Thursday, September 2, 2010

NHÀ NƯỚC CỘNG SẢN VIỆT NAM SAU ĐẠI HỘI IV 1976-1982 (Kỳ 2)

Nhà nước Cộng Sản Việt Nam sau Đại hội IV (1976-1982) (2)

Điền Viên

http://www.doithoaionline.org/baimoitrongthang/2010/0710/baimoi0710_140.html

Đối Thọai: Điền Viên là bút hiệt của một đảng viên lão thành CSVN. Ông Điền Viên đã ngòai 70 tuổi, hơn 50 tuổi đảng, có lúc đã giữ chức vụ Vụ Trưởng ở 1 Bộ trong chính phủ VN cộng sản. Hiện nay Ông đang nghỉ hưu tại Hà Nội. Kính giới thiệu đến độc giả của Đối Thọai bài viết “Nhà nước Cộng Sản Việt Nam sau Đại hội IV” của Điền Viên Kỳ 3 và cũng là kỳ cuối
Nhà nước Cộng Sản Việt Nam sau Đại hội IV (1976-1982)kỳ 1

-------------------------------

.

Kỳ 2

Kết quả là nông dân giết trâu bò gia súc trước khi bị tịch thu, bị ép buộc vào hợp tác xã nông nghiệp và khi phải vào hợp tác xã nông dân đã không chịu hết sức làm việc cho nên lương thực vào những năm 1978 và 1979 bị thiếu hụt trầm trọng.

Theo thống kê chính thức của chính phủ CSVN lúc đó. Tổng sản lượng lúa gạo sản xuất năm 1976 là 11,83 triệu tấn, năm 1977 còn 10,60 triệu tấn, năm 1978 chỉ còn là 979 triệu tấn. Đại đa số nhân dân phải ăn độn cơm với khoai hay bo bo, món này được đảng và nhà nước gọi là cao lương. Nhiều nơi gần như bị nạn đói hoành hành, có nơi chính quyền phải cấp giấy cho nông dân, thương binh đi ăn xin công khai để chống chết đói. Mức sản xuất giảm sút trầm trọng đến nỗi Hội nghị Trung ương vào tháng 8 năm 1979 đã phải tạm thời nới lỏng việc tập thể hóa, theo đó, miền Bắc sẽ cho phép ngoài hệ thống kinh tế nhà nước, còn có một phần nhỏ kinh tế cá thể. Riêng miền Nam, còn cho phép kinh tế tư doanh cỡ nhỏ tạo điều kiện gia tăng sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp.

Về công nghệ, những năm đầu sau chiến tranh, mức sản xuất có tăng đôi chút vì những hãng xưởng ở miền Bắc không còn phải sơ tán vì chiến tranh nữa và ở miền Nam việc kiểm soát của chính quyền còn chưa chặt chẽ lắm. Tuy nhiên, sau 1977, sau khi chính quyền đầy mạnh “cải tạo công nghiệp”, mức sản xuất sa sút hẳn. Tổng sản lượng sản xuất công nghiệp năm 1980 so với 1976 thấp hơn 3 %. Kỹ nghệ nặng miền Bắc cũng bị tổn hại nặng sau khi quân Trung Hoa tấn công và tàn phá những tỉnh biên giới phía Bắc vào đầu năm 1979. Vì nạn thất nghiệp gia tăng, Việt Nam phải gửi hàng trăm ngàn nhân công đi lao động tại Liên Xô và các nước Đông Âu.

Khi đặt chỉ tiêu phát triển kinh tế thật cao như vậy, đảng nhà nước Cộng Sản Việt Nam cũng đã lạc quan trông đợi vào sự giúp đỡ của những cường quốc. Tuy nhiên, số tiền ngoại viện đã không được như ý muốn.

Tiền bồi thường chiến tranh 3 tỷ Mỹ kim của Mỹ không có, các nước Tây Phương chỉ viện trợ nhỏ giọt, viện trợ của Trung Hoa nửa chừng bị cắt. Sau khi Việt Nam ký hiệp ước hữu nghị với Liên Xô và gia nhập khối kinh tế COMECON của những nước cộng sản, Việt Nam chỉ nhận được viện trợ của Liên Xô và các nước Đông Âu, nhưng số viện trợ này không đủ để bù đắp vào nhũng khuyết điểm của một hệ thống kinh tế cứng nhắc, không năng động, rất trì trệ và thiếu sáng kiến. Ngoài ra, sự viện trợ của những nước cộng sản anh em khác với khoảng trên dưới ba tỷ Mỹ kim mỗi năm cũng không phải không có điều kiện. Đó là điều kiện buộc Việt Nam phải đứng hẳn vào phe Liên Xô để chống lại Trung Hoa và phải để cho Liên Xô sử dụng hải cảng Cam Ranh và Đà Nẵng.

Ngay sau trận chiến biên giới Việt - Hoa vào năm 1979, những chiến hạm trang bị dụng cụ điện tử để thu thập tin tức tình báo của Liên Xô bắt đầu cập bến Đà Nẵng. Sau đó, ngày 27-3-1979, một chiến hạm, một hộ tống hạm, một tàu vớt mìn của Liên Xô tiến vào trú đóng tại hải cảng Cam Ranh. Số chiến hạm này tăng dần cho tới năm 1986 thì có tất cả 25 chiến hạm, kể cả tàu ngầm. Cùng với khoảng 16 oanh tạc cơ Badger, một phi đội Mig 23 cùng những phi cơ chuyên chở và quan sát tầm xa, Liên Xô đã có một đầu cầu quân sự quan trọng đe dọa Trung Hoa cũng như toàn vùng biển ở nam Thái Bình Dương (27).

