Phỏng vấn Trung tướng Lưu Á Châu của không quân Trung Quốc về chiến thuật của Mỹ ở Iraq
Dai Xu, phóng viên ban biên tập Khoa Học Quân Sự Không Quân đã thực hiện cuộc phỏng vấn Trung Tướng Lưu Á Châu, Chính Ủy Không Quân quân khu Chengdu Trung Quốc.
Nguồn:
Interview with PLAAF LGen Liu Yazhou (World Affairs, 1-10-05)
http://www.worldaffairsboard.com/field-mess/8549-interview-plaaf-lgen-liu-yazhou.html
Bản dịch của một thân hữu của viet-studies
http://viet-studies.info/kinhte/LuuAChau_PhongVan.htm
Phần I. Hậu quả chiến tranh: Một cuộc chiến khu vực rung chuyển thế giới.
PV. Chiến tranh
Trung tướng Lưu Á Châu: Dù cuộc chiến giống như vở kịch, nó là thật. Mấy mươi ngày mùa xuân 2003 khiến (ta) phải suy nghĩ. Chiến cuộc đã qua đi, nhưng nó là điểm khởi đầu chuyện khác.
.
PV. Ông có ý gì khi nói “điểm khởi đầu khác”?
Trung tướng Lưu Á Châu: Chỉ là cuộc chiến khu vực, chiến tranh
Để tôi nói ra hiểu biết của tôi về cuộc chiến này từ hai góc độ : một góc nhìn chính trị và một quân sự. Ít lâu sau khi Trung Quốc thắng trận chiến tự vệ chống Ấn Độ năm 1962, Mao Trạch Đông nói chúng ta “ đánh chiến tranh chính trị bằng phương tiện quân sự, hay chiến tranh quân sự bằng phương tiện chính trị”. Chiến tranh
1. Như bước ngoặt chia trật tự quốc tế mới khỏi những cái cũ. Gs. Jin Yinan đã chỉ ra rằng “Chiến tranh quyết định thứ bậc.” Hoa kỳ vẫn theo đuổi kiểu “Đế Quốc Mới” nào đó từ cuối Chiến Tranh Lạnh. Có nghĩa là Hoa Kỳ thống trị thế giới bằng sức mạnh chính trị, quân sự, văn hóa, và tôn giáo của mình.
Khi một quốc gia phát triển đủ mạnh, nó làm bá chủ. Mục đích duy nhất của quyền lực là theo đuổi quyền lực lớn hơn nữa. Đá tảng cuối cùng của hệ thống quốc tế thế kỷ 20 là cơ chế tập thể an ninh toàn cầu được đại diện bởi Liên Hiệp Quốc, một dàn xếp do Hoa Kỳ khởi xướng và thiết lập. Hoa Kỳ đạp lên hòn đá tảng này suốt cuộc chiến. Cuộc chiến đầu tiên của Hoa Kỷ thời “ Trật Tự Đế Quốc Mới” và có ý nghĩa lịch sử to lớn.
Cuộc chiến này đánh dấu kết thúc giai đoạn cũ và khởi đầu giai đoạn mới.
2. Những xung đột văn hóa.
Xung đột văn hóa bản chất là xung đột tôn giáo. Đối đầu giữa các quốc gia Ả Rập và
PV. Do sức mạnh quân sự không cân xứng của Hoa Kỳ, có một cách tiếp cận chiến tranh giống như mê cuồng trong giới chính trị gia diều hâu của quốc gia đó. Cân bằng trong chính trị quốc tế nhanh chóng nghiêng ngả. Vài học giả phương tây đã so sánh Hoa Kỳ với một chiếc xe ngựa đang lao xuống dốc.
Trung tướng Lưu Á Châu: Chiến Tranh
Napoleon đã biết đến sự quan trọng phải kiểm soát trục vận chuyển then chốt này. Khi Hoa Kỳ kiểm soát Trung Đông, các sức mạnh thế giới khác sẽ bắt đầu một vòng hội nhập mới, đưa đến những thay đổi lịch sử thế giới to lớn. Hoa Kỳ chia cắt mảnh đất giữa ba châu lục Á, Âu và Phi.
.
PV. Còn ảnh hưởng của lãnh vực quân sự thì thế nào?
Trung tướng Lưu Á Châu: Thế kỷ trước có hai khối quân sự lớn trên thế giới: Liên Xô cũ và Hoa Kỳ. Hai khối phát triển hai loại học thuyết quân sự. Quân đội toàn thế giới có thể được chia làm hai loại theo hai học thuyết này. Mọi cuộc chiến nóng từ khi kết thúc Chiến Tranh Lạnh thực ra là cuộc chiến giữa hai khối. Bây giờ tôi có thể nói rằng khối có Hoa Kỳ lãnh đạo đã thắng khối do Liên Xô đứng đầu.
Chiến Tranh
.
