Cuộc đối
đầu giữa chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa dân tộc (P1)
Francis Fukuyama - Foreign
Affairs
Nguyễn Thị Kim Phụng,
biên dịch
https://nghiencuuquocte.org/2023/07/09/cuoc-doi-dau-giua-chu-nghia-tu-do-va-chu-nghia-dan-toc-p1/
Chủ nghĩa tự do đang gặp nguy hiểm. Các nguyên tắc cơ bản của xã hội tự
do – là chấp nhận sự khác biệt, tôn trọng các quyền cá nhân, pháp quyền, và nhiều
nguyên tắc khác – đang bị đe dọa, khi thế giới chịu ảnh hưởng từ thứ có thể gọi
là suy thoái dân chủ, hoặc thậm chí là khủng hoảng dân chủ. Theo tổ chức
Freedom House, các quyền chính trị và tự do dân sự trên khắp thế giới đã giảm đều
mỗi năm trong suốt 16 năm qua. Sự suy tàn của chủ nghĩa tự do thể hiện rõ qua sức
mạnh ngày một lớn của các chế độ chuyên chế như Trung Quốc và Nga, sự sa sút của
các thể chế tự do – hay tự do trên danh nghĩa – ở các nước như Hungary và Thổ
Nhĩ Kỳ, và sự thụt lùi của các nền dân chủ tự do như Ấn Độ và Mỹ.
Với từng trường hợp trong số này, chủ nghĩa dân tộc đã thúc đẩy sự trỗi dậy
của chủ nghĩa phi tự do. Các nhà lãnh đạo phi tự do, các đảng của họ, và các đồng
minh của họ đã sử dụng luận điệu chủ nghĩa dân tộc để mở rộng quyền kiểm soát
xã hội. Họ tố cáo đối thủ của mình là giới tinh hoa lạc lõng, hay những nhà
toàn cầu thất bại. Họ tự xưng là người đại diện đích thực và người bảo vệ đích
thực của đất nước. Đôi khi, các chính trị gia phi tự do sẽ khắc họa những người
đồng cấp tự do là kẻ làm việc kém hiệu quả và xa cách khỏi cuộc sống của những
người mà họ đáng lẽ phải đại diện. Nhưng thông thường, các chính trị gia phi tự
do sẽ mô tả các đối thủ tự do không đơn thuần là đối thủ chính trị, mà là một
thứ nguy hiểm hơn nhiều: kẻ thù của nhân dân.
Bản chất của chủ nghĩa tự do khiến nó dễ bị tấn công bởi lập luận này.
Nguyên tắc cơ bản nhất được ghi nhận trong chủ nghĩa tự do là nguyên tắc về sự
khoan dung: nhà nước không quy định niềm tin, danh tính, hay bất kỳ loại giáo
điều nào khác. Kể từ khi nó xuất hiện vào thế kỷ 17, như một nguyên tắc tổ chức
cho chính trị, chủ nghĩa tự do đã cố tình hạ thấp tầm nhìn của chính trị, để
không nhắm đến “cuộc sống tốt đẹp” (the good life) như được định nghĩa bởi một
tôn giáo, học thuyết đạo đức, hoặc truyền thống văn hóa cụ thể nào, mà chỉ nhằm
bảo vệ chính cuộc sống, trong bối cảnh người ta không thể đồng ý với nhau một
cuộc sống tốt đẹp có nghĩa là gì. Bản chất bất khả tri này tạo ra một khoảng trống
về mặt tinh thần (spiritual vacuum), khi mỗi cá nhân đi theo con đường riêng của
mình, và chỉ trải nghiệm một ý thức cộng đồng rất mong manh. Các trật tự chính
trị tự do đòi hỏi chia sẻ các giá trị, chẳng hạn như khoan dung, thỏa hiệp, và
cân nhắc, nhưng những giá trị đó không bồi đắp thứ liên kết tình cảm bền chặt
được tìm thấy trong các cộng đồng tôn giáo và cộng đồng sắc tộc gắn bó chặt chẽ
với nhau. Quả vậy, các xã hội tự do thường khuyến khích việc mù quáng theo đuổi
sự tự thỏa mãn vật chất.
