11:54:am 20/06/15
Nhạc sĩ Dương Thiệu
Tước
Giai đoạn xây dựng Tân nhạc
Tân nhạc còn gọi là
âm nhạc cải cách xuất hiện vào cuối thập niên 1930 sau phong trào thơ mới và
dòng văn học lãng mạng vài năm.Các nhạc sĩ Tân nhạc ở giai đoạn này phần lớn chịu
ảnh hưởng âm nhạc Tây phương.Các ca khúc nhạc mới tiếng Viêt được soạn theo âm
luật Tây phương thường mang phong cách trữ tình.
Tờ Ngày Nay của
Tự Lực Văn Đoàn, một tờ báo uy tín bấy giờ, ra ngày 31 tháng 7 năm 1938 đã đăng
bài hát đầu tiên, bài Bình Minh của Nguyễn Xuân Khoát lời
ca của Thế Lữ.Sau đó nhiều ca khúc đã sáng tác từ trước,được các nhạc sĩ phát
hành, bày bán tại các hiệu sách. Tân nhạc Việt Nam chính thức ra đời.
Những nhạc sĩ tiêu
biểu của dòng nhạc mới: Nguyễn Văn Tuyên, Lê Yên,Văn Chung,Nguyễn Văn Thương,Lê
Thương,Doãn Mẫn,Thẩm Oánh, Đặng Thế Phong,Dương Thiệu Tước, Hoàng Qúy. Và các
nhạc phẩm của những nhạc sĩ này được quân chúng yêu thích như : Một Kiếp Hoa,
Ngựa Phi Đường Xa,Bóng Ai Qua Thềm, Trên Sông Hương, Xuân Năm Xưa,Biệt Ly,Khúc
Yêu Đương,Con Thuyền Không Bến,Tâm Hồn Anh Tìm Em, Cô Láng Giềng…
Trong giai đoạn khởi
đầu xây dựng một nền Tân nhạc, còn có sự đóng góp to lớn của nhiều nhóm nhạc
như:
Nhóm nhạc Hoa lưu
ly Myosotis gồm các nhạc sĩ Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Phạm Văn Nhượng,
Trần Dư, Vũ Khánh, Nhóm chủ trương sáng tác nhạc cải cách có âm hưởng nhạc dân
tộc.Từ 1938 đến 1942 nhóm này với hai nhạc sĩ chính Thẩm Oánh và Dương Thiệu Tước
đã cống hiến nhiều nhạc phẩm tuyệt vời.
Nhóm Trice´a của
Văn Chung, Lê Yên, Doãn Mẫn.Tên nhóm có nghĩa 3 chữ C và 3 chữ A được viết tắt
từ Collection des Chants Compose´s par des Artistes Anamites Associes (Tuyển chọn
các ca khúc do nghệ sĩ Việt Nam biên soạn ).Nhóm đã để lại nhiều ca khúc nổi tiếngị.
Nhóm Đồng Vọng với
Hoàng Quý,Đỗ Nhuận,Phạm Ngữ, Lưu Hữu Phước,Văn Cao, Cao Thân, Tô Vũ.Ngoài những
sáng tác tình ca, Đồng vọng còn tung ra nhiều bản hùng ca khơi dậy lòng yêu nước.
Phong trào tân nhạc
phát triển nhanh chóng đã dẫn đến nhiều cuộc tranh luận. một số đánh giá tác động
tích cực của tân nhạc đối với âm nhạc truyền thống.Một số khác nhận xét Tân nhạc
là một hình thức văn hóa ngoại lai. Đó thường là những âm điệu đàn Tây phương,
nhanh nhẹn,vui vẻ nhưng không có tính cách Việt Nam.
Những phê bình xây
dựng đã được giới nhạc mới lưu tâm và một khuynh hướng sáng tác những bài mới
mang âm hưởng tây phương nhưng chứa chất tình tự dân tộc xuất hiện sau đó vào
những năm 1939,1940 . Đại diện cho khuynh hướng này là Nguyễn Xuân Khoát và
Dương Thiệu Tước.Cả hai nhạc sĩ sau này đều chủ trương nghiên cứu âm nhạc truyền
thống suốt cuộc đời.
Thân thế và sự nghiệp
Nhạc sĩ Dương Thiệu
Tước là một trong số vài nhạc sĩ tiên phong mở đầu cho sáng tác tân nhạc.. Ông
sinh ngày 14.01.1915, trong một dòng tộc thuộc diện khoa bảng ở làng Vân Đình,
huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây cũ (nay là Hà Nội). Ông nội Dương Thiệu Tước là cụ
nghè Dương Khuê, nguyên Đốc học tỉnh Nam Định.,tác giả bài hát nói „ Hồng Hồng
Tuyết Tuyết „ danh tiếng ,đến nay các nghệ sĩ hát ả đào vẫn còn sử dụng.Cụ
Dương Khuê được bạn yêu văn học biết nhiều qua bài thơ “Khóc Dương Khuê” của
nhà thơ Nguyễn Khuyến). Thân phụ Dương Thiệu Tước là cụ Dương Tự Nhu, từng giữ
chức Bố chánh tỉnh Hưng Yên.
