Người dịch: Huỳnh Phan
Posted by admin on June 8th, 2015
Hy vọng có màn đấu khẩu ồn ào giữa Mỹ và Trung Quốc,
các phóng viên đổ xô đến để đưa tin về Đối thoại Shangri-La năm 2015. Bị thúc
bách phải đưa mọi thứ cô đọng trong một vài đoạn văn ngắn để lý giải tình hình
Biển Đông, các nhà báo có khuynh hướng thổi phồng vở diễn này.
Những điều dạo đầu (việc đã công bố rộng khắp về máy
bay Mỹ bay bên trên các đảo nhân tạo của Trung Quốc, sách trắng quốc phòng của
Trung Quốc, những nhận xét khá đối đầu ở Bắc Kinh và Honolulu) dường như hứa hẹn
sẽ có nhiều màn đấu khẩu nảy lửa ở hội nghị chiến lược hàng đầu của Đông Á.
Tuy nhiên, có lẽ được tĩnh trí bởi điều mà tờ Independent của
Anh gọi là “tiềm
năng xảy ra tai ương” sờ thấy, lúc này các nhận xét
của người tham gia năm nay mang tính lịch sự hơn những năm trước. Ash Carter,
giáo sư Đại học Harvard giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ từ tháng Hai, đã cố sức
giải thích lý do tại sao Mỹ không thích công cuộc Trung Quốc tìm cách biến vùng
biển kín lớn nhất thế giới thành vùng biển của riêng mình. Carter không đối
đầu mà chỉ đưa ra các sự kiện. Ông nhấn mạnh rằng việc bơm cát vào các rạn đá
ngầm để làm thành các đảo nhân tạo không tạo ra các quyền chủ quyền đối với
vùng đất đó hoặc vùng biển lân cận.
Carter triển khai các giải thích tốt nhất chưa từng
đưa ra vì sao Hoa Kỳ lại can dự lại, và sẽ vẫn can dự vào khu vực này. Đặc biệt,
đó không phải là vì sức mạnh hay vết thương quá khứ làm nên lẽ phải: bây giờ
Trung Quốc không thể đòi hỏi những quyền mà họ chưa bao giờ thực hiện ngay cả
trong quá khứ thiên triều của họ, cũng không thể dẹp sang một bên khuôn khổ
pháp lý do Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển dựng lên.
Carter
nói: “Tranh chấp cần được giải quyết một cách hòa bình,
thông qua ngoại giao, không phải qua xâm lấn hay đe dọa. Tất cả các nước phải
có quyền tự do đi lại trên biển và trên không để cho giao thương toàn cầu không
bị cản trở. Và tất cả các quốc gia cần có thể đưa ra lựa chọn riêng mình về an
ninh và kinh tế mà không bị cưỡng ép”.
“Đây là quyền của mọi quốc gia, không phải là các
khái niệm trừu tượng, và cũng không thể lệ thuộc vào ý tưởng bất chợt của bất kỳ
một quốc gia nào. Chúng không phải là đặc quyền để được cấp hoặc thu hồi bởi bất
kỳ nước nào…”
Các chuyên gia tại chỗ báo lại rằng Đô đốc Sun
Jianguo (Tôn Kiến Quốc) và các đại diện của Trung Quốc khác đã sẵn sàng khai
chiến, nhưng có vẻ như đã được bị tướt vũ khí bởi thảo luận thực tế đơn giản của
Carter về cách “quân sự hóa các thể địa lý tranh chấp” là một lựa chọn thật sự
tệ hại so với sự thương lượng về quyền lãnh thổ và sự tiến triển của một “kiến
trúc khu vực mà ở đó mọi nước đều đi lên và mọi người đều thắng.”
Bịa
đặt Lịch sử
Khi những người đứng đầu quốc phòng của hai chục quốc
gia họp tại Singapore, xã luận trên khắp thế giới phương Tây than thở rằng tình
trạng của một nhúm rạn san hô, đá và đảo nhỏ có thể châm ngòi một cuộc chiến
tranh giữa Trung Quốc, Mỹ, và đối tác các dạng của Mỹ tại khu vực. Họ lo lắng
là đúng. Đáng chú ý, tờ New York Times, Independent, Guardian, London
Times, Sydney Morning Herald cùng các báo khác có xu hướng xem vấn đề
này như là kết quả của việc vươn quá xa của một “Trung Quốc đang trỗi dậy.” Đó
là một sự thay đổi tốt đẹp so với xu hướng trong những năm vừa qua khẳng định rằng
tất cả các bên tranh chấp Biển Đông đều có lỗi như nhau, hay tệ hơn, yêu sách
‘chủ quyền không thể tranh cãi’ của Trung Quốc là dựa trên sự kiện có thật.