Cũng ngay sau cuộc chiến Việt- Hoa trên vùng biên giới, để đối phó với sự đe dọa liên tục của Trung Hoa và để cho có đủ quân số bình định Căm Pu Chia, ngày 5-3-1979, Việt Nam ra lệnh tổng động viên, tăng quân số từ nửa triệu đến hơn 1 triệu, biên chế thành 51 sư đoàn, trong đó có 38 sư đoàn bộ binh (19 sư đoàn đóng ở Căm Pu Chia, 16 sư đoàn Ở Việt Nam, 3 sư đoàn ở Lào).

Số quân đoàn chính qui với mỗi quân đoàn có 3 hay 4 sư đoàn dùng như những lực lượng tổng trừ bị cũng tăng từ 4 lên thành 6 rồi 8 (28). Sự bành trướng quân đội này được thực hiện nhờ sự trợ giúp lớn lao của Liên Xô.

Trước năm 1975, Liên Xô chỉ cung cấp khoảng 75% trang bị và tiếp liệu của quân đội Cộng Sản Việt Nam, số còn lại là của Trung Hoa và nhũng nước Đông Âu khác giúp đỡ. Sau năm 1975, tỷ số này lăng lên 97%. Mỗi năm Liên Xô gửi khoảng 15 ngàn cố vấn quân sự sang Việt Nam. Trị giá viện trợ quân sự của Liên xô cho Việt Nam được ước lượng khoảng 1 tỷ rưỡi Mỹ kim.

Đó là cái giá cần thiết trong mục tiêu chiến lược của Liên Xô để một mặt, dùng Việt Nam cầm chân và bao vây Trung Hoa và mặt khác, có được một đầu cầu chiến lược đối đầu với Hoa Kỳ tại vùng biển Thái Bình Dương đe dọa các nước Nam Dương và Úc Châu.

Tuy nhiên, dù đã được Liên Xô và các nước Đông Âu viện trợ dồi dào như thế, nhưng do gánh nặng của cuộc chiến Căm Pu Chia và vì phải đề phòng bài học thứ hai của Trung Hoa, ngân sách của Việt Nam bị thiếu hụt trầm trọng.

Riêng chiến phí quân sự tại Căm Pu Chia đã chiếm mất hơn 40% ngân sách. Ngoài ra, trong thời gian đó, Trung Hoa vẫn cố gắng phát động một cuộc chiến tranh phá hoại đa diện khiến cho nền kinh tế Việt Nam càng thêm cùng quẫn.

So với Việt Nam, Trung Hoa không thua kém về sự kiên nhẫn và những thủ đoạn. Họ giúp đỡ Khmer Đỏ tiếp tục cuộc chiến tranh phá hoại, thường xuyên gây rối ở biên giới, đe dọa về bài học thứ hai, ve vãn những chính khách thất sủng như Hoàng Văn Hoan, Trương Như Tảng của Việt Nam, Không Le ( chắc đại úy Coong le) của Ai Lao... thành lập những “Mặt Trận Giải Phóng" chống lại CS Việt Nam. Họ áp lực và mua chuộc để những công ty ở Hồng Kông, Thái Lan, Mã Lai hay Tân Gia Ba không mua hàng hóa của Việt Nam... Những điều này đã khiến kinh tế Việt Nam càng thêm sa sút trầm trọng.

Dù căn bản cho sự sa sút kinh tế này là do việc tập thể hóa nông nghiệp và “cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh" ở miền Nam, nhưng nhóm cầm quyền vẫn một lòng trung thành với chủ nghĩa Mác - Lê nin. Vẫn cho chính sách kinh tế tập trung là siêu việt và họ đổ lỗi cho những thất bại là do những lý do khách quan, như bị những thế lực thù địch phá hoại do "tàn dư Mỹ Ngụy” hay do cán bộ quản lý yếu kém. Vì thế năm 1980, đảng Cộng Sản cầm quyền cải tổ lại chính phủ để thay đòi nhân sự đều hành:

- Thủ tướng vẫn là Phạm Văn Đồng (29)

- Tố Hữu được cử làm phó thủ tướng đặc trách kinh tế.

Nhân vật Tố Hữu tên thật lả Nguyễn Kim Thành, bí danh là Lành, sinh tại Huế năm 1920, xuất thân là một nhà thơ cộng sản nổi tiếng với bài thơ ca tụng lãnh tụ của CS Liên Xô Stalin. Tố Hữu trong suốt mấy chục năm trước thường chỉ công tác trong đảng với những nhiệm vụ văn hóa hay tuyên huấn, nhưng đã được chỉ định đặc trách kinh tế vì Tố Hữu là người tỏ ra rất trung kiên về ý thức hệ, rất tôn phục Liên Xô và trong giai đoạn này, bộ chính trị CSVN quyết tâm “xã hội chủ nghĩa hóa” nền kinh tế Việt Nam rập theo khuôn mẫu Liên Xô một cách cứng rắn. Ngoài ra, Tố Hữu còn được Lê Duẩn và Lê Đức Thọ nâng đỡ, cho nên hai năm sau ông ta được chính thức đưa vào Bộ Chính Trị, như vậy Tố Hữu là người được dự trù để thay thế Phạm Văn Đồng làm thủ tướng một khi ông này về hưu.