Thuở nhỏ, Dương Thiệu
Tước học ở Hà Nội. Cụ Dương Tự Nhu là người quý trọng chữ nghĩa, yêu nghệ thuật
nên Dương Thiệu Tước đã may mắn được tiếp xúc với âm nhạc rất sớm. 7 tuổi học
đàn nguyệt , đàn tranh. Năm 14 tuổi, bắt đầu chú ý tới âm nhạc Tây phương, chuyển
qua học dương cầm ( piano),sau đó học thêm đàn hạ uy di cầm và tây ban cầm
(guitar).Tây ban cầm là loại nhạc cụ gắn bó bền bỉ,lâu dài với người nhạc sĩ
cho tới mãi những năm về sau.Dương Thiệu Tước sử dụng được bẩy loại nhạc cụ Tây
phương và cổ truyền và cũng là người hát có tiếng ở Hà Nội.
Những năm thập niên
1930, ông là chủ của một cửa hiệu bán đàn ở phố Hàng Gai, Hà Nội và tại đây,
ông còn mở lớp dạy đàn.
Dương Thiệu Tước là
người có sáng kiến soạn „nhạc Tây theo điệu Ta“ .Những nhạc phẩm đầu tay của
ông viết bằng tiếng Pháp có tên Joie d´´Aimer ( Thú yêu đương) , Souvenance (Kỷ
niệm) và Ton doux sourire (Nụ cười ngọt ngào của em) mà phần ca từ là do Thẩm
Bích (anh ruột của nhạc sĩ Thẩm Oánh) soạn.
Năm 1938 ông cho in
những ca khúc như Tâm hồn anh tìm em, Một ngày mà thôi,Bên cây lục huyền câm,Dập
dìu ong bướm.. Sau đó một loạt nhạc phẩm mới cũng được phổ biến :Kỷ niệm một buổi
chiều , Thuyền mơ,Kiếp hoa,Áng mây chiều,Nhạc ngày xanh,Dưới nắng hồng.,Trời
xanh thẳm, Vừng trăng sáng…, Các điệu nhạc mà Dương Thiệu Tước vận dụng một
cách sáng tạo trong các ca khúc đã làm cho giới yêu nhạc thời đó rất phấn
khích.
Từ 1946 đến 1953
các nhạc phẩm của ông được xuất bản rất mạnh vì quanh ông không có ai là địch
thủ cả.
Về sau khi nhạc dân
ca phản ảnh đúng tâm hồn dân tộc. Dương Thiệu Tước quay hẳn về nhạc ngũ cung
(Pentatonic) Việt Nam. Trong hồi ký, Dương Thiệu Tước viết: “Tôi quan niệm là
nhạc mới Việt Nam phải là những bản nhạc khi trình diễn thể hiện được dân tộc
tính Việt Nam, và muốn được như vậy nhạc sĩ sáng tác nên biết âm nhạc dân tộc bằng
cách đờn hay ca loại nhạc này và nhờ đó phát huy ra hơi nhạc dân tộc”. Ông đã sọan
ba ca khúc , mỗi bài tương ứng với thức nhạc của mỗi miền Việt Nam: Tiếng xưa
có âm hưởng miền Nam, Đêm tàn Bến Ngự với âm điệu miền Trung và Thề non nước
(phổ thơ Tản Đà) theo âm hưởng miền Bắc.
Năm 1954 Dương Thiệu
Tước và gia đình di cư vào Nam . Vào thập niên 60 và 70, ông được mời dạy
guitare classique tại trường Quốc gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ Saigon. Trong hai thập
niên dạy đàn, Dương Thiệu Tước đã đào tạo được nhiều học trò giỏi, sau này là
những danh cầm của thành phố..Ngoài việc giảng dậy ở trường Quốc gia Âm Nhạc và
Kịch Nghệ, Ông còn tổ chức các chương trình „Cổ kim hòa điệu“ trên đài phát
thanh Sài Gòn ,phối hợp tiếng tiếng đàn nhạc cụ cổ truyền với âm thanh nhạc cụ
Tây phương.
Sau năm 1975,Cả nước
đặt dưới sự thống trị của chế độ độc đảng , nhạc Dương Thiệu Tước bị câm đoán
và ông cũng bị mất chỗ dây học tại trường Quốc gia Âm Nhạc và Kich nghệ Sài
Gòn.
Ngày 01.08.1985, Nhạc
sĩ Dương Thiệu Tước đã từ trần tại Sài Gòn .
Đặc điểm nhạc Dương Thiệu Tước qua một số bài
tiêu biểu
Trong di sản trên
200 nhạc phẩm, có nhiều tuyệt tác thường được nhắc tới : Áng mây chiều,Bến
xuân xanh, Bóng chiều xưa (lời nhạc Minh Trang), Cánh bằng lướt
gió, Chiều ( phổ thơ Hồ Dzếnh), Đêm ngắn tình dài, Đêm tàn bến
ngự, Kiếp Hoa, Ngọc Lan, Ôi quê xưa, Ơn nghĩa sinh thành, Thuyền
mơ, Tiếng xưa, Trời xanh thẳm. Uống nước nhớ nguồn (soạn
chung với Hùng Lân).