PV. Để đạt mục đích chiến thắng và chiếm đóng một nước cỡ trung bình, Hoa Kỳ đã sử dụng gần 500.000 quân cho ba năm chiến tranh Triều Tiên, chỉ để bị bắt buộc phải rút lui không chiến thắng; trong khi ở Việt Nam, Hoa Kỳ dùng 500.000 quân khác và chiến đấu gần 12 năm, cuối cùng phải rút lui như trước. Làm sao Chiến Tranh
Trung tướng Lưu Á Châu Tôi muốn trả lời câu hỏi này bằng cách nhắc đến kết cục của hai cuộc chiến khác. Cả Liên Xô lẫn Hoa Kỳ là những siêu cường, và khi xung chiến với cùng địch thủ, kết quả hoàn toàn khác nhau. Liên Xô liên tục dùng 1.500.000 quân trong chiến tranh
.
PV. Ông nghĩ khoảng cách chính giữa quân đội Nga và Hoa Kỳ là gì?
Trung tướng Lưu Á Châu : Khoảng cách nằm chủ yếu ở hai yếu tố: kỹ thuật quân sự và cách xử lý. Để tôi nói về kỹ thuật quân sự trước. Khoa học và kỹ thuật đã phát triển với tốc độ vũ bão và kỹ thuật dẫn đường chính xác đã đưa chiến tranh tới thời đại “chiến binh chính xác”. Hoa Kỳ đã có thể triển khai những vũ khí răn đe nhất tới những nơi mình nghĩ là cần nhất trong thời gian ngắn nhất có thể. Trong vòng một ngày trong cuộc chiến Kosovo Hoa Kỳ thả nhiều bom hơn tất cả số tên lửa Trung Quốc chúng ta triển khai dọc bờ biển phía nam lục địa. Trong cuộc chiến
Bom nhiệt có thể tiêu diệt hầm, boong ke ngầm và mọi thứ trong một tòa nhà – mà không làm hư chính tòa nhà đó. Nó là một thứ gì đó giống bom neutron. Nhanh chóng phát triển và chế tạo những kiểu vũ khí mới theo những hoàn cảnh chiến trường mới là một vũ khí trong và vì chính nó. Cộng thêm vào điều đó, Hoa Kỳ có thể phát triển và cung cấp khí tài mới ngay tức thời tùy nhu cầu chiến trường, một điều rất quan trọng. So sánh, chúng ta dùng ngư lôi, gói nổ và bộ đàm thời chiến tranh Triều Tiên, và vẫn còn dùng trong cuộc chiến tự vệ (!) chống Việt
“Kỹ nghệ tổ chức” chắc chắn là thế bất lợi của chúng ta, nhưng điều quan trọng nhất là liệu chúng ta có cách xử lý có định hướng tương lai cho chiến tranh và liệu kỹ nghệ quốc phòng quốc gia chúng ta có khả năng đáp ứng với chuyện bất ngờ hay không. Chúng ta không có thể bắt đầu nghĩ về những điều đó khi một cuộc chiến sắp nổ ra ngay. Chúng ta phải bắt đầu nghĩ đến những điều đó ngay từ bây giờ. Giá trả cho những phút chậm trễ trong hiện tại là máu đổ trong tương lai. Vì đã có khoảng cách gần một thế kỷ trong những tiến bộ tương đối, điều chúng ta thấy giữa Hoa Kỳ và Taliban trong cuộc chiến
So với Hoa Kỳ, kỹ thuật Nga chỉ được biểu hiện nơi vũ khí, và không được hệ thống hóa. Khi Nga đánh trận Chiến Tranh Chechnia, họ chủ yếu chiến đấu với những vũ khí quy ước, và dòng chảy tin tức không bao giờ đến được các thực địa hay giữa thực địa với các hệ thống chỉ huy. Mặt bằng kỹ thuật quyết định chiến thuật chiến tranh. Không có “khoảng cách thế hệ” giữa lực lượng Nga và Chechen, như vậy các lực lượng không thể chiến đấu trong một trận chiến không cân sức, hay tận dụng một lợi thế kỹ thuật tuyệt đối như Hoa Kỳ. Cơ động là lối ra duy nhất khi phải đối mặt với một không lực áp đảo và những bất lợi về hỏa lực. Chỉ khi một quân đội có sự cơ động mới có khả năng tránh bị tấn công mãi mà không tấn công địch. Và chỉ khi một quân đội có sự cơ động trong chiến tranh thì chiến tranh mới tiếp diễn theo cách mà cả hai bên đều mở những cuộc tấn công. Thiếu cơ động đã dẫn đến thất bại cho quân đội
.
PV. Làm cách nào Hoa Kỳ đã kiểm soát sự cơ động của quân địch?
Trung tướng Lưu Á Châu: Cách tiếp cận của Hoa Kỳ là nắm bắt mọi thông tin, trong khi bịt mắt bịt tai kẻ địch. Chúng ta nói quân đội Hoa Kỳ hùng mạnh, là vì nó có sự mẫn cảm chiến trường thích hợp. Ta hãy xem các dữ kiện sau.
Trong chiến đấu, cần một khoảng thời gian để hoàn tất cái gọi là chuỗi tấn công, từ phát hiện muc tiêu tới chỉ huy một cuộc tấn công chính xác vào mục tiêu đặc biệt đó. Tiến trình gồm những bước sau: phát hiện, định vị, nhắm, tấn công và đánh giá chiến dịch. Trong trận chiến Vùng Vịnh đầu tiên, tiến trình một “chuỗi” như thế mất 100 phút, trong khi trong trận chiến Kosovo và Afghanistan, mất 40 và 20 phút. Trong trận chiến
Trong Chiến Tranh
Nói chung, Chiến Tranh
Do các lực lượng
Phần II. Không Quân, hay Bộ Binh?