(Chi tiết thú vị : dù ở chức vụ cao, nhiều quyền hành, thơ của ông ta được học sinh bắt buộc phải học nhiều nhất, nhưng Tố Hữu và đảng Cộng Sản cũng biết giới hạn mà không bao giờ in lại hay phổ biến bài thơ : "thương mến Staline gấp mười cha mẹ của ông" nữa).

Phạm Hùng thay Trần Quốc Hoàn làm bộ trưởng công an. Phạm Hùng, bí danh Bảy Cường, người tỉnh Bến Tre. Sau Hiệp Định Genève năm 1954 đóng vai một đại tá phục vụ trong phái đoàn Bắc Việt tại Ủy Hội Kiểm Soát Đình Chiến, sau đó trốn vào bưng làm chủ tịch Trung ương Cục Miền Nam, là ủy viên Bộ Chính Trị duy nhất phục vụ tại miền Nam.

- Nguyễn Cơ Thạch thay Nguyễn Duy Trinh trong chức vụ bộ thường Bộ Ngoại Giao.

Nguyễn Cơ Thạch là một nhà ngọai giao giỏi tiếng Anh, tiếp xúc nhiều với thế giới bên ngoài nền đầu óc tương đối cởi mở, ông này được cử lên thay Nguyễn Duy Trinh trong thời gian mà Việt Nam đang bị cô lập sau khi Việt Nam đem quân sang chiếm đóng Căm Pu Chia vào đầu năm 1979.

Văn Tiến Dũng thay Võ Nguyên Giáp làm bộ trưởng Quốc Phòng. Võ Nguyên Giáp bị Lê Duẩn ganh ghét nên đã bị chèn ép và mất dần uy thế. Năm 1973 nhân sự thất bại của trận chiến năm 1972. Lê Duẩn gạt Võ Nguyên Giáp ra khỏi chức Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội. Năm 1980 Võ Nguyên Giáp mất luôn chức ủy viên Bộ Chính Trị và bộ trưởng Bộ Quốc Phòng. Kể tử đó Võ Nguyên Giáp chỉ còn được giao cho những chức vụ không quan trọng như chủ tịch Ủy Ban Khoa Học kỹ thuật nhà nước hay Ủy Ban Phòng Ngừa Sinh Sản của chị em phụ nữ.

- Nguyễn Lâm thay Lê Thanh Nghị làm chủ tịch Ủy Ban Kế Hoạch Nhà nước. Khả năng chính của Lê Thanh Nghị là trong những năm chiến tranh thì mỗi năm cầm bản danh sách những vật dụng hay quân dụng cần thiết sang Trung Hoa xin viện trợ. Sau 1975, Trung Hoa đã trở nên thù nghịch nên Lê Thanh Nghị đã không còn cần thiết nữa.

-Đinh Đức Thiện (em trai ruột Lê Đức Thọ) (30) thay Phan Trọng Tuệ làm Bộ Trưởng Bộ Giao Thông Vận Tải. Phan Trọng Tuệ từng là chính ủy Quân Khu IX Ở miền Nam trước 1954. Con rể Phan Trọng Tuệ là Nguyễn Khánh Toàn, sau này là thứ trưởng bộ công an. Chính Phan Trọng Tuệ, vào những năm cuối thập niên 1940 đã cho Phòng Chính Trị của Quân Khu IX phổ biến thông tư đặc biệt cho phép Phan Trọng Tuệ, Lê Đức Thọ và Lê Duẩn được lấy thêm vợ (31)

- Trần Hữu Dực thay Vũ Tuân ở Bộ Công Nghiệp Nhẹ.

Ngoài ra, ở các bộ khác như :

- Bộ Trưởng Xây Dựng Đồng Sĩ Nguyên đã thay Đỗ Mười từ 1977 để cho Đỗ Mười vào miền Nam chỉ đạo việc cải tạo công thương nghiệp

- Bộ Trưởng Bộ Lương Thực Hồ Viết Thắng (32) thay Ngô Minh Loan từ 1979.

Bộ Trưởng Nội Thương Trần Phương (từng là trợ lý của Lê Duẩn) thay Hoàng Quốc Việt từ 1981

- Bộ Trưởng Văn Hóa Thông Tin Nguyễn Văn Hiếu (thứ trưởng là Trần Độ (33) kiêm nhiệm bí thư đảng ủy)

Bộ Trưởng binh xã hội Dương Quốc Chính. Dương Quốc Chính từng là Bộ Trưởng Nông Nghiệp trước năm 1965. Trước đó là 1 trong 11 người được phong tướng đầu tiên trong quân đội, dưới tên Lê Hiến Mai (xin xem chú thích (34) về lý do cái bí danh này).

Huỳnh Tấn Phát người của Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam MTGPMN VN cũ được làm chủ tịch ủy Ban Xây Dựng Cơ Bản Nhà Nước.

Nội các này đã gần như không thay đổi cho đến đại hội đảng lần thứ V.

Đại hội IV được cử hành trong khí thế đang lên sau chiến thắng năm 1975, cùng một lúc với sự bành trướng thế lực của Liên Xô trên toàn thế giới. Vì thế, những nhà lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam lúc đó hoàn toàn tin tưởng rằng chủ nghĩa Mác-xít Lê-nin-nit bách chiến bách thắng, sức mạnh của "ba dòng thác cách mạng" dưới sự lãnh đạo của Liên Xô là một sức mạnh long trời long lở đất đang trên đường nhuộm đỏ toàn cầu.