Dương Thiệu Tước là
một nhạc sư trong nghệ thuật dung hợp cái rất Tây và rất Ðông trong Tân nhạc.
Trong các ca khúc tuyệt vời mà Dương Thiệu Tước viết trong thời kỳ thử thách của
nhạc cải cách,đa số các nét nhạc đều là nhạc ngũ cung Việt Nam. Ví dụ các bài „Tâm
hồn Anh tìm Em“ , „ Vừng Trăng Sáng“. Nhưng ở bài tình ca
„Trời Xanh Thẩm“ Dương Thiệu Tước đã hòa cả nhạc thất cung (heptatonic)
và ngũ cung.
Vì nhạc sĩ nắm vững
nhạc pháp trong cả hai loại nhạc cổ truyền Việt Nam và nhạc cổ điển Tây phương
cũng như sử dụng được mấy thứ đàn cổ truyền và Tây phương nên Dương Thiệu Tước
sáng tác được nhiều ca khúc hết sức đặc biệt .
Bài „ Đêm
tàn Bến Ngự“. Bản nhạc này vừa có cung bậc Tây phương, vừa mang âm hưởng
Đông phương dìu dặt, mơ hồ, cùng với nét buồn man mác, trữ tình của miền sông
Hương núi Ngự. Bài Ðêm Tàn Bến Ngự.là một tác phẩm viết dựa trên thể thức ca Huế
cổ truyền.Ca khúc là một câu chuyện về sự gặp gỡ giữa người đàn ông với cố
nhân,người hát ca Huế trên thuyền dọc sông Hương. Lời ca có kể đến hai chất liệu
điệu thức là Nam Bình và Nam Ai.
Bài „Tiếng Xưa“ là
ca khúc đã hòa chung nhiều hình tượng cổ điển của Ðường thi trong làn điệu của
cổ nhạc miền Nam. Hãy nghe “cung đàn nhỏ lệ Tầm Dương và phím loan vương tình”
trên sóng nước Cửu Long
Dương Thiệu Tước soạn
nhạc Việt với các tiết điệu Âu châu, Những nét nhạc Tây phương ấy đã tạo thành
các ca khúc nhẹ nhàng, êm ái, du dương mà vẫn không mất tình tự dân tộc , Bài „Thuyền
Mơ“ tiết điệu Valse, Bài „Cánh Bằng Lướt Gió“ tiết điệu
Tango.
Tình ca Dương Thiệu
Tước không phải là nhạc ”than mây khóc gió’ ủy mị. Nhạc tình của Dương Thiệu Tước
là mối tình của những người nghệ sĩ Có „so phim tơ,có nắn cung đàn“ và sau này
cũng vẫn có „tơ chùng phím loan“ trong một bản nhạc tuyệt vời là bản Ngọc Lan
.Nhạc tình Dương Thiệu Tước là cảm xúc trữ tình của người nghệ sĩ đối với thiên
nhiên trong “ Bến Xuân Xanh“ dạt dào sóng nước .
„Bóng Chiều Xưa“ là bản tình ca bất hủ. „Chiều“ là
ca khúc rất phổ biến,Dương Thiêu Tước phổ ý từ thơ Hồ Dzếnh. „Uống Nước Nhớ
Nguồn“ viết với Hùng Lân và bài „Ơn Nghĩa Sinh Thành“ là các bài
mang nội dung dậy dỗ thiếu nhi được đại chúng yêu thích.
Một trăm năm đời người, đời nhạc
Học Tây để hiểu ta
,tiếp thu tinh hoa nước ngoài để phục vụ Việt nhạc là tâm huyết cả đời của nhạc
sĩ Dương Thiệu Tước.
Trong giai đoạn khởi sự xây dựng một nền âm nhạc mới,ông đứng ra cổ xúy sáng tác và phổ biến nhạc .Ông viết các bài tham khảo trên tập san Việt Nhạc .Cùng với nhạc sĩ Thẩm Oánh tiến hành một phong trào khuyến nhạc để rồi về sau có được Hội khuyến nhạc tại Hà Nội .
Qua các công trình
sáng tác và những cống hiến cho âm nhạc, Dương Thiệu Tước được vinh danh là một
trong các nghệ sĩ đầu tiên đã đặt nền móng cho nền tân nhạc của Việt Nam và có
công nối kết phong hóa cổ truyền với nghệ thuật cao nhã Tây phương.
Ra đi vĩnh viễn Nhạc
sỉ để lại cho đời nhiều nhạc phẩm bất hủ.
Dân miền Nam và miền
Trung đã đặt tên Dương Thiệu Tước cho đường phố ổ Sài Gòn và Huế để đáp lại
tình cảm sâu sắc của người nhạc sỉ tài hoa,tâm hồn phong phú đã thể hiện qua
hai tuyệt phẩm Tiếng Xưa và Đêm Tàn Bến Ngự.
Hoa Hướng Nam
© Đàn Chim Việt
No comments:
Post a Comment