Các bài bình luận vẫn còn có năng lượng trong các nước
dân chủ. Nếu nó đã thực sự dứt khoát nghiêng theo hướng chống lại Bắc Kinh thì
phải đánh giá cao sự đóng góp của Bill Hayton của BBC, vì quyển “Biển Đông: cuộc
tranh giành quyền lực ở châu Á” và bài
viết khác đã đánh đổ điều khẳng định của Trung Quốc rằng
họ cai quản quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ thời xa xưa.
Lập luận lịch sử, cũng có thể là thú vị như đối với
những chuyên gia và cũng thuận tiện đối với những người muốn tránh đối đầu, thật
ra chẳng liên quan đến việc phân xử các yêu sách đòi kiểm soát một khu vực đại
dương rộng 3.500.000 km². Công Ước Luật Biển mà Trung Quốc và hầu hết các quốc
gia khác đã tham gia (còn Thượng viện Mỹ cho đến nay chưa phê chuẩn vì những lý
do có nguồn gốc ẩn khuất từ chính trị nội bộ, nhưng dù vậy Washington vẫn tôn
trọng), cung cấp khuôn mẫu duy nhất có thể sử dụng được để giải quyết các yêu
sách chồng lấn.
Con đường ngoại giao cho việc tháo gỡ cuộc đối đầu
leo thang có thể bắt đầu bất cứ khi nào Trung Quốc thấy ra những gì họ nghĩ thật
sự chỉ của riêng họ. Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) trong nhiều năm đã
thúc ép Bắc Kinh ‘làm rõ yêu sách của mình.’ Điều đó có nghĩa rằng Trung Quốc
phải giải thích ‘đường chín vạch’ vẽ trên các bản đồ được xuất bản gần đây của
Trung Quốc. Có phải Bắc Kinh đang khẳng định rằng họ sở hữu tất cả các đảo đá,
rạn san hô và các thể địa lý khác bao hàm bên trong các dấu vạch này hay có thể
chỉ một số trong đó? Ngoài ra, nếu không là toàn bộ vùng biển bên trong đường
chín vạch, Trung Quốc đòi vùng biển nào xung quanh những thể địa lý được cho là
của mình?
Nhiệt
tình yêu nước
Một khi đã khởi động tốt, thương lượng ngoại giao có
thể không những là một việc làm lâu năm cho các chuyên gia mà cũng cho ra lý do
để hạ bớt căng thẳng quân sự. Việc kích động đàm phán đa phương là phần khó, đặc
biệt là vì người Trung Quốc yêu nước đang đặt nặng lòng tin vào ý tưởng rằng
Trung Quốc xưa nay đã sở hữu quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
‘Nam Hải của chúng ta’ đã trở thành một lời kêu gọi
cho những người yêu nước đắm chìm trong những giấc mơ trả thù cho ‘thế kỷ quốc
sỉ’ do một số nước ngoài áp đặt lên Trung Quốc. Bất chấp rằng đó không phải là
Biển Nam của Trung Quốc mà là một vùng biển chung mà không một nước nào thực
thi chủ quyền đáng kể đối với nó mãi cho đến thế kỷ thứ 19 – và sau đó chính những
người đi biển Việt Nam chứ không phải Trung Quốc đã dựng các bia chủ quyền của vương
quốc trên vài chục đảo nhỏ.
Những người yêu nước Trung Quốc biết rằng xưa kia
triều đình của nhiều nước ngoài đã dâng cống vật cho Thiên Tử (Hoàng đế Trung
Quốc), trong số đó có những vị vua khác nhau của các nước nhỏ như Việt Nam và
Philippines. Người dân bình thường thấy vấn đề được giải quyết theo hướng đó,
trừ phi Bắc Kinh giải thích cho họ vì sao trong thế kỷ 21 tất cả các quốc gia đều
được lợi hơn khi giải quyết các quan hệ theo những quy tắc đã được đồng ý
chung.
Lẽ thường có thể là một dải biển cho một chế độ đang
củng cố quyền cai trị Trung Quốc bằng cách khẳng định quyền bá chủ trên
vùng biển từ Nam Hong Kong tới Singapore. Cũng thế, kể từ năm 2009, Bắc Kinh đã
có nhiều lượt hành động thành công vượt mức. Họ đã làm quần đảo Hoàng Sa sạch bóng
ngư dân Việt Nam và thiết lập thủ phủ Nam Hải của họ ở đó; họ đã đẩy ngư dân
Philippines khỏi bãi cạn Scarborough; họ đã quấy rối công nghiệp dầu khí ngoài
khơi của Việt Nam; và bây giờ là bằng mọi giá bơm cát lên các rạn đá để tạo ra
các đảo nhân tạo mang đầy tiềm năng chiến lược.
Xuống
lưng cọp?