PV. Trung tướng Lưu, ông có thể nói về đặc điểm cuộc chiến này? Chiến Tranh
Trung tướng Lưu Á Châu: Nói tắt, nó là cuộc không chiến. Tôi tin không quân là lực lượng quyết định trong trận chiến này, cho dù Hoa Kỳ cũng đưa bộ binh vào. Hoa Kỳ có những lợi ích toàn cầu, và do vậy, những chiến địa toàn cầu. Hoa Kỳ phải áp dụng chiến lược toàn cầu. Điều đó đặc biệt làm cho quân đội Hoa Kỳ phải đánh những trận chiến ở những nơi xa, phải được triển khai ngay, đánh chính xác và giữ quyền kiểm soát bầu trời tuyệt đối. Trong các thành phần của quân đội Hoa Kỳ, chỉ có không quân mới đáp ứng những đòi hỏi đó.
Sau trận chiến ở
.
PV. Như vậy tại sao ngay từ đầu Hoa Kỳ đã gửi bộ binh đến
Trung tướng Lưu Á Châu: Trước tiên, có và làm thế nào sử dụng bộ binh hay không tùy thuộc vào mục đích.
Mục đích của Hoa Kỳ trong trận chiến này là “lật đổ chế độ Saddam” và “giải phóng nhân dân
.
PV. Như vậy có nghĩa là quyết định của Hoa Kỳ đưa bộ binh vào
Trung tướng Lưu Á Châu: Đúng vậy.Để đạt mục đích đó, Hoa Kỳ đã bắt đầu trò diễn ngay đầu cuộc chiến. Chắc bạn đã để ý là Hoa Kỳ mời nhiều nhà báo khắp thế giới, cả từ Trung Quốc,đến tường thuật chiến sự với sự cộng tác của quân đội. Tại sao? Để diễn tuồng cho cả thế giới. Khi Hoa Kỳ đánh cuộc chiến
Hơn nữa, Hoa Kỳ có kế hoạch cải tạo một Trung Đông lớn hơn - tất cả đều cần bộ binh tại chỗ.
Vở tuồng Hoa Kỳ diễn có hiệu quả. Một số nước, nhất là những nước Ả Rập, đã sợ hãi – một phần do ảnh hưởng chính trị của việc dùng bộ binh. Những người cho rằng Hoa Kỳ lại nhấn mạnh vai trò bộ binh không thấy ý nghĩa cách tiếp cận này, họ chỉ nhìn mặt nổi. Phương tiện quân sự mãi mãi là cách đạt mục đích chính trị. Điều đó có thể thấy cả từ mục tiêu quân sự và, thỉnh thoảng, từ diễn trình hoạt động quân sự.
.
PV. Có lý do quân sự nào khiến Hoa Kỳ dùng bộ binh không?
Trung tướng Lưu Á Châu: Không quân là diễn viên chính đã lâu từ Chiến Tranh Vùng Vịnh cho tới Chiến Tranh Kosovo rồi tới cuộc chiến ở Afghanistan; chắc có tranh luận giữa các binh chủng quân đội Hoa Kỳ. Chủ đề có thể là thủy quân và lục quân không đơn thuần muốn đóng vai trò hỗ trợ, họ không muốn bị cho ra rìa. Quân đội đã cảm thấy cuộc khủng hoảng này. Chúng ta biết rằng đã có tranh luận sau khi chiến tranh kết thúc, như dự đoán. Tranh luận không diễn ra trong quân đội nhưng giữa Colin Powell, ngoại trưởng, và Donald Rumsfeld, bộ trưởng quốc phòng.
Nực cười là nó nổ ra không phải là giữa những người trong quân ngũ, nhưng lại là giữa các quan chức dân sự và các sĩ quan cao cấp quân đội. Họ có chung mục tiêu, chỉ khác nhau cách thực hiện. Rumsfelf đề nghị một khái niệm quân sự mới “tấn công chớp nhoáng chính xác”, gọi là học thuyết Rumsfeld. “Chính xác” liên quan tới trí thức hóa cao chiến tranh. Cột trụ lý thuyết của Rumsfeld là quân đội phải được cải tổ thành những nhóm chiến đấu nhỏ hơn về cỡ nhưng dễ triển khai hơn.
Hiệu quả giống như những nhóm biệt kích. Phối hợp với không kích, nó có nhiệm vụ giúp các vũ khí được dẫn đường chính xác tấn công các mục tiêu quan trọng, để yêu cầu chiến đấu được hoàn thành nhanh. Phía kia, tinh hoa lý thuyết của Powell là những lực lượng to lớn dưới đất phải được sử dụng, và phải phối hợp với các cuộc hành quân của các đơn vị nặng.
