Nguyễn
Đình Cống
07/11/2014
Trong
xã hội Việt Nam hiện nay nhiều tệ nạn như tham nhũng,
lãng phí, cửa quyền, mua quan bán tước, gian dối, đạo
đức và giáo dục xuống cấp, sự gia tăng cái ác, lạm
phát, ô nhiễm và phá hoại môi trường, oan ức và khiếu
kiện kéo dài, mất tự do dân chủ, v.v. càng ngày càng
tăng, càng chống càng phát triển. Điều đó có nguyên
nhân sâu xa từ thể chế, từ chính sách và sự lãnh đạo,
quản lý của chính quyền. Đa số người dân mất lòng
tin vào nó. Toàn dân thấy rõ tình trạng đạo lý xã hội
xuống cấp trầm trọng, thế nhưng khi bàn đến cải
cách, đổi mới thể chế thì lại có sự phân tán về
quan điểm. Trong khi khá đông người thấy rõ sự quan
trọng, sự cấp thiết phải cải cách, tuyên truyền, vận
động cho cải cách thì một số người tỏ ra e dè, không
muốn. Tôi đoán nếu bây giờ mà làm cuộc trưng cầu dân
ý với câu hỏi “có đồng ý làm cải cách thể chế
hay không” thì chắc là trong khi nhiều người trả lời
có, rất muốn cải cách, một phần không ít sẽ trả
lời: không. Mọi người đều biết Nga và các nước Đông
Âu như Ba Lan, Tiệp, Đông Đức… là những nước anh em,
bạn bè thân thiết của ta trong phe XHCN trước đây, đã
làm cải cách thể chế trong hòa bình và hiện nay đang
phát triển rất tốt đẹp. Thế nhưng tại sao một số
dân ta lại trả lời không muốn làm như họ. Có một số
người trả lời “không” vì sợ, vì phải làm và nói
theo sự chỉ đạo của đảng và chính quyền, nhưng cũng
có một số thực lòng không muốn. Phải chăng dân ta chịu
khổ quen rồi, chịu áp bức quen rồi nên không muốn thay
đổi? Không, chẳng ai quen với sự nô dịch và bị áp
bức, họ thực sự không muốn cải cách vì có những lý
do khác nhau. Qua sự thăm dò, điều tra sơ bộ tôi thấy
những người này có thể xếp thành bốn loại (không kể
những người thực tâm là muốn nhưng vì sợ hoặc vì bị
bắt buộc mà phải nói không, bọn họ thuộc loại người
đã quen hoặc bị bắt buộc dối trá).
Loại
một
là đa số những người sẽ bị thiệt về quyền lợi
khi cải cách. Một số trong bọn họ không những không
muốn mà còn chống lại cải cách vì đang tận hưởng
cảnh “đục nước béo cò”, càng duy trì tình trạng
như hiện nay họ càng thu nhiều lợi. Mà suy cho cùng thì
chính họ chứ không phải ai khác đã chủ mưu, trực tiếp
hay gián tiếp gây ra tình trạng xã hội như hiện nay. Họ
rêu rao là phải bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ
chế độ, chứ thực chất là bảo vệ quyền lợi của
riêng họ và nhóm lợi ích của họ. Một số còn bịa
đặt là cải cách sẽ gây ra chiến tranh để hù dọa mọi
người. Loại một ước tính vào khoảng 2% dân số. Trong
những người bị thiệt về quyền lợi khi cải cách vẫn
có không ít người hoạt động để cải cách vì họ còn
có lương tâm, họ biết cải cách sẽ mang lại lợi ích
lâu dài cho dân tộc, trong đó có họ.