Điểm thu hút quan trọng nhất của chủ nghĩa tự do vẫn là khả năng thực dụng
đã tồn tại suốt nhiều thế kỷ: khả năng quản lý sự đa dạng trong các xã hội đa
nguyên. Tuy nhiên, các loại đa dạng mà xã hội tự do có thể quản lý bị giới hạn.
Nếu có đủ người từ chối các nguyên tắc tự do và tìm cách hạn chế các quyền cơ bản
của người khác, hoặc nếu người dân sử dụng bạo lực để đạt được mục đích của
mình, thì chỉ riêng chủ nghĩa tự do không thể duy trì trật tự chính trị. Nếu
các xã hội đa dạng rời xa các nguyên tắc tự do, và cố gắng thiết lập bản sắc
dân tộc dựa trên chủng tộc, sắc tộc, tôn giáo, hoặc một số tầm nhìn khác về bản
chất của cuộc sống tốt đẹp, thì các xã hội này có thể phải quay trở lại cảnh
xung đột đẫm máu. Một thế giới đầy rẫy những quốc gia như vậy sẽ không tránh khỏi
trở nên mong manh hơn, hỗn loạn hơn, và bạo lực hơn.
Đó là lý do tại sao điều quan trọng hơn cả đối với những người theo chủ
nghĩa tự do là không từ bỏ ý tưởng về dân tộc (nation). Họ nên nhận ra rằng,
trên thực tế, chẳng có gì làm cho tính phổ quát của chủ nghĩa tự do không tương
thích với một thế giới của các quốc gia-dân tộc. Bản sắc dân tộc là thứ dễ uốn
nắn, và nó có thể được định hình để phản ánh những khát vọng tự do, cũng như để
xây dựng ý thức về cộng đồng và mục đích chung trong một nhóm rộng hơn.
Muốn tìm bằng chứng về tầm quan trọng của bản sắc dân tộc, cứ nhìn ngay đến
những rắc rối mà Nga gặp phải khi tấn công Ukraine. Tổng thống Nga Vladimir
Putin tuyên bố rằng Ukraine không có bản sắc riêng biệt tách khỏi Nga, và rằng
nước này sẽ sụp đổ ngay khi ông tiến hành xâm lược. Ấy thế mà Ukraine lại kiên
cường chống Nga, chính xác là bởi các công dân của nước này trung thành với ý
tưởng về một Ukraine dân chủ tự do, độc lập, và không muốn phải sống dưới một
chế độ độc tài thối nát được áp đặt lên họ. Nhờ bản lĩnh của mình, những công
dân đó đã thể hiện rõ rằng họ sẵn sàng chết vì những lý tưởng tự do, nhưng chỉ
khi những lý tưởng đó được gắn vào một đất nước mà họ có thể gọi là của riêng
mình.
KHOẢNG
TRỐNG TINH THẦN CỦA CHỦ NGHĨA TỰ DO
Các xã hội tự do luôn đấu tranh để đem đến một tầm nhìn tích cực về bản sắc
dân tộc cho công dân của chúng. Lý thuyết đằng sau chủ nghĩa tự do đã gặp rất
nhiều khó khăn trong việc vẽ ra ranh giới rõ ràng xung quanh các cộng đồng, và
giải thích những ai sẽ thuộc về nhóm nằm bên trong và bên ngoài những ranh giới
đó. Nguyên nhân là do lý thuyết được xây dựng trên cơ sở một tuyên bố mang tính
phổ quát. Như đã khẳng định trong Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền, “Tất cả mọi
người sinh ra đều tự do, bình đẳng về nhân phẩm và quyền,” và “Mọi người đều được
hưởng tất cả các quyền và tự do được nêu trong Tuyên bố này, không bị phân biệt
dưới bất kỳ hình thức nào, chẳng hạn như chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ,
tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc các quan điểm khác, quốc tịch hoặc nguồn gốc
xã hội, tài sản, xuất thân hay các địa vị khác.” Về mặt lý thuyết, những người
theo chủ nghĩa tự do quan tâm đến sự vi phạm