Khi chiến tranh bắt đầu, chúng ta thấy có thỏa hiệp giữa hai lý thuyết này: cả Rumsfeld lẫn Powell được áp dụng – nhưng không đầy đủ. Nhiều sĩ quan cấp cao tin rằng bộ binh lần này cần lên tới mức Chiến Tranh Vùng Vịnh năm 1991, gồm 10 sư đoàn, nhưng Hoa Kỳ chỉ xử dụng 2 sư đoàn. Mức độ bộ binh được dùng nhỏ hơn trong chiến dịch “Bão Cát Sa Mạc” (Desert Storm), trong khi đạt chiến thắng cao hơn. Tôi tin rằng sự khác biệt giữa lý thuyết Powell và Rumsfeld nằm ở chỗ : trong khi cái trước nhắm tiêu diệt hiệu quả của kẻ thù trên bình diện rộng, cái sau không còn nhấn mạnh sự quan trọng phải tiêu diệt quân đội và khí tài, mà chuyển tập trung vào việc tiêu diệt ý chí chiến đấu. Kết quả chứng minh cái sau đúng.
.
PV. Chúng ta phải coi kết quả “bài tập” của quân đội Hoa Kỳ như thế nào, theo ông?
Trung tướng Lưu Á Châu: Trước tiên, bài tập diễn ra ở thời điểm Hoa Kỳ có ưu thế tuyệt đối. Quân đội Hoa Kỳ tiến bộ rất nhanh. Sư đoàn 3 cơ khí rời Nasiriyah và Najaf, nơi đánh nhau dữ dội đang diễn ra, và hành quân đường dài xa hàng trăm km (về Baghdad), và lập kỷ lục chiến sử mới về hành quân thọc sâu. Tốc độ tiến quân của quân đội Hoa Kỳ bằng hoặc hơn quân đội Đức khi tấn công chớp choáng Liên Bang Sô Viết.
Nhưng sẽ không thể mường tượng ra nổi sức tiến công của lính Hoa Kỳ khi không có sự hỗ trợ từ không lực vuợt trội. Về nghĩa đó, tôi sẽ nói là Chiến Tranh
Mười hai năm qua, Hoa kỳ chiếm bầu trời
Thứ nữa, 12 năm với vùng cấm bay, dội bom và thám sát đã làm tinh thần quân đội và cả đất nước tan hoang. Ý chí của nhân dân
Cùng lúc đó, sư đoàn 3 Bộ Binh Cơ Giới, đơn vị chủ lực của quân đội Hoa Kỳ, chưa bao giờ đánh trận nào nặng ký – tốc độ tiến quân nhanh có được khi Hoa Kỳ làm chủ bầu trời và không quân quét sạch mọi trở lực. Anh có để ý không, bộ binh Hoa Kỳ luôn luôn ngừng một khi gặp bất kỳ sự kháng cự nào hay nó đơn giản bỏ đi? Quân đội không chiếm bất cứ thành phố nào trong cuộc chiến. Phải rồi,
.
PV. Những binh chủng khác nhau làm nhiệm vụ khác nhau trong các chiều kích và lãnh vực khác nhau. Nói chung, không quân đa phần là sức mạnh tiến công và hủy diệt. Nó khó có thể mang trách nhiệm phòng thủ, chiếm đóng và bảo vệ.
Trung tướng Lưu Á Châu Cho tôi đưa ra một so sánh. Không quân như hai tay một người, anh có thể dùng đập bể cửa sổ hay ván cửa. Nhưng nếu anh muốn lấy nhà người ta và muốn bảo vệ tài sản khỏi bị chiếm nữa, anh sẽ phải dùng đôi chân – bộ binh – để vào nhà. Như vậy sẽ vô nghĩa khi so sánh vai trò bộ binh và không quân mà không nhìn đến mục đích chiến tranh và bản chất cũng như đặc tính các lực lượng. Nói chung, lục quân và hải quân bị hạn chế bởi không gian tự nhiên trong hoạt động, trong khi không quân có thể chiến đấu mọi nơi và mọi chiến trường. Hải quân chỉ chiến đấu được trên biển và lục quân trên bộ, trong khi không quân có thể chiến đấu mọi nơi.
Hoa Kỳ phải tính đến phương kế sử dụng bộ binh cho những mục tiêu chiến tranh đặc biệt này. Dầu vậy, Hoa Kỳ đã bỏ ưu điểm của mình và tự hạ mình xuống cho vừa mức người
.
PV. Ông có thể tả cụ thể hơn những đặc điểm trong thành tích của không quân Hoa Kỳ trong trận chiến này?
Trung tướng Lưu Á Châu: Tôi đã viết trong cuốn Một Thế Kỷ Không Quân của tôi rằng, trước thập niên 1980, thế giới gọi “không quân” vì nó là một đội quân trên không. Sau thời gian đó, nó không đơn thuần là một trong các binh chủng, cho dù chức vụ của nó vẫn như vậy. Những thay đổi cách mạng về vũ khí đã mang lại thay đổi cách mạng về chiến lược và chiến thuật không quân. Và không quân chuyển từ vai trò yểm trợ hoạt động lục quân và hải quân sang vai trò nhận yểm trợ từ hai binh chủng kia trong các hoạt động của mình cho tới khi có thể độc lập tác chiến ngày nay.