Tin tưởng vào sự hậu thuẫn của Liên Xô, họ đe dọa các nước lân bang, đặt điều kiện khi Hoa Kỳ ngỏ ý muốn bang giao, coi thường dư luận trên thế giới để chiếm đóng Căm Pu Chia và ngang nhiên thách đố và đương đầu với Trung Hoa. Tất cả những chính sách đó dù đã đưa kinh tế Việt Nam vào một tình trạng thảm hại, đời sống nhân dân thêm khốn khó, nhưng chính quyền CS Việt Nam lúc đó vẫn cuồng tín tin tưởng rằng khó khăn chỉ là tạm thời, thuận lợi là chủ yếu. Với tinh thần cương quyết xây dựng xã hội chủ nghĩa, đảng Cộng Sản Việt Nam chuẩn bị họp Đại Hội Đảng Lần Thứ V.

Chú thích:

1 . Thái độ của Phạm Văn Đồng khi dự Hội Nghị Tích Lan, trích trong bài Passing Of An Area của Seah Chi ang Nee từ www.littlespeck.com/The Past/cpast-viet-870102.htm

2. Bộ máy cai trị của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ, tài liệu của ông Trần Nhu, một nhà sử học ở Hà Nội hiện định cư tại Hoa Kỳ (trong website : Vietnamexodus). Trưởng ban trong Trung ương Đảng ăn lương bậc 9 cấp bậc ngang bộ trưởng nhưng quyển thế nhiều khi lớn hơn bộ trưởng, chẳng hạn trưởng ban Thông Tin Văn Hóa Đảng, quyền thế hơn bộ trưởng Thông Tin Văn Hóa. Trong số những người này có ông Nguyễn Trung Thành trong những năm 1960 đã cùng Đại Tá quân đội Kinh Chi thuộc cục bảo vệ quân đội và Đại Tá Dương Thông (sau là trung tướng) thuộc Bộ Công An theo lệnh Lê Duẩn và Lê Đức Thọ bắt bớ, giam hãm những người trong vụ án xét lại hiện đại, tướng công an Dương Thông là em vợ của Lê Duẩn.

3. Nguyễn Chí Thanh từng là ủy viên xứ ủy Trung kỳ, tới 1948 được cừ làm chủ nhiệm Tống Cục Chính Trị Quân Đội, rất thân cận với Lê Duẩn và Tố Hữu. Vào Nam chỉ đạo chiến tranh từ 1964 đến 1967 thì chết sau khi về miền Bắc. Có lẽ trong hồ sơ lý lịch xét sau năm 1975, cho thấy Nguyễn Chí Thanh khi bị Pháp bắt thời trước 1945 đã cung khai ra hàng loạt đồng bọn nên sau này Nguyễn Chí Thanh đã không được vinh danh rầm rộ như những người khác. (chỉ có 1 con đường ở Sàigòn ngay sau 1975 lỡ được đặt tên Nguyễn Chí Thanh nên được giữ lại).

4. Sự ganh ghét giữa Lê Duẩn và Võ Nguyên Giáp, đọc hồi ký Mặt Thật của cựu đại tá Bùi Tín theo đó Lê Duẩn còn có lần chê Võ Nguyên Giáp “nhát như thỏ đế". Không những đã đè đầu và hạ nhục Võ Nguyên Giáp, Duẩn và Thọ còn coi thường cả Hồ Chí Minh.

Nhật ký của Nguyễn Văn Trấn, ủy viên Trung ương Đảng kể lại lời Bùi Công Trừng nói là trong một hội nghị, Hồ Chí Minh muốn có ý kiến đều bị Lê Đức Thọ gạt đi nói là : “bác hãy cho anh em người ta nói đã mà…”.

Ung Văn Khiêm cựu Bộ Trưởng Ngoại Giao vì ký thông cáo chung với Novotny của Tiệp Khắc thiên về lập trường Liên Xô nên bị phê bình đã phân trần là trước đó Hồ Chi Minh chẳng những đã đồng ý với ông ta mà còn viết thêm lời bàn trên bản thào. Ung văn Khiêm nói với Bùi Công Trừng : " tao nghĩ bản thảo ấy đưa ra không phân bua được gì cho tao, mà chỉ làm thớt cho Sáu Thọ ( tức Lê Đức Thọ) băm ông Cụ”.

Nhà văn Vũ Thư Hiên hiện sống lưu vong bên Pháp cũng kể lại là Lê Liêm, cựu chủ nhiệm tổng cục Chính trị, cựu thứ trưởng bộ giáo dục có lần dự định đề ra một kế hoạch, hỏi ý Hồ Chí Minh và được đồng ý, nói là cứ đưa ra hội nghị và ông ta sẽ hỗ trợ, nhưng khi đưa ra bị nhóm Duẩn và Thọ chỉ trích thì Hồ Chí Minh làm lơ, ngó qua chỗ khác.

Với danh vị của Hồ Chí Minh, chắc ban tổ chức của Lê Đức Thọ đã nắm được điều gì trong lý lịch (có thể là vụ cụ Phan Bội Châu bị bắt, những lăng nhăng tình ái...) khiến Hồ Chí Minh phải ngồi yên để nhóm Duẩn, Thọ thao túng trong nhiều năm.

