Tuệ Sỹ
Posted
on November
4, 2014 by editor
— 0 Comments
Lời
Dẫn:
Bài tham luận này được viết đã lâu. Nguyên đề là
“Văn minh tiểu phẩm”, chỉ là bài tham luận có tính
chuyên đề. Bỗng nhiên nó mang tính thời sự. Ban đầu
người viết không có ý định phổ biến rộng rãi, mà
chỉ giới hạn trong một số thức giả đọc để suy
ngẩm về quá khứ và tương lai.
Tuy
nhiên, nay nó được cho phổ biến, vì trong mấy tuần vừa
qua, Nhà Nước đã vận dụng bộ máy tuyên truyền khổng
lồ và độc quyền, từ diễn đàn Quốc hội, cho đến
các cuộc họp một số phường quận; từ Hội đồng
chứng minh, Giáo hội trung ương, cho đến các ban Đại
diện Phât giáo quận; bằng các phương tiện phát thanh,
truyền hình, báo chí ; mục đích là xác định lại lâp
trường “trước sau như một” của Đảng CSVN đối với
Phật giáo, và cũng xác định sự hiện hữu duy nhất của
Phật giáo qua đại diện hợp pháp là Giáo hội Phật
giáo Việt nam, mà thực chất là một tổ chức chính trị
của Đảng, thực hiện đúng sách lược tôn giáo theo chỉ
thị của Lenin: “đảng phải thông qua tôn giáo để tập
hợp quần chúng.” Chính điều đó xác định rõ nhiệm
vụ lịch sử của Giáo hội Phật giáo Việt nam như là
công cụ bảo vệ Đảng, đúng như lời Tổng bí thư
Nguyễn Văn Linh trước đây đã tuyên bố: Phật giáo Việt
nam là chỗ dựa cho người Cộng sản Việt nam làm cách
mạng.
Những
tuyên truyền và tuyên bố như trên chỉ được nghe và
nhìn từ một phía. Vì vậy tôi cho phổ biến lại bài
này; không xem đây là chân lý lịch sử, nhưng là sự
thực được nhìn theo chủ quan của một cá nhân. Dù sao,
nhìn sự việc từ một khía cạnh khác sẽ cho thấy rõ
thêm vấn đề. Chân lý cuối cùng tùy thuộc người đọc;
tùy thuộc trình độ tư duy, thành kiến xã hội, hay quyền
lợi vật chất.
Trước
khi giới thiệu bản văn, nhân tiện tôi ghi thêm một vài
sự kiện có tính lịch sử gần nhất, để người đọc
có thêm cảm hứng suy luận.
Tôi
nói sự kiện lich sử gần nhất, là muốn nói ngay đến
sự xuất hiện của Pháp sư Thích Trí Độ lần đầu
tiên tại miền Nam sau ngày Cộng sản chiến thắng. Trên
lễ đài chiến thắng, gồm các lãnh đạo của Đảng và
Nhà nước, hàng cao nhất. Pháp sư thay mặt Phật giáo
miền Bắc, mà trên cương vị người chiến thắng, là
chính thức đại diện toàn thể Phật giáo Việt nam. Đó
là vị Pháp sư, mà miền Nam gọi là Đại lão Hòa thượng;
Ngài bận chiếc áo sơ-mi cụt tay như các cán bộ cao cấp
khác của Đảng và Nhà Nước. Sự thực như vậy rất
rõ: Phật giáo không tồn tại nữa ở Miền Bắc, mà chỉ
tồn tại như một bộ phận của Đảng và lãnh đạo
Phật giáo chỉ là cán bộ của Đảng và Nhà Nước.