Không quân đã luôn thay đổi về chất lượng. Trong Chiến Tranh Kosovo năm 1999, chúng ta đã thấy không quân được dùng không chỉ về quân sự, nhưng nó còn được chơi như lá bài ngoại giao. Không kích không chỉ nhắm vào mục tiêu quân sự của kẻ thù, mà còn cả mục tiêu chiến lược quốc gia. Về căn bản việc sử dụng không quân mang tính chiến lược. Cách Hoa Kỳ sử dụng không quân trong cuộc chiến
Hoa Kỳ đã đánh từng trận và cả sáu trận theo cùng một kiểu: trước hết phát động chiến dịch toàn cầu cho chiến tranh, khuất phục quốc gia trong tầm ngắm bằng hải và không quân. Sau đó bao vây tứ phía, cho đến khi có thể chiến thắng với ít hay không phải đánh nhau chút nào. Bao vây bầu trời mang tính toàn cầu đã trở nên đặc tính căn bản của Hoa Kỳ mỗi khi chuẩn bị chiến tranh hiện đại. Nếu muốn tiên đoán xem Hoa Kỳ có phát động chiến tranh hay không, và bao lớn, người ta chỉ cần coi lại việc triển khai không quân.
.
PV. Ông nghĩ tư tưởng chủ đạo sau các cuộc oanh kích của Hoa Kỳ là gì?
Trung tướng Lưu Á Châu: Tê liệt hóa, và chỉ tê liệt hóa. Chiến tranh tê liệt hóa đã là hoạt động liên tục của Hoa Kỳ trong hai thập niên qua. Bản duyệt lại suốt một thế kỷ lịch sử từ khi sinh ra không quân cho thấy chiến lược của không lực các siêu cường trên thế giới quanh đi quẩn lại giữa oanh kích mục tiêu quân sự và mục tiêu dân sự, giữa thả bom chiến lược và không yểm. Trong Thế Chiến II, Anh Mỹ đặt trọng tâm vào bỏ bom chiến lược, trong khi Đức và Nga nhấn mạnh đến yểm trợ chiến trường,và cả hai đều ghi nhiều bàn thắng. Trước chiến tranh Việt
Ngoài lãnh vực quân sự, chính sách ngoại giao Hoa Kỳ là một chính sách làm tê liệt, nhất là khi áp dụng cho Trung Quốc. Căn bản chính sách của Hoa Kỳ với Trung Quốc là gì? Có phải là chia cắt Trung Quốc? Tôi sợ là không phải vậy. Có phải họ sợ Trung Quốc trỗi dậy? Tôi sợ không hoàn toàn thế. Tôi nghĩ Hoa Kỳ chỉ muốn làm Trung Quốc tê liệt. Đó là cách dùng hoạt động quân sự cho lợi ích ngoại giao: để Trung Quốc không phát triển lẫn suy sụp, để Trung Quốc không bao giờ phát triển lành mạnh. Hoa Kỳ không bao giờ muốn Trung Quốc hoàn toàn sụp đổ. Lý do là một khi Trung Quốc sụp đổ, Nhật, Ấn và Nga sẽ nổi lên phá thế cân bằng ở Á Châu, bắt buộc Hoa Kỳ phải lấp vào khoảng trống. Hoa Kỳ không để cho Trung Quốc đổ. Khi Trung Quốc hoàn toàn sụp đổ, Nhật sẽ trỗi dậy.
Khi quan sát giới quân sự Hoa Kỳ tiến hành chiến tranh, chúng ta phải để ý đến lý luận tổng thể thay vì nhìn rời từng cuộc chiến. Trong khi kỹ thuật quân sự càng ngày càng tiên tiến, chiến lược Hoa Kỳ càng ngày càng đơn giản. Chiến thắng càng sớm càng tốt là học thuyết. Và Hoa Kỳ thường dùng những cách xa vời khi hoàn cảnh chính trị còn cho phép. Cuối Thế Chiến II, Hoa Kỳ có thể thắng Nhật bằng nhiều cách – nhưng sao lại dùng bom nguyên tử? Hoa Kỳ có thể đặt chân lên Nhật, không lo thương vong .
Lực lượng Hoa Kỳ dưới đất có thể thắng trận, nhưng đó không phải là cách tốt nhất. Giulio Douhet cho rằng khi một đội quân làm chủ bầu trời, phải tận dụng điều đó để tiêu diệt sức kháng cự vật chất lẫn tinh thần quân địch. sử dụng kém, làm chủ bầu trời của phía bên này có nghĩa là cả hai bên làm chủ bầu trời. Như vậy thì làm chủ bầu trời có nghĩa gì ? Quân đội Hoa Kỳ có đặc tính nhấn mạnh đến việc sử dụng không quân từ khi sinh ra máy bay một trăm năm trước – từ Thế Chiến I, cho chính xác. Nếu muốn hiểu diện mạo Chiến Tranh
.
PV. Sáng kiến “Chiến Tranh Giữa Các Vì Sao” của Ronald Reagan, các kế hoạch phòng thủ NMD và TMD của Bill Clinton và George W. Bush, tất cả đều thuộc loại không quân chiến lược. Các chiến lược này đã được nâng cấp từ “bầu trời” lên “vũ trụ”. Ông có nói rằng một ngày nào đó vũ trụ sẽ là chiến trường. Nhưng trước đó chiến trường trên bầu trời vẫn là chủ yếu.