5. Tôn Đức Thắng nhở tuổi tác và không bon chen nên được làm Chủ tịch nhà nước sau khi Hồ Chí Minh chết. Xuất thân là công nhân, sau đó trong thế chiến thứ nhất làm thủy thủ trên một tàu chiến Pháp, được Đảng Cộng Sản Việt Nam mô tả là một người "giản dị, vĩ đại”. Sử gia Christoph Giebal khi viết về Tôn Đức Thắng cũng công nhận ông ta là một người giản dị, không tham vọng nhưng chưa chắc là vĩ đại, vì một ngày bộ máy tuyên truyền càng tạo thêm nhiều chi tiết về tiểu sử của ông.

Mới đầu, Đảng Cộng sản nói là ông đã tham dự vào cuộc nổi loạn ở biển Hắc Hải vào năm 1907, một tàu Pháp từ chối không chịu nghe lệnh cấp trên để trợ giúp đàn áp phong trào công nhân nổi loạn ở Liên Xô. Những năm 1950, thì đảng nói thêm là ông là người cắm cờ Cộng sản trên con tàu đó, bây giờ đảng lại đôn ông lên làm một trong những người lãnh đạo phong trào nổi loạn. Trong suốt mấy chục năm, nhiều phóng viên Liên Xô đã nhiều lần hỏi ông về những chi tiết trong vụ này nhưng ông đều trả lời là ông không nhớ.

6. Mai Chí Thọ, sau 1975 là lãnh đạo công an ở miền Nam, ông này đã chiếm hữu một tòa biệt thự rộng lớn ở Sài gòn ( nơi đây là tòa đại sứ Thụy Sĩ trước kia). Đến 2006, khi không còn quyền hành, mới viết thư góp ý trong dịp chuẩn bị đại hội đảng lần thứ X là những người trong Liên minh Dân chủ “khi cần chúng ta lấy ra dùng, khi không cần, chúng ta gạt ra". Thật ra những người này, khi chính quyền tịch thu nhà của những người di tản hay bị đuổi đi kinh tế mới đều được cấp cho mỗi người một căn nhà khang trang hơn, kề cả đám Vũ Hạnh, Lữ Phương, Thái Bạch...

7. Khoảng hơn 10 năm sau Lý Quí Chung có viết một bài báo kể lại chuyện học chính trị cùng với sinh viên. Khi làm bài, Lý Quí Chung gò lưng so sánh Mác với người này người kia để cuối cùng kết luận Mác lả số 1, nhưng kết quả điểm lúc nào cũng hạng chót. Lý Quí Chung hỏi mấy cô sinh viên làm bài ra sao, mấy cô cười phá lên và nói là tài liệu đưa ra sao, mấy cô chép y trang lại là được điểm hoàn toàn cao. Giọng văn của Lý Quí Chung trong bài này là để phân trần thiện chí học tập của mình mà không được chiếu cố chứ không phải có ý chê trách lối giảng dạy. Cựu Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa kế lại, là mấy ngày sau 30 - 4-1975, ông có đến nhà Ngô Công Đức, đúng lúc công an CS đến bắt Ngô Công Đức vì tội “chắc phải làm lớn với Mỹ Ngụy nên trong nhà mới có đài (điện thoại)”. Gia đình phải chạy chọt mãi nên Đức mới được tha ra.

8. Thích Huyền Quang, tên thật Lê Đình Nhân sinh năm 1919. Bắt đầu bị bắt giam vào năm 1977 chỉ vì phản đối chính sách đàn áp tôn giáo và chống lại việc sát nhập Giáo hội Việt Nam Thống nhất vào giáo hội nhả nước CS. Năm 1982 bị đày ra chùa Hội Phước, thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Năm 1992, được thượng tọa Thích Đôn Hậu viết chúc thư công nhận ông là Tăng Thống Viện hóa Đạo, nhưng công an CS vào chùa tịch thu rồi giấu mất chúc thư mấy năm trước đi. Phan Văn Khải và gần đây hơn là bộ trưởng công an CSVN Lê Hồng Anh có đến thăm thượng tọa với mục đích tuyên truyền và ly gián Thượng Tọa Huyền Quang với Thích Quảng Độ.

9. Thích Quảng Độ, tên thật là Đặng Phúc Tuệ sinh năm 1928, là tổng thư ký Viện Hóa Đạo cùng bị bắt một lượt với Thượng Tọa Thích Huyền Quang. Năm 1982, Thượng tọa bị đày ra tỉnh Thái Bình để quản chế tại ngôi chùa Long Khánh. Sau hơn 10 năm, khi Liên Xô sụp đổ và toàn khối CS Đông Âu tan rã, ông đã tự ý trở lại Sài gòn vào năm 1992 để tiếp tục đấu tranh cho tự do tôn giáo và sau đó nữa lại bị kết án tù 5 năm chỉ vì đi cứu tế bão lụt cho đồng bào các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Trong đêm đầu tiên ở chùa Long Khánh, thượng tọa đã làm mấy câu thơ :

Dưới án quyển kinh sâu cuốn tổ

Trên tòa tượng Phật nhện giăng tơ

Câu đối mối xông mùn đắp kín

Hoành phi mọt đục bụi che mờ

Thầy của ông, thượng Tọa Thích Đức Hải bị quân cộng sản bắt và xử tử vào năm 1946 vì bị nghi là tham gia vào Quốc dân Đảng.

10. Nguyễn Văn Thuận cháu của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, trước 1975 phụ tá Tồng Giám Mục Nguyễn văn Bình. Sau đó bị đưa ra Bắc và bị ở tù 13 năm. Khi Đức giám mục này qua La Mã công tác, chính quyền CSVN không cho ông trở về nước nữa. Tòa thánh Vatican đã giữ ông lại sau đó được thăng Hồng Y trước khi ông mất tại hải ngoại.

