của mỗi nước chúng ta hiện có nguy
cơ lấn át những niềm hy vọng của chúng ta hơn bao giờ hết kể từ khi bình thường
hóa quan hệ.”
Phương Tây đã từng lâm vào tình thế này. Sự lạc quan
về các triển vọng chuyển hóa một nền văn minh cổ xưa bằng chủ trương can dự, tiếp
theo đó là tâm lý vô cùng vỡ mộng, đã là điều quen thuộc kể từ khi những nhà
truyền giáo dòng Tên thời kỳ đầu tìm cách cải đạo người Trung Hoa sang Cơ đốc
giáo. Những sứ giả này ăn bận áo mão của tầng lớp quan lại, để râu dài và thậm
chí diễn đạt thông điệp giáo lý bằng ngôn từ Khổng giáo để dễ tiếp thu hơn.
Giáo sĩ Đức Adam Schall hồi thế kỷ 17 còn đi xa đến mức trở thành trưởng thiên
văn gia của nhà Thanh. Nhưng ông bị thất sủng, và các giáo sĩ dòng Tên về sau bị
trục xuất.
Sự thất vọng ở Mỹ ngày nay càng tăng cao vì chiến lược
can dự với Trung Quốc đã hứa hẹn rất nhiều và tiến triển rất xa. Thương mại và
công nghệ đã biến đổi Trung Quốc nhiều hơn những gì Nixon có thể đã hình dung,
và hai nước là đối tác thương mại lớn thứ nhì của nhau. Trung Quốc là chủ nợ lớn
nhất của Mỹ. Hơn một phần tư triệu sinh viên Trung Quốc học tại các đại học Mỹ.
Và khoảng cách ý thức hệ chẳng hề thu hẹp – và hiện
nay họ Tập quay ngoắt chống phương Tây. Mao Trạch Đông đã có quyết định táo bạo
bắt tay thỏa thuận với Nixon, tự tin đủ để chấp nhận các nhà tư bản Mỹ trong
khi vẫn thực hiện chương trình nghị sự cực đoan của Cách mạng Văn hóa. Về sau,
Đặng Tiểu Bình tìm được cách cân đối thực dụng giữa các cơ hội can dự kinh tế với
phương Tây và những mối nguy do sự du nhập ồ ạt các tư tưởng phương Tây. Ông
nhún vai: “Khi ta mở cửa sổ, ruồi muỗi bay vào.”
Lãnh tụ Trung Quốc
Đặng Tiểu Bình được tặng nón cao bồi tại một cuộc biểu diễn cưỡi ngựa gần
Houston, Texas, trong chuyến công du Mỹ năm 1979. (Ảnh: Wally Mcnamee/Corbis)
Ngày nay, họ Tập quyết liệt đập chết ruồi nhặng. Một
luật mới đề xuất sẽ đặt toàn bộ các tổ chức phi vụ lợi ngoại quốc dưới quyền quản
lý của công an, coi như xem những tổ chức đó có thể là kẻ thù của nhà nước. Báo
chí nhà nước mắng nhiếc “các thế lực thù địch nước ngoài” và những phần tử
trong nước có cảm tình với các thế lực này. “Thông tư số 9” của Đảng Cộng sản
Trung Quốc cấm thảo luận về dân chủ phương Tây ở đại học. Và khi họ Tập cổ xúy
văn hóa truyền thống Trung Hoa, chính quyền ở Ôn Châu, một thành phố duyên hải
có đông dân theo Cơ đốc giáo và được gọi là “Tân Jerusalem” của Trung Quốc, đã
giật bỏ những thánh giá trên nóc các nhà thờ vì chúng bị xem là các biểu tượng
của ảnh hưởng phương Tây không chấp nhận được.
Phản ứng chống phương Tây còn mở rộng ra khỏi biên
giới Trung Quốc. Trong mấy thập niên, Trung Quốc đã chấp nhận vai trò của Mỹ
làm sen đầm trong khu vực để duy trì hòa bình và bảo đảm tự do hàng hải. Nhưng
hồi năm ngoái ở Thượng Hải, họ Tập tuyên bố rằng “lo việc của Châu Á, giải quyết
các vấn đề của Châu Á và giữ gìn an ninh của Châu Á là chuyện của nhân dân Châu
Á”.
Washington cảm thấy phần nào bị phản bội. Dù gì đi nữa,
những thị trường mở cửa của Mỹ đã tạo điều kiện thuận lợi giúp Trung Quốc vươn
lên nhờ xuất khẩu để trở thành nền kinh tế lớn thứ nhì thế giới, và hai nền
kinh tế Mỹ-Trung hiện nay hoàn toàn gắn kết với nhau không gỡ ra được.