Trung tướng Lưu Á Châu: Nếu bạn quan sát những gì Hoa Kỳ làm trong quá khứ, bạn sẽ hiểu điều Hoa Kỳ làm trong tương lai. Hoa Kỳ sẽ không bỏ bầu trời khi nó còn tồn tại. Khi Hoa Kỳ còn giữ vị trí chủ đạo, mọi biến cố quan trọng trên thế giới đều củng cố vị thế của Hoa Kỳ. Không có nghĩa là Hoa Kỳ không sử dụng đến bộ binh. Triều Tiên và Việt
.
PV. Chuyện ông tin kết quả chiến tranh
Trung tướng Lưu Á Châu: Giulio nói rằng những cuộc chiến sau này sẽ bắt đầu trên không. Bên sử dụng không lực đầu tiên dĩ nhiên đạt được kết quả quyết định và nhanh chóng trên chiến trường. Những bên không chuẩn bị chiến tranh tương lai sẽ thấy mình quá chậm để sẵn sàng một khi chiến tranh nổ ra – thậm chí còn không thể thấy được những hướng chính cuộc chiến sẽ diễn biến. Và vì sự thay đổi quan trọng trong bản chất chiến tranh, sẽ không lâu để quyết định ai là người chiến thắng.
Giulio Douhet cũng kết luận là không quân có thể chiến thắng trước các binh chủng khác. Vì không quân , với tốc độ chớp choáng, có thể đập cú chết người vào tâm điểm địch quân...bên đạt ưu thế bầu trời trước sẽ có ưu thế quyết định trong chiến tranh. Một quốc gia mất quyền làm chủ bầu trời sẽ chịu thiệt hại to lớn. Như vậy, “làm chủ bầu trời có nghĩa là chiến thắng. Những quốc gia thất bại trong việc làm chủ bầu trời chịu số phận thất bại và phải chấp nhận mọi điều kiện bên thắng đưa ra.”
.
PV. Ông có nghĩ là quân đội – nói rộng ra là bộ binh – sẽ biến khỏi vũ đài lịch sử, đúng như đại tá Sripocinko, viện sĩ viện Khoa Học Quân Sự Nga, đã nói?
Trung tướng Lưu Á Châu: Cách mạng đã thành hình. Nhiều nước liên tiếp đã bỏ học thuyết “chiến thắng bằng số lượng”. Các nước tiến hành tinh giảm quân đội – xuống độ thích hợp. Quân đội Hoa Kỳ giảm từ trên 2 triệu xuống hơn 1 triệu quân, trong khi quân đội Pháp giảm từ 560.000 xuống 400.000. Thống kê của Viện Chiến Lược Quốc Gia ở Luân Đôn cho thấy trong năm 1985 tổng quân số thế giới là 30 triệu, và giảm xuống hơn 20 triệu một chút. Và Hoa Kỳ luôn dẫn đầu thế giới.
Có màn khói dày đặc trong Chiến Tranh
Điểm đầu tiên, dù Sư Đoàn Bộ Binh Cơ Giới của Hoa Kỳ tiến rất xa, không có lợi thế không quân yểm trợ, nó vẫn gặp khó khăn khi tiến quân. Nếu có ai đó nói rằng quân đội truyền thống vẫn còn vai trò nào đó trong tương lai, người đó nên đừng bao giờ quên rằng nó được bảo đảm bằng chuyện làm chủ bầu trời. Điểm thứ hai, Sư Đoàn Thiết Giáp và Sư Đoàn Bộ Binh
Quân đội truyền thống có lịch sử ngàn năm. Ngày nay nó đang hồi kết thúc. Con người đang tiến đến thời đại thông tin. Quân đội ngày nay dĩ nhiên khác quân đội thời cơ khí. Quy luật lịch sử là đào thải những lối sống cũ lấy mới và tiến với thời đại. Chúng ta cũng không tiếp tục xài gươm cán dài thời Guan Yu (Hoàng Đế?), phải không?
.
PV. Nhiều người đã công bố “thời đại Không Quân” khi thấy kỷ lục “thương vong zero” của phía tấn công trong Chiến Tranh Kosovo. Họ sẽ tuyên bố rằng “quân đội đã sống lại” và rằng “chiến tranh đối kháng vẫn còn hợp thời” khi lại thấy bộ binh quân số lớn được dùng trong Chiến Tranh Iraq. Hoa Kỳ đánh mỗi cuộc chiến một cách khác nhau.