Ở
miền Nam, theo báo cáo của Trần Tư, tài liệu của Bộ
Nội vụ phổ biến năm 1996, bấy giờ chỉ có “khoảng
2.5 triệu tín đồ.” Nhưng do nhu cầu lịch sử, nói theo
lý luận của Đảng, nghĩa là chưa xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội nên tôn giáo như thuốc phiện ru ngủ
vẫn còn có nhiệm vụ lịch sử của nó; do nhu cầu lịch
sử nên Đảng thừa nhận tồn tại tín ngưỡng Phật
giáo. Tín ngưỡng, chứ không phải tôn giáo. Bởi vì, tin
và thờ bình vôi, cây đa, ông Táo, ông Địa, là tín
ngưỡng, chứ không phải tôn giáo. Đảng tôn trọng tự
do tín ngưỡng, nhưng chỉ cho phép tin một số hiện
tượng. Ngoài ra là mê tín, hoặc duy tâm mang tính phản
động thì triệt để bài trừ.
Năm
1980, tôi được anh Võ Đình Cương mời họp thảo luận
về văn hoá Phật giáo tại tòa soạn Giác ngộ, tại đó,
đại diện Mặt trận Thành phố HCM đến dự, và đề
nghị (thực chất là ra lệnh): nhiệm vụ văn hoá Phật
giáo là bài trừ mê tín; do đó phải xét lại trong Phật
giáo những gì không thuần tuý thì phải dẹp bỏ. Thí
dụ, Quan Âm, Địa Tạng có thuần tuý Phật giáo hay
không? Tôi phản ứng: đó là đức tin tồn tại ít nhất
hơn 2 nghìn năm, trên một phạm vi châu Á rộng lớn; do
đó không ai có quyền xét để dẹp bỏ. Tin hay không, đó
là quyền tự do cá nhân. Nhưng dẹp bỏ thì không ai có
quyền.
Ngay
sau 1975, nhiều tượng Phật lộ thiên bị giựt sập. Gây
chấn động lớn nhất là giựt tượng Quan Âm tại
Pleiku. Viện hóa đạo đã có những phản ứng quyết
liệt, và đích thân Hòa thượng Đôn Hậu mang tài liệu
phản đối ấy ra báo cáo Thủ Tướng Phạm Văn Đồng.
Hoà thượng kể lại cho tôi nghe, sau khi chuyển hồ sơ vi
phạm chính sách tôn giáo lên Thủ tướng; hôm sau Hòa
thượng được một Đại tá bên Bộ Nộ vụ gọi sang
làm việc. Sau khi nghe Đại tá lên lớp chính trị, Hòa
thượng nói:
“Bởi
vì Thủ tướng có nhờ tôi sau khi vào Nam trở ra Bắc,
báo cáo Thủ tướng biết tình hình Phật giáo trong đó.
Vì vậy tôi báo cáo những vi phạm để Chính phủ có thể
kịp thời sửa chữa, ngăn chận cán bộ cấp dưới không
để vi phạm. Nếu Thủ tướng không muốn nghe thì thôi.
Còn viêc lên lớp chính trị như thế này, đối với tôi
(Hòa thượng) thì xưa quá rồi.”
Dù
sao, phản ứng ấy cũng làm chùn tay những đảng viên
cuồng tín Mác xít, và tự kiêu về chiến thắng với
khẩu hiệu nhan nhãn các đường phố lúc bấy giờ: “Chủ
nghĩa Mác Lê-nin bách chiến bách thắng muôn năm!” Nghĩa
là, không thể tự do hoành hành như trong những năm sau
1954 trên đất Bắc.
Ở
đây, chúng ta phải đặt câu hỏi: sau 1975, nếu không có
Phật giáo miền Nam, cùng với thái dộ cương quyết của
các vị lãnh đạo Giáo hội Thống nhất, Phật giáo Việt
nam sẽ thoi thóp đến lúc nào rồi đứt hơi luôn, với
đà tự kiêu chiến thắng 1975 và với ảo tưởng về
thành trì xã hội chủ nghĩa bách chiến bách thắng của
Liên-xô?