Song, sẽ sai lầm nếu cho rằng sự phụ thuộc lẫn nhau
nhất thiết sẽ ngăn chặn xung đột. Châu Âu thời trước Đệ nhất Thế chiến cũng gắn
kết chặt chẽ với nhau qua thương mại và đầu tư.
Ngay cả cộng đồng kinh doanh Mỹ, từng là giới hậu
thuẫn Bắc Kinh mạnh mẽ nhất ở Washington, đã bớt hăng hái ủng hộ chủ trương can
dự [Trung Quốc]. James McGregor, cựu chủ tịch Phòng Thương mại Mỹ ở Trung Quốc
và nay là chủ tịch phụ trách Trung Quốc của hãng tư vấn kinh doanh APCO
Worldwide, nhớ lại chuyện giúp thuyết phục các hiệp hội thương mại Mỹ vận động
để Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (Trung Quốc gia nhập năm
2001).
Ông nói sự đoàn kết về mục đích đó “đã rạn nứt kể từ
sau đó.” Ngày nay, “họ đều tin rằng Trung Quốc tìm cách chơi xỏ họ.”
Dù có lo ngại về Trung Quốc, chính quyền Obama vẫn rất
ủng hộ chủ trương can dự. Thỏa thuận đình đám năm ngoái về biến đổi khí hậu cho
thấy vẫn có khả năng hợp tác. Trước một hội nghị thượng đỉnh đã lên kế hoạch họp
ở Mỹ vào tháng 9, hai nước đang bàn bạc một hiệp định thương mại song phương đầy
tham vọng. Và thường có nhận định rằng không một vấn đề nào trên thế giới, từ
ăn cắp bản quyền đến ô nhiễm, có thể được giải quyết nếu không có nỗ lực phối hợp
của hai nước này.
Tuy nhiên, trong một loạt động thái phản ứng ngày
càng vụng về, chính quyền Obama đang cố gắng duy trì chính sách can dự này đồng
thời tăng cường các phương án quân sự của Mỹ ở Châu Á. Trung Quốc cũng đang
chơi ván cờ tương tự. Và chẳng rõ cả hai bên sẽ còn có thể tiếp tục bao lâu trước
khi xảy ra đụng độ, do vô tình hay cố ý.
Chính ông Obama đôi khi bày tỏ quan điểm thù địch với
Trung Quốc. Khi cố gắng thuyết phục để một khu vực thương mại tự do Châu Á-Thái
Bình Dương quy mô lớn được thông qua tại Quốc hội có ý phản đối, ông cứ nhắc tới
mối nguy Trung Quốc. “Nếu chúng ta không soạn ra luật chơi, Trung Quốc sẽ soạn
luật chơi ở khu vực đó”; ông nói như vậy với tờ The Wall Street Journal hồi
tháng Tư.
Ông cũng tiến hành một chiến dịch – mà cuối cùng bất
thành – để ngăn cản các đồng minh như Anh và Úc tham gia một ngân hàng phát triển
khu vực do Trung Quốc khởi xướng. Dù ngân hàng này sẽ giúp xây dựng cơ sở hạ tầng
rất cần thiết, Tòa Bạch Ốc xem nó là một phần của nỗ lực nhằm phá hoại vai trò
dẫn đầu của Mỹ trong tài chính toàn cầu.
Về phần mình, Trung Quốc tin rằng Mỹ sẽ chẳng bao giờ
chấp nhận tính chính danh của một chính quyền cộng sản.
Tập Cận Bình đã đề xuất “một mô hình mới của các mối
quan hệ đại cường quốc”, nhằm để phá bỏ kiểu mẫu chiến tranh qua các thời đại xảy
ra khi một cường quốc đang vươn lên thách thức một cường quốc hiện tại. Nhưng Mỹ
đã bác bỏ ý tưởng của ông, không chịu chấp nhận cái công thức không chỉ giả định
rằng hai nước là đồng đẳng mà dường như còn đặt hai nước trên cùng một nền tảng
đạo đức.
Có thể nói những căng thẳng đang đạt đến mức khủng
hoảng ở Quần đảo Trường Sa, một quần đảo gồm các bãi đá san hô và bãi cát ở Biển
Đông đầy hiểm nguy đến nỗi các hải đồ của Bộ Hải quân Anh xưa kia đánh dấu toàn
bộ khu vực này là “Vùng Nguy hiểm”.