Trung tướng Lưu Á Châu: Lỗi đó đơn giản khó tránh nếu một người chỉ nhìn một phần của toàn thể.Không có gì có thể cản đường phát triển các xu thế trong lãnh vực quân sự. Chúng ta phải thấy về phương diện lịch sử, không cần phải quan sát một quá khứ xa, một trăm năm có thể cho thấy các xu hướng trong lãnh vực quân sự. Và rằng, chiến trường dần nâng cao, và khoảng cách các bên tham chiến càng ngày càng xa hơn. Năm 1900, binh lính nhà Thanh còn dùng gươm giáo dài trong các chiến trận, giết và bị giết trong vài mét. Súng của Bát Quốc Liên Quân mở rộng khoảng cách lên 100 mét. Sau đó là đại bác đưa khoảng cách lên nhiều km hay chục km. Sau này xe tăng và máy bay nối dài khoảng cách lên hàng trăm km. Xa hơn, là hỏa tiễn. Cuối cùng, vì bây giờ cả năm yếu tố bầu trời, vũ trụ, mặt đất, đại dương, và điện tử được hòa chung, là thời không-đối-mặt. Chiến tranh kế tiếp có thể là không người lái.
Năm 2000, Hoa Kỳ đưa ra chiến lược “cảnh báo toàn cầu, mục tiêu toàn cầu và sức mạnh toàn cầu” trong đó chiến đấu cơ vũ trụ có thể bay vào không gian và tấn công một muc tiêu dưới đất trong chưa đầy một tiếng. Năm 2020, không quân Hoa Kỳ có bốn lớp: lớp B-2, lớp F-22, lớp phi cơ tiềm kích hỗn hợp và lớp chiến đấu cơ không người lái, tất cả đều có đặc tính tàng hình. Nhiều nguyên tắc chiến tranh tương lai của Hoa Kỳ thực ra đã được phô diễn trong Chiến Tranh
.
PV. Không quân đóng vai trào nào trong chiến lược quốc gia của Hoa Kỳ?
Trung tướng Lưu Á Châu: Có thể nói không quân là ngọn giáo bén hiện thực hóa tham vọng quốc gia của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ có thể hãnh diện nhìn xuống các quốc gia còn lại nhờ “ngọn giáo” này. Hai thập niên trước nó được gọi là “cảnh sát quốc tế”, ngày nay là “đế chế quốc tế”.
.
PV. Vài sử gia Tây Phương nói rằng trong lịch sử loài người, chưa bao giờ có một đế chế có tầm kiểm soát toàn cầu và khả năng can thiệp như Hoa Kỳ.
Trung tướng Lưu Á Châu: Hai thập niên trước, Hoa Kỳ vẫn thỉnh thoảng còn có thể bị địch thủ nhỏ hơn và yếu hơn đánh bại thảm hại. Hai thập kỷ sau, Hoa Kỳ ngày nay không địch thủ trong nghĩa đối kháng với nó, và nó trở nên kiêu ngạo. Đó là vì cách người ta đánh nhau đã thay đổi. Kết quả là luật chơi chính trị quốc tế cũng thay đổi. Giống như thiết kỵ xác định vị thế Đế Quốc La Mã, Hải Quân Anh xác định vị thế Đế Quốc Anh, Hoa Kỳ muốn thiết lập chỗ đứng như siêu cường duy nhất trên thế giới bằng không quân của mình. Không lực Hoa Kỳ có kế hoạch biến mình thành không lực không đối thủ vốn có thể có mặt bất kỳ đâu vào bất cứ lúc nào, trong thập niên tới tới ba thập niên sau
.
Phần III. Bản chất Chiến Tranh Iraq: Tin Học Hóa
.
PV. Ông vừa nói về kết quả và đặc điểm Chiến Tranh
Trung tướng Lưu Á Châu: Ngắn gọn, bản chất cuộc chiến này là tin học hóa, mà chủ tịch Giang trạch Dân đã lưu ý trong Chiến Tranh Vùng Vịnh năm 1991. Trong những thập niên qua, ông thường nhắc đến đề tài tin học hóa – hầu như mỗi khi ông gặp các đại biểu quân đội.
Sau những trận chiến trước là gì? Tổng lực sức mạnh quốc gia. Chiến tranh mới thì sao? Khoa học và kỹ thuật. Tất cả mọi phát minh và sáng tạo quan trọng đều đầu tiên và phải được dùng cho chiến tranh, có thể là bị bắt buộc. Lịch sử nhiều lần chứng minh điều đó. Ngược lại, nếu khoa học và kỹ thuật của một quốc gia tụt hậu, quân đội của quốc gia đó cảm nhận sâu nhất và chịu tổn thất nhiều nhất. Những vũ khí Hoa Kỳ dùng trong Chiến Tranh
Đây là cuộc cách mạng hoàn toàn mới và mở ra một kỷ nguyên mới. Nó thay đổi kiểu triển khai bộ binh tầm cỡ lớn trong chiến tranh trên mặt đất, sang chiến tranh dựa trên sức mạnh làm chủ bầu trời bằng hệ thống điện tử kỹ thuật cao, và hoàn thành các muc tiêu chiến lược bằng các chiến dịch trên không.
.
PV. Tin học hóa có phải là đề cao vũ khí số hóa?
Trung tướng Lưu Á Châu: Tôi nghĩ có 3 cấp tin học hóa: cấp vũ khí điện tử, những hệ thống hành binh trên mạng, sự thay đổi từ tấn công chiến lược sang chiến tranh tâm lý.