Loại
hai
là một số người đang có quyền lợi lệ thuộc vào thể
chế hiện hành. Đó là những người hưởng lương hưu,
hưởng chính sách xã hội. Trong số này chỉ một ít có
thu nhập khá còn phần đông cũng chỉ là đủ sống chật
vật, họ sẽ gặp khó khăn khi lương hưu bị chậm chứ
chưa nói đến bị mất tạm thời. Họ sợ cải cách, tuy
là hòa bình nhưng có thể sẽ tạo nên sự thay đổi dù
chỉ trong thời gian ngắn, làm ảnh hưởng đến việc
phát lương hưu hoặc trợ cấp của họ. Đối với họ
thà cắn răng mà chịu, hy vọng sự xấu xa chỉ xảy ra
với người khác, còn mình thì tìm cách tránh được
chừng nào hay chừng ấy. Họ không muốn cải cách chỉ
cốt để giữ yên cái niêu cơm còm cỏi, cái chỗ nằm
chật chội và bẩn thỉu, họ biết đang bị khối u hành
hạ nhưng thà bị chết dần chết mòn do nó phát triển
còn hơn chịu đau một chút để cắt bỏ. Có một ít
trong số họ vẫn còn hy vọng, tin tưởng vào một chút
nào đó lòng tốt và sự sáng suốt của chính quyền, chờ
đợi sự ban ơn từ chính quyền. Theo ước tính, số
người thuộc loại hai chiếm khoảng 6% dân số. Về tỷ
lệ, số này tuy không lớn nhưng ảnh hưởng của họ
tương đối rộng đến số người loại ba và dễ bị
loại một lôi kéo. Trong số những người hưởng lương
hưu không phải tất cả thuộc loại hai, vẫn có nhiều
người không những muốn cải cách mà còn hoạt động
tích cực cho cải cách.
Loại
ba
gồm đa số những người lao động bình thường, làm
việc tự do hoặc trong các tổ chức, họ chỉ cầu mong
xã hội yên ổn để làm ăn, để nhận lương, họ có
tầm nhìn hạn hẹp, biết cải cách là tốt nhưng sợ sẽ
làm xáo trộn cuộc sống. Số này tuy không muốn cải
cách nhưng sẽ sẵn sàng ủng hộ, sẵn sàng tham gia cải
cách khi nó xảy ra. Loại ba chiếm khoảng 10% dân số.
Loại
bốn
là một số người đã bị nhồi sọ, bị mê hoặc mà
ngây thơ tin vào sự tốt đẹp của thể chế, của ý
thức hệ, họ cho rằng xã hội có một số tiêu cực chỉ
là tạm thời và do một số người thoái hóa, biến chất
gây ra, còn chế độ hiện tại vẫn là ưu việt nhất.
Số này thường bị người loại một tuyên truyền, lừa
phỉnh, quen với đầu óc nô lệ, ngu dân (mà cứ nhầm
tưởng rằng mình là người có giác ngộ cao). Loại bốn
chiếm khoảng 3% dân số.
Hiện
nay số mong muốn cải cách, kêu gọi cải cách, hoạt động
cho cải cách đang phát triển trong mọi tầng lớp nhân
dân: đang tại chức hoặc đã nghỉ hưu, từ những người
có vị trí trong xã hội hoặc chỉ là bình thường, từ
những tướng tá, sĩ quan, chiến sĩ trong các lực lượng
vũ trang, từ những trí thức, văn nghệ sĩ, phóng viên và
doanh nhân, từ những người lao động, những sinh viên,
học sinh. Những người thiết tha với cải cách đang dần
tăng lên, đặc biệt là trong tầng lớp tuổi trẻ. Tuy
vậy trước mắt chưa thấy xuất hiện một sự tập hợp
có lãnh đạo thống nhất. Tôi nghĩ rằng khi vận động
cho cải cách thể chế cần công bố và thực hiện phương
châm “Giữ nguyên lương hưu cho những người đang
hưởng”. Làm như vậy nhằm bảo đảm quyền lợi và
lôi kéo những người loại hai tham gia , ủng hộ việc
cải cách, làm cho lực lượng của phe cải cách tăng lên,
thành sức mạnh của toàn dân. Lực lượng ủng hộ càng
đông làm cho công cuộc cải cách càng trở nên bức
thiết, càng thúc đẩy việc phải tiến hành cho đến
thắng lợi.
N.Đ.C.
Tác
giả gửi BVN
Được
đăng bởi bauxitevn vào lúc 06:16
No comments:
Post a Comment