Có một nhịp điệu đã trở thành quen thuộc. Mỗi mùa hè
Trung Quốc làm một điều tàn tệ nào đó, đo lường phản ứng quốc tế, và sau đó lùi
lại một chút. Chồng lên trên việc triển khai giàn khoan dầu nước sâu vào vùng
biển mà Việt Nam tuyên bố là vùng đặc quyền kinh tế của mình, chiến dịch xây đảo
năm nay đã được cho thấy là quá mức đến ngay cả những chuyên gia thân Trung Quốc
không thể chịu đựng được. Gần như không đáng ngạc nhiên rằng Hoa Kỳ và Nhật Bản,
Ấn Độ và Úc đang ngày càng đồng thanh hát cùng một bài ca, rằng Philippines vui
vẻ đón chào tàu chiến Mỹ trở lại Vịnh Subic, và rằng Hoa Kỳ và Việt Nam đang đều
đặn hướng tới liên kết chặt chẽ dựa trên lợi ích chiến lược bổ sung nhau.
Theo một
bài nghiên cứu của Viện Brookings thì Bắc Kinh
“tin rằng các vụ ầm ĩ trong tranh chấp ở… Biển Đông phản ánh chiến lược cơ bản
của Mỹ là khuyến khích những nước khác, đặc biệt là Nhật Bản, Việt Nam và
Philippines, hành động vượt mức giới hạn với hy vọng là các phản ứng của Trung
Quốc sẽ dẫn những nước này – và ASEAN – trở nên đoàn kết và phụ thuộc hơn vào
Hoa Kỳ”.
Nếu thế thì Bắc Kinh đã hiểu sai. Không có bàn tay
vô hình nào của Mỹ khuấy động ở đây. Chính xác mà nói thì chính việc Trung Quốc
không ngừng theo đuổi bá quyền đã thúc đẩy các nước khác tụ tập với nhau. Cũng
chính xác mà nói chính Trung Quốc có thể làm giảm đi căng thẳng bằng cách nêu
rõ những mục tiêu hợp lý. Khi họ chưa làm như vậy, những người khác do thận trọng
phải giả định điều tồi tệ nhất.
Chỉ một vài năm trước đây, một
số nhà phân tích phương Tây khẳng định rằng
chính quyền trung ương Trung Quốc đã bị các diễn viên kém kỷ luật cấp dưới, như
liên minh của các ngư dân, các công ty dầu khí, những kẻ nhiệt tình trong hải
quân và chính quyền các tỉnh phía Nam Trung Quốc, lôi kéo đến lập trường cương
quyết đới với vấn đề Biển Đông. Bây giờ không còn ai tin điều đó nữa. Có rất
nhiều bằng chứng cho thấy các động thái của Trung Quốc ở Biển Đông đều được một
nhóm nhỏ chóp bu do chính TBT/ĐCSTQ Tập Cận Bình chủ trì xét duyệt. Ít ra một
phần vì có lợi chính trị trong nước, họ đã cho phép những cuộc đối đầu trên Biển
Đông thành vấn đề biểu tượng hóa về “Trung Quốc đang trỗi dậy” và tham vọng của
cường quốc châu Á mới nầy. Bây giờcó lý do gì để hỏi, đã lỡ cưỡi lưng cọp, liệu Tập Cận Bình và bộ sậu có thể tìm cách nào để
thoát xuống mà không phải mất mặt quá nhiều không.
Họ nên thoát ra bây giờ. Lợi ích cốt lõi của Trung
Quốc đang bị đe dọa bởi việc vươn quá xa ở quần đảo Trường Sa. Ash Carter đã
đưa ra một lựa chọn khác tại cuộc họp Shangri-La: chia sẻ một cách hợp lý và
tôn trọng những cơ hội để các nước Châu Á-Thái Bình Dương “cùng đi lên, cùng
phát triển thịnh vượng và cùng thành công”. Hoa Kỳ nghiêm chỉnh về điều này. Mặc
dù với sự tin cậy có suy giảm, Washington vẫn khao khát quan hệ đối tác Mỹ-Trung
có hiệu quả trong quản lý các vấn đề trong khu vực và toàn cầu rất đa dạng như
khủng bố, biến đổi khí hậu, buôn người, không cướp biển và phòng ngừa phổ biến
hạt nhân.
Ngay trước cuộc họp Shangri-la, Tổng Thống Đài Loan,
Ma Ying-jeou (Mã Anh Cửu) đã
đưa ra một đề nghị. Đài Loan là một bên tranh chấp,
đang kiểm soát Itu Aba (Ba Bình), đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa, từ năm
1956. “Mặc dù chủ quyền không thể phân chia nhưng tài nguyên thì có thể chia sẻ,”
Mã Anh Cửu nói. Tổng Thống Đài Loan minh họa quan điểm của mình qua việc
đề cập đến một thoả thuận đã tạo điều kiện cho phép ngư dân Đài Loan và Nhật Bản
đánh cá mà không có va chạm trong lãnh hải được tạo ra từ quần đảo Senkaku/Điếu
Ngư Đài. Tại thời điểm căng thẳng này, đề nghị của Mã Anh Cửu cần được xem xét
nhiều hơn.
No comments:
Post a Comment