Thomson có nói: “tin học hóa không chỉ là vũ khí, nó cũng là kỹ thuật mới vốn thay đổi văn hóa chiến tranh và các xu hướng tâm lý. Nó có thể thay đổi mọi thứ. Những thay đổi nó mang lại mạnh hơn bất kỳ thứ nào khác, có thể mạnh hơn những thay đổi do xe tăng, tầu ngầm và ngay cả bom nguyên tử”.
Có một điểm chung trong tất cả những cuộc chiến Hoa Kỳ tham dự trong hai thập niên qua: không có đội quân nào chống lại được Hoa Kỳ. Lý do chính là sự đối đầu và đối kháng giữa hệ thống của hai bên đã làm cho chiến tranh ở cấp đối cấp chống lại quân đội Hoa Kỳ là không thể được. Năm 1999 trong Chiến Tranh Kosovo, chỉ huy trưởng không quân Liên Bang Nam Tư lái một chiến đấu cơ MIG, ráng cự lại chiến đấu cơ NATO. Nhưng ra đa của Nam Tư bị nhiễu, và liên lạc từ và tới chiến đấu cơ MIG bị gián đoạn. Chỉ huy trưởng không thể thấy địch quân ở đâu. Tệ hơn nữa, ông ở trong tầm ngắm của địch. Chiến đấu cơ MIG bị một chiến đấu cơ Hà Lan bắn và vỡ tan ngay sau khi cất cánh. Năm máy bay khác cũng bị bắn hạ 5 phút sau khi rời đường băng. Hầu hết hỏa tiễn đối không cũng chỉ sống được không quá 5 phút.
.
PV. Suốt cuộc chiến Iraq, người ta không thấy có trận không chiến nào, cũng không có trận đấu tăng nào. Khi có một cơn bão cát, Cảnh Vệ Cộng Hòa Iraq cố tận dụng và đưa hơn ngàn chiếc tăng phản kích quân Hoa Kỳ. Nhưng ngay khi di chuyển, đã bị máy bay và vệ tinh trinh sát phát hiện. Kết quả, họ bị trực thăng vũ trang và những đơn vị phối hợp đè bẹp và tàn sát. Giấc mơ có trận đấu tăng quyết định ở Kirsk tan theo những đợt bom áp đảo.
Trung tướng Lưu Á Châu: Hình ảnh chiến tranh không thể không dẫn tới mức thứ 3 của chiến tranh tin học: chiến tranh tâm lý. Có thể nói chiến tranh tâm lý là điểm đặc trưng đáng kinh ngạc nhất của Chiến Tranh
Tôi luôn nghĩ chiến tranh tâm lý thuộc về phạm trù chiến tranh tin học. Có chiến tranh tâm lý từ khi có chiến tranh. Đó là một trong những hình thái khác nhau của chiến tranh, và là một cuộc đua vươn xa hơn không gian thể lý. Nghệ thuật chiến tranh của Tôn Tử đã nghiệm ra rằng tấn công tâm lý đi đầu trong mọi chiến thuật, và đỉnh cao nhất trong chiến tranh là một bên thắng địch mà không phải đánh trận nào. Trường hợp không-trận-nào của Tôn Tử chỉ có thể đạt được sau những đối đầu tâm lý căng thẳng.
Chiến tranh tâm lý Hoa Kỳ đưa ra chống
.
PV. Làm sao chúng ta có thể hiểu được chiến tranh tâm lý trên nhiều mức độ?
Trung tướng Lưu Á Châu: Hãy lấy Chiến Tranh
Vài khả năng có thỏa thuận hòa bình cho xung đột giữa
.
PV. Trong cuộc chiến này, hình như nhân dân
Trung tướng Lưu Á Châu: Không chút nào. Không có con đường nào bị phá, không cầu bị đánh bom, không mìn nào được đặt. Vài nơi, dân chúng còn hoan nghênh quân đội Hoa Kỳ tới. Một vài chuyên gia quân sự của chúng ta đã mong có chiến tranh nhân dân ở
Khó nói có bao nhiêu người
Cuộc chiến Nha Phiến và cuộc chiến
Cán bộ tham nhũng chắc chắn làm nhân dân ca thán. Trong trường hợp đó, chuyện quan trọng nhất chính quyền phải làm là đàn áp sự chống đối bên trong, làm họ mất khả năng chiến đấu chống ngoại xâm. Lịch sử đã chỉ ra rằng một chính quyền thối nát không bao giờ thắng trận chiến với lực lượng nước ngoài. Tôi có một câu hy vọng bạn nhớ: nếu một chính quyền không lo cho dân mình, thì dân mình cũng không lo cho chính quyền.
.
PV. Những điều ông vừa nói có thuộc phạm trù chiến tranh tâm lý không?
Trung tướng Lưu Á Châu: Nó thuộc hình thái chiến tranh tâm lý cao nhất. Lịch sử cho thấy chiến tranh tâm lý vượt trội tất cả các hình thức khác. Hàng ngàn năm qua con người luôn đeo đuổi chiến tranh trong đó một nước chiến thắng mà không hoặc ít phải đánh nhau. Chỉ trong thời đại tin học mà khả năng đó lần đầu trở nên hiện thực. Đó là phát hiện lớn nhất cuộc chiến này đem lại cho thế giới và cho tương lai.
3-9-10
.
.
.
No comments:
Post a Comment