Năm
1982 là cột mốc lớn cho Phật giáo Việt nam, với lời
tuyên bố của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh. Đảng không
dại gì mà dựa lưng vào chỗ mình chưa nắm chắc. Do đó,
bằng mọi giá phải cải tạo Phât giáo miền Nam, giống
như cải tạo xã hội chủ nghĩa theo phương thức tịch
thu tư liệu sản xuất và đưa các chủ tư bản đi lao
động cải tạo. Đảng biết chắc, tuy gặp phải chống
đối quyết liệt của lãnh đạo Phật giáo, nhưng với
bạo lực chuyên chính trong tay, sẽ phải cải tạo thành
công. Trước hết, sự bức tử đối với Thượng tọa
Tâm Hoàn, Chánh Đại diện GHPGVNTN tỉnh Bình định, năm
1975, gây kinh sợ không ít cho những ai cưỡng lại ý chí
của Đảng. Kinh hoàng nhất là cái chết của Thượng Tọa
Thiện Minh năm 1978, trong trại giam X4, Bộ Nội vụ. Đó
là thời gian tôi được giam cùng trại với Hòa thượng
Thiện Minh, nhưng hoàn toàn cách ly. Chỉ biết rõ, khi nghe
tiếng Hòa thượng trả lời thẩm vấn ở phòng hỏi cung
kế cận. Tất cả điều đó củng cố cho tuyên bố của
ông Mai Chí Thọ, bấy giờ là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
Thành phố HCM, nói thẳng với Hòa thượng Trí Thủ, bấy
giờ là Viện trượng Viện hóa đạo: “Các thầy chỉ
có hai con đường, theo hoặc chống. Các thầy theo, chúng
tôi tạo điều kiện cho sinh hoạt. Các thầy chống, chúng
tôi còn đủ xe tăng thiết giáp đó.” Hòa thượng trả
lời: Không theo cũng không chống. Nhưng, đối với Đảng,
không có con đưòng thứ ba.
Ý
chí của đảng là một chuyện. Nhưng những người Phật
giáo cũng nên tự đặt câu hỏi: Ban Liên lạc Công giáo
Yêu nước cũng hoạt động rất tích cực, nhưng không
đưa được Hội đồng Giám mục vào trong Mặt trận Tổ
quốc. Trong khi, rất nhanh chóng, Phật giáo trở thành một
bộ phận của đảng Cộng sản Việt nam. Tại sao?
Từ
ngày thành lập đến nay, Giáo hội thành thành viên Mặt
trận đó đã làm những gì? Làm nhiều lắm, vì chùa
chiền đồ sộ thêm lên. Như lời Hòa thượng Thanh Tứ
phát biểu mới đây trong buổi lễ khai giảng của trường
Phật học Trung cấp tỉnh Bình định. Hòa thượng nói:
“Phật
giáo thời Lý rất thạnh. Nhưng không bằng nay. Vì nay cơ
sở của ta to lớn hơn.”
Ấy
là, theo như lời Hòa thượng nhắc đi nhắc lại nhiều
lần trong bài phát biểu: nhờ chính sách của Đảng. Đó
là sự thực không thể chối cãi. Nhưng cần nói cho rõ
thêm, Việt nam chúng ta bây giờ tiến bộ hơn thời Hồng
Bàng gấp vạn lần. Thời Lý, nước Việt nam chỉ từ
Thanh hóa trở ra Bắc, chỉ hơn 1/3 lãnh thổ hiện nay. Như
vậy thì cơ sở hiện nay nhất định phải to lên rồi.