Trong bãi tha ma này của giới thủy thủ, Trung Quốc
đã mở rộng đáng kể nhiều bãi đá san hô bằng cách nạo vét; một bãi có đường băng
dài đủ để hạ cánh những máy bay quân sự lớn nhất của Trung Quốc. Các nước láng
giềng của Trung Quốc xem chúng là những tiền đồn để cuối cùng Trung Quốc chiếm
đoạt toàn bộ Biển Đông. Ngũ Giác Đài mô tả chúng là mối đe dọa cho quyền không
bị thách thức của Hải quân Mỹ được đi lại ở những vùng đại dương này.
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ash Carter đang cân nhắc phô
diễn sức mạnh – đang chịu áp lực chính trị buộc phải làm thế. Hồi tháng trước,
Thượng nghị sĩ Bob Corker thuộc Đảng Cộng hòa, chủ tịch Ủy ban Đối ngoại của
Thượng viện, than phiền rằng Mỹ có phản ứng quá thụ động về việc Trung Quốc xây
đảo. Ông Corker nói: “Tôi chẳng thấy Trung Quốc phải trả giá gì cho những hoạt
động của họ ở Nam Hải [tức Biển Đông] và Đông Hải. Không gì cả. Thực ra, tôi thấy
chúng ta đang trả giá.”
Không bên nào muốn chiến tranh. Tập Cận Bình không
chống phương Tây theo kiểu của Tổng thống Nga Vladimir Putin, và cho đến nay,
ông đã không hành động liều lĩnh, như kiểu ông Putin chiếm lãnh thổ ở Ukraine.
Trung Quốc vẫn cần các thị trường và bí quyết công nghệ của Mỹ để vươn lên.
Đánh nhau với Mỹ sẽ là thảm họa kinh tế cho Trung Quốc.
Mối quan hệ Mỹ-Trung đã từng gặp nhiều sóng gió. Thử
nhớ lại những ngày sau khi quân đội Trung Quốc tấn công vào các sinh viên đấu
tranh dân chủ tại Quảng
trường Thiên An Môn vào năm 1989, khi sự hợp tác giữa hai nước bị đóng
băng lâu dài. Nhưng Tổng thống George H.W. Bush đã suy tính rằng mối quan hệ Mỹ-Trung
quá quan trọng nên không thể hy sinh, và ông nhanh chóng cử các phái viên sang
Bắc Kinh để bảo đảm mối quan hệ đó vẫn nguyên vẹn.
Ngày nay, chắc chắn cách suy tính đó vẫn không kém
phần quan trọng. Hơn nữa, cố gắng ngăn chặn Trung Quốc sẽ gây thiệt hại vô cùng
lớn: Cả hai nước đều không thể thành công về kinh tế nếu không có nước kia. Chiến
lược ngăn chặn của Kennan có tác dụng đối với Liên Sô vì kinh tế Liên Sô yếu, gần
như không có mối quan hệ thương mại nào với Mỹ. Nhưng Trung Quốc hiện nay là một
cường quốc kinh tế, và các ngân sách quân sự bằng mấy chục phần trăm GDP của nước
này được hỗ trợ bằng một nền tảng công nghiệp có chiều sâu và đa dạng
hóa.
Tuy nhiên, đằng sau những thực tế này là việc mối
quan hệ Mỹ-Trung đã đánh mất lẽ sống chiến lược của nó: Liên Sô, mối đe dọa
chung đã đưa hai nước lại với nhau.
Chống Moskva là cái logic đã khiến Nixon mở cửa với
Trung Quốc. Nhưng ngay cả Nixon, một người thực tế quyết đoán vốn chú trọng vấn
đề cán cân quyền lực, cũng không biết chủ trương mở cửa với Trung Quốc của ông
cuối cùng sẽ đi đến đâu. Như ông nói với William Safire, bỉnh bút quá cố của tờ The New
York Times, không lâu trước khi Nixon qua đời vào năm 1994, “Có lẽ chúng ta
đã tạo ra một ác quỷ Frankenstein.”
Nguồn: Andrew
Browne, Can China Be Contained?, The Wall
Street Journal, 12/6/2015
Bản tiếng Việt © 2015 Phạm Vũ Lửa Hạ
Bài
liên quan:
- Mỹ-Trung Quốc: Có phải đây là cuộc chiến tranh lạnh mới? (Kỳ 1, Kỳ cuối)
- Mỹ nên điều chỉnh ra sao với thế kỷ Thái Bình Dương
No comments:
Post a Comment