11. Vụ David Trương làm gián điệp, dù chỉ ăn cắp được những tài liệu không quan trọng nhưng vì không quan trọng nên có thể công khai đưa ra tòa làm bằng chứng. Sau khi bị kết tội, David Trương sang định cư ở Hòa Lan (Brother Enemy - Nay an Chan da). Một người giúp đỡ chính phủ Mỹ trong vụ án này là bà Yung Krall ( tức Đặng Mỹ Dung).

12. Thích Trí Siêu tên thật Lê Mạnh Thát, đi tu năm 15 tuổi. Đỗ tiến sĩ triết học tại Đại Học Wisconsin, trở về dạy ở Đại Học Vạn Hạnh đã cùng Thích Tuệ Sĩ soạn cuốn Từ Điển Phật Giáo Việt Nam. Ông bị bắt giam ở Chí Hòa từ 1984 đến 1988, CSVN mới đưa ông ra tòa và bị kêu án tử hình. Nhờ quốc tế can thiệp, án giảm còn 20 tù, bị giam ở trại Z-30D. Mấy năm sau được thả ra nhưng vẫn bị quản thúc hay theo dõi chặt chẽ. Thích Trí Siêu và Thích Tuệ Sỹ đã hợp soạn cuốn Tự Điển Phật Giáo Việt Nam.

Thích Tuệ Sĩ tên thật Phạm Văn Thương, đi tu từ nhỏ, tốt nghiệp Đại Học Vạn Hạnh năm 1965. Ông này rất giỏi tiếng Pháp, Anh, Hán, Đức, Pali, Phạn,… Xuất bản những cuốn như Tô Đông Pha, Những Phương Trời Viễn Mộng, Đại Cương Về Thiền Quán... Cùng với Trí Siêu, Tuệ Sĩ bị bắt năm 1984 và bị kết án tử hình vào năm 1988 với tội danh mưu toan lật đổ chính phủ. Do áp lực quốc tế án cũng được giảm án xuống 20 năm tù và bị giam tại trại A, tỉnh Phú Yên. Tuệ Sĩ là một tấm gương kiên cường, bất khuất. Tháng 8-1998, chính quyền CSVN bảo ông làm đơn xin ân xá. Khi đó ông đã thẳng thắn trả lời : "Không ai có quyền xét xử tôi. Không ai có quyền ân xá tôi…”. Ta hãy cùng đọc những lời thơ xanh mướt của ông :

Tang thương một giải tóc huyền

Bãi dâu ngàn suối mấy miền hoang vu

Gửi thân gió cuốn sa mù

Áo xanh cát trắng trời thu muộn màng

Đến khi bị giam nhốt ở trong lao tù thì thơ của ông đầy cảm khái :

Phụng thử ngục tù phạm

Cúng dường Tối Thắng Tôn

Thế gian trường huyết hận

Bình bát lệ vô ngần

Tuệ Sĩ được ra khỏi tù tháng 9 năm 1998, nhưng cho tới nay ông vẫn như bị giam lỏng ở chùa Già Lam.

13. Võ Đại Tôn là Cựu đại tá quân đội VNCH, sau năm 1975 định cư bên Úc, khoảng năm 1980 ông cùng một số đồng chí của mình vượt biên trở về Việt Nam và bị CS bắt giam ngay. Lúc đầu ông giả bộ ngoan ngoãn hợp tác và được công an, chính quyền Cộng sản đem ra trình diện với báo chí quốc tế để trực tiếp ông nói lời nhận tội, xin khoan hồng, nhưng trong cuộc họp báo đó, ông lớn tiếng tố cáo chế độ độc tài CSVN, thẳng tay đàn áp nhân dân. Thứ Trưởng Nội Vụ Lê Thành Công vả Trung Tướng Công An Dương Thông phải vội vảng kết thúc ngay cuộc họp báo đó rồi đưa ông đi biệt giam hơn 10 năm tù.

14. Hoàng Cơ Minh cựu phó đề đốc, trước 1975 là tư lệnh vùng II duyên hải quân lực VNCH. Sau khi di tản, năm 1981 thành lập Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam đặt mật khu ở biên giới Thái Lan. Tháng 7 năm 1987, khi ông ta cùng các chiến hữu trên đường xâm nhập vào Việt Nam thì bị chặn đánh ở biên giới Việt – Lào. Trong trận đánh đó, bộ đội Cộng Sản Việt Nam huy động cả pháo binh và phi cơ oanh tạc, cuối cùng ông Hoàng Cơ Minh bị tử trận củng một số chiến hữu từ hải ngoại về.