Nhưng cái to hơn ấy của lịch sử bốn nghìn năm văn
hiến lại chưa bằng một phần nhỏ của Thái lan chỉ
hơn 8 thế kỷ định cư. Và cũng nhờ chính sách của
Đảng, nếu chính sách đó trước sau như một, nghĩa là
như Phật giáo miền Bắc trước 1975, thì không biết ngày
nay các Hòa thượng khi xuất hiện trước công chúng sẽ
khoác tăng bào, hay cũng chỉ bận áo sơ mi cán bộ như
Pháp sư Trí Độ trước đây? Trên toàn miền Bắc, cho
đến 1975, có trên dưới 300 “ông sư, bà vải.” Đến
1996, theo báo cáo Bộ Nội vụ của Trần Tư, “Hiện nay
Phật giáo ở miền Bắc có khoảng 3000 tăng ni, tín đồ
phần đông là ông già (bà già là chủ yếu –nguyên
văn). Số cao tăng tiêu biểu hầu hết đã già yếu không
còn khả năng hoạt động. Số tăng ni trẻ trình độ văn
hoá cũng như lý luận về Phật giáo thấp, không đủ sức
làm nhiệm vụ tranh thủ Phật giáo miền nam và hoạt động
quốc tế.” Giáo hội Phật giáo Việt nam phục vụ cho
cái gì, theo báo cáo đó đã quá rõ.
Ngoài
cơ sở “to lớn hơn thời Lý” ra, còn thêm được những
gì để vượt hơn Phật giáo miền nam trước 1975? Nói về
báo và tạp chí, được mấy phần trăm? Chỉ một tờ
Giác ngộ duy nhất cho cả nước. Cũng là tờ báo hoằng
pháp. Nhưng cũng thường xuyên ca ngợi vinh quang của Đảng,
và giúp Nhà nước phổ biến kế hoạch sinh đẻ, tuyên
truyền đường lối của Đảng chống NATO. Những lời
Phật dạy cao siêu cũng chỉ đủ thêm vài chấm đỏ cho
vinh quang của đảng và đường lối sáng suôt của đảng
trên chính trường quốc tế.
Ngoài
tờ Giác ngộ ra, với ba cơ sở giáo dục cao cấp, tương
đương đại học, nhưng đã có công trình gì đáng kể?
Vậy
thì, qua hơn 20 năm hoạt động, trong tư cách là một bộ
phận của đảng, Giáo hội PGVN đã làm thêm được gì
cho văn hoá Phật giáo VN so với những gì Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) đã làm trước 1975?
Trong khi cả khu vực, và kể luôn cả nước Việt nam đều
tiến bộ, theo chừng mực nào đó, mà Phật giáo Việt
nam chưa lấy lại được thế đứng của nó trong lòng
văn hoá dân tộc như trước đó, vậy thì đảng hỗ trợ
PGVN tiến theo hướng nào?
Bề
ngoài, cũng còn có mặt đáng nói khác, đó là giáo dục.
Trước hết, bao nhiêu cơ sở Trung học Bồ đề, và các
Viện Đại học: một Vạn Hạnh, và một Phương Nam, của
Phật giáo miền Nam, nay biến đi đâu mất? Nói là biến,
vì hầu hết các tăng ni sinh, kể cả những vị đang học
tại các trường cao cấp Phật học, không biết các cơ
sở giáo dục này là cái gì, dạy những gì trong đó.
Chính vì vậy mà họ chỉ biết Phật giáo Việt nam tiến
bộ vì chùa to Phật lớn.
Các
tăng ni sinh này được đào tạo để làm gì? Không thấy
họ được đưa về các địa phương để giảng pháp cho
Phật tử. Cũng không có cơ sơ văn hoá nào để họ phục
vụ. Hầu hết, học xong, trở về chùa, làm nghề thầy
cúng hoặc thầy bói. Tất nhiên cũng có nhiều thầy cô
vẫn tìm cách mở các khoá học Phật pháp, nhưng cũng chỉ
giới hạn trong một số tỉnh thành lớn, nhất là Thành
phố HCM. Ngay như Huế, được xem là kinh đô của Phật
giáo miền nam, hầu như các thầy chỉ đi cúng và đăng
đàn chẩn tế, hoặc lập đàn chay phá cửa địa ngục
cho cô hồn đi chơi, chẳng có buổi giảng kinh nào đáng
kể. Còn cái trường gọi là cao cấp Phật học, hay Học
viện Phật giáo Hồng đức, sau khi Hòa thượng Thiện
Siêu tịch rồi, không còn thầy cô nào đủ sức dịch
cho xuôi một trang luận Câu-xá, thì lấy chữ đâu mà
giảng dạy kinh luận cho tăng ni sinh trình độ cao đẳng,
đại học?
Nhìn
chung, Phật giáo chỉ đang phục vụ nhiều nhất cho người
giàu. Còn quần chúng tại các vùng sâu xa, vì họ thiếu
phước, kiếp trước ít tu, nên nay chẳng mấy khi được
nghe các thầy cô thuyết pháp. Còn lập đàn chẩn tế và
phá cửa địa ngục cho ông bà cha mẹ siêu thăng, đốt
vàng mã thật nhiều cho ông bà có tiền tiêu và có xe hơi
nhà lầu, dưới âm phủ, thì họ không đủ tiền.
Tóm
lại, nếu nói Phật giáo Việt nam hiện tại chẳng có
tiến bộ gì thì không đúng. Vì cơ sở chúng ta hiện nay
đồ sộ hơn trước, kể cả miền Nam trước 1975 chứ
không cần so sánh xa xôi lùi cho đến đời Lý như Hòa
thượng Thích Thanh Tứ. Ngoài việc xây dựng chùa to Phật
lớn, Phật giáo hiện tại đã đóng góp gì cho gia tài
văn hoá, tư tưởng của dân tộc, ngoài sứ mệnh được
giao phó là rao truyền chính sách sáng suốt của Đảng
quang vinh? Còn chuyện tìm một vị trí của Phật giáo
Việt nam, dù chỉ khiêm tốn thôi, trong thế giới hiện
đại, là điều mộng tưởng xa vời.
Gần
đây, các trường Phật học tại Saigon sợ tăng ni sinh
nghe thêm những nguồn thông tin không phù họp với sự
tuyên truyền một chiều vừa độc quyền vừa độc đoán
của Nhà nước, nên vừa cảnh cáo, vừa khuyên răn: hãy
quên đi quá khứ mà lo chăm học cho hiện tại. Quên đi
quá khứ hận thù, để sống trong tình cảm dân tộc bao
dung, đó là điều cần phải học. Nhưng quên đi những
thành tựu quá khứ gần nhất, chỉ cách đây chưa đầy
30 năm, để rồi so sánh sự tiến bộ của ta ngày nay với
thời đại Hồng Bàng, hay với thời Lý như Hòa thượng
Thanh Tứ, thế thì bản chất của nền giáo dục Phật
học ấy là gì? Có phải các thầy muốn dạy tăng ni sinh
quên đi những hy sinh gian khổ của Thầy Tổ đã tạo ra
di sản ngày nay, do vậy họ sẽ nhận thức dễ dàng rằng
những gì chúng ta đang thừa hưởng ngày nay là nhờ công
ơn Đảng và Nhà nước?
Lời
hăm của các thầy có giá trị “hàn mặc dy luân” của
những nhà giáo dục. Chính vì thế tôi cho phổ biến bài
tham luận này, mà trước đó tôi cho là ý kiến cá nhân
nên giới hạn người đọc. Bây giờ tôi vẫn xem đây
chỉ là quan điểm cá nhân. Nhưng tôi cho phổ biến để
các thầy có cơ sở kiểm chứng những thành tựu mà Nhà
nước đã giúp Phật giáo Việt nam. Tất nhiên, tôi nhận
mọi trách nhiệm trước pháp luật, và trên hết, trước
lương tâm của một con người còn tin tưởng giá trị
làm người.
Già
lam 10-11- 2003.
Nguồn:
Đạo
pháp-Dân tộc-Chủ nghĩa Xã hội, biến thái của Phật
giáo Việt Nam hiện tại. Tuệ Sỹ. Già lam 10-11-
2003
No comments:
Post a Comment