15. Hiện tại, ở Việt Nam có khoảng 600 tờ báo các loại, nhưng tất cả đều do chính quyền CS kiểm soát. Tổng biên tập đều phải là đảng viên CSVN. Hai tờ báo chính của chính quyền là Nhân Dân có từ 1951, phần nhiều chỉ đăng những nghị quyết, những thông cáo hay nhưng lời tuyên bố của những lãnh tụ CS, và tờ Quân Đội Nhân Dân cũng đăng tin quốc tế và quốc nội nhưng nhấn mạnh về quân sự là chính. Ngoài ra, còn có tờ Tạp chí Học Tập, sau năm 1976 đổi tên là Tạp Chi Cộng Sản phát hành mỗi tháng là tiếng nói của đảng CSVN. Cũng có một số báo ngoại ngữ tiếng Anh Pháp, Hoa, Căm Pu Chia... trong đó có tạp chí Vietnam Courrier viết về những vấn đề chính trị, văn hóa, tạp chí Vietnam Foreign Trade trước viết về thương mại. Ngoài ra là những báo của những đoàn thể như Phụ nữ, Công đoàn, hội cựu chiến binh, thanh niên, nhi đồng, thiếu niên,…ngoài ra nữa còn những tờ báo của những địa phương hoặc những ngành nghề khác nhau. Tờ báo tương đối mạnh dạn là tờ Tuổi Trẻ. Tờ báo có nhiều độc giả là tờ Công An, An ninh thế giới… nhờ khai thác và ly kỳ hóa những vụ án tống tiền lường gạt, hiếp dâm, cướp bóc, giết người… Và tờ báo bán ế ẩm nhất là tờ Nhân Dân của ĐCSVN dù các cơ quan đoàn thể đều bị bắt buộc phải mua đọc và trong thời kỳ khan hiếm giấy, người dân đã mua nhiều chỉ để gói hàng hay dùng đi vệ sinh cá nhân mà thôi. (trích lời của cựu Linh Mục Nguyễn Ngọc Lan trong Shadows and Wind của Robert Templer).

16. Về việc lấy lòng chính quyền CSVN, khi tác giả còn ở Việt Nam thì ở tờ Tin Sáng cái gì chính quyền làm cũng được ca tụng, từ cải tạo công thương nghiệp đến việc xây nhà vệ sinh… Cả đến những bài về khoa học như viết về khoai lang, khoai mì, rau muống... cũng đều được Giáo Sư Phạm Hoàng Hộ ca tụng là bổ dưỡng vô song !!! Những tác giả thi nhau lấy lòng chính quyền CSVN chẳng hạn ông Trần Kim Thạch là con của nhà văn Thiên Giang, trước 1975, khi những hãng dầu ngoại quốc bắt đầu tìm kiếm dầu hỏa ở ngoài khơi biển Đông có viết một bài báo nói là về phương diện địa chất không thề có dầu ở biển Đông. Dĩ nhiên các hãng dầu hỏa, không ai biết về bài “khảo cứu khoa học" của ông và đã tìm ra 2 giếng đầu Thanh Long và Bạch Hổ. Sau này, ông viết báo phân trần là ông biết rõ ngoài biển Đông có dầu nhưng phải viết vậy để đế quốc Mỹ không khai thác.

17. Hoảng Văn Hoan vào tháng 7 năm 1979, khi đó đã mất chức ủy viên Bộ chính trị nhưng còn chức phó chủ tịch quốc hội, viện cớ muốn sang Đông Đức chữa bệnh, khi máy bay tạm ngừng ở Karachi, thuộc Hồi Quốc thì ông ta bỏ trốn sang Trung Hoa. Sau đó được Trung Hoa giúp thành lập một Mặt Trận Giải Phóng chống lại tập đoàn Lê Duẩn. Ông đã Viết cuốn hồi ký “Giọt Nước Trong Biển Cả". Sau đó chết vì ung thư phổi tại Trung Quốc.

18. Chu Văn Tấn gốc người dân tộc Tầy, có làm Bộ Trưởng Quốc Phòng một thời gian ngắn trước Võ Nguyên Giáp, sau này bị bắt và có lẽ chết trong tù. Sau khi chết nhiều năm, được đảng CS ngó lại công nhận có đóng góp nhưng “đã phạm sai lầm” vào những năm cuối và vẫn bị chôn ở một nghĩa địa hạng chót theo tiêu chuẩn của đảng…

19. Thái độ của Lê Duẩn nhận làm em nhỏ đối với đàn anh Trung Hoa, khom lưng cúi đầu chào Brezhnev hai lần. Brother Enemy Nay an Chan da

20. Chính sách trục xuất người Hoa và tổ chức vượt biên lấy vàng được gọi là “phương án 2”. Một trong những thuyền nhân nổi tiếng là ông Trương Như Tảng cựu Bộ Trưởng Tư Pháp của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam hồi chiến tranh. Một người vượt biên khác là Nguyễn Công Hoan, một dân biểu nằm vùng trước 1975, còn sau 1975 cũng được chính quyền Cộng sản cho ra làm đại biểu quốc hội một nhiệm kỳ.

21. Tài liệu về hội nghị đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1951 đã được ghi nhận trong cuốn “Việt Nam Máu Lửa” của Nghiêm Kế Tổ in trong thập niên 1950. Nghiêm Kế Tổ là một đảng viên Quốc Dân Đảng và rất có uy tín với Quốc Dân Đảng Trung Hoa. Tuy ông đã giúp đỡ nhiều cán bộ Cộng sản (kể cả Hồ Chí Minh để được tha khỏi tù) nhưng vẫn bị gán tội là phản động và bị Hoàng Văn Hoan gọi là đặc vụ của Tưởng Giới Thạch.

22. Về những chi tiết quân sự trong cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc (cuộc chiến tranh Hoa - Việt) và Tây Nam với Căm Pu Chia, xin đọc Chiến Tranh Đông Dương III của cùng tác giả, nhà xuất bản Văn Nghệ

23. Về phương diện quân sự, Việt Nam được chia làm tám quân khu: quân khu I vùng Cao Bằng, Thái Nguyên, quân khu II vùng Lai Châu, Lào Kay, quân khu III vùng châu thổ sông Hồng, quân khu IV vùng Nghệ Tĩnh, Huế, Quân khu V vùng cao nguyên và duyên hải Nha Trang, quân khu VII vùng Sài gòn, quân khu IX vùng châu thổ sông Cửu Long. Ngoài ra còn có những đặc khu thủ đô, đặc khu thành phố HCM, đặc khu Quảng Ninh.

24. Theo Nayan Chanda, trong chiến tranh với Căm Pu Chia, Tướng Lê Trọng Tấn đã từng tham mưu phó quân đội, đóng Bộ Tư Lệnh ở MACV cũ trong sân bay Tân Sơn Nhất giám sát cuộc hành quân, nhưng theo ông Lê Tùng Minh (website Hưng Việt), tư lệnh lả Lê Đức Thọ, Phạm Hùng chính ủy, Trần Xuân Bách Phó Chính ủy, Lê Đức Anh là Tham Mưu Trưởng, Chu Huy Mân Tư Lệnh Phó. Có lẽ Lê Đức Thọ giám sát cả về chính trị lẫn quân sự, còn tướng Lê Trọng Tấn là tư lệnh về quân sự một thời gian ngắn. Khi Trung Hoa tấn công Việt Nam, cả Tấn lẫn Mân đều trở về Bắc, giao trách nhiệm lại cho Lê Đức Anh. Thời gian này Đỗ Mười cũng phụ tá cho Lê Đức Thọ.

25. Việc Cộng sản Bắc Việt cho Lê Thanh Nghị mỗi năm muối mặt đi xin viện trợ ở các nước trong khối cộng sản và bị coi thường (Nayan Chanda trong Brother Enemy).

26. Theo Giáo Sư Nguyễn Như Cương người đầu tiên vào Nam phụ trách để tìm cách kết hợp kinh tế hai miền là Đinh Đức Thiện và Thiện đã lập một ban tư vấn kinh tế gồm những giáo sư đại học miền Nam cũ như Vũ Quốc Thúc, Nguyễn Xuân Oánh, Lê Văn Sĩ, Châu Tiến Khương, Dương Kích Nhưỡng...vv… Nhưng cũng như hội Trí Thức Yêu Nước, ban này chỉ để tỏ ra như nhà nước coi trọng trí thức và những người tham dự thật ra cũng chỉ để kiếm “ô dù” che thân. Nguyễn Văn Hảo không tham dự những nhóm này, có lẽ kiếm được một ô dù khác là Nguyễn Văn Linh. Sau đó vài tháng, Đinh Đức Thiện được triệu hồi về Hà Nội để làm bộ trưởng Giao Thông.

27. Căn cứ Liên Xô Ở Cam Ranh theo Nayan Chanda

28. Vietnam People Army của Douglas Plke

29. Phạm Văn Đồng là thủ tướng CSVN lâu nhất thế giới tuy tự biết không làm được việc gì và nhiều lúc nói là thấy “xấu hổ", nhưng vẫn ngồi lỳ ở chức vụ đến nỗi một cán bộ cộng sản lâu năm là Trần Văn Giàu đã mai mỉa “cái đít nó biết nhớ cái ghế…”

30. Đinh Đức Thiện (tên thật Phan Đình Dinh) ông ta là em ruột Lê Đức Thọ, sau này chết vì súng bị cướp cò khi đang đi săn ở huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, nhưng cũng có tin là ông ta bị con trai bắn chết (nghe nói người con trai này hồi nhỏ bị ông ta đánh đập tàn nhẫn nên bị hư mắt và tâm thần). Tin chính thức thì nói là ông ta đã “bị xe đụng” (trong khi làm Bộ Trưởng Giao Thông, thật là bí ẩn !)

31. Tài liệu của ông Vi Thanh trong “Lớn Lên Với Đất Nước"

32. Hồ Viết Thắng từng làm đại diện Tổng Bộ Việt Minh trong Nam trước 1954 bị hạ tầng công lác cùng với Trường Chinh trong Cải cách Ruộng đất. Dù thuộc phe Trường Chinh, sau này được phục hồi làm Bộ Trưởng Lương Thực vì có con gái là Hồ Thị Nghĩa, một bác sĩ đã có con với Lê Duẩn.

33. Trần Độ, tên thật là Tạ Ngọc Phách, trước 1954 làm chính ủy trung đoàn Sông Lô, rồi sư đoàn 312, sau 1954 là chính ủy quân khu hữu ngạn sông Hồng trước khi vào Nam làm phó chính ủy quân giải phóng miền Nam VN.

34. Bí danh Lê Hiến Mai là của Dương Quốc Chính rất lý thú. Tác giả Vy Thanh, một cựu đảng viên CS, trong cuốn “Lớn Lên với Đất nước” đã kể lại trong một buổi họp ở quân khu IX trong miền Nam, dưới sự chủ tọa của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ, Dương Quốc Chính muốn có được một bí danh họ Lê cho giống hai người kể trên nên đã nhờ một người ngồi bên cạnh đặt giùm cho mình. Người này nhìn thấy bộ răng của Dương Quốc Chính mới đặt cho cái bí danh Lê Hiến Mai (mái hiên). Phải nhiều năm sau, Dương Quốc Chính mới biết thâm ý của người kia nên từ đó đã từ bỏ cái bí danh đó đi. Lê Hiến Mai là một trong 11 cán bộ quân sự được phong tướng đầu tiên.

(còn tiếp)

.

.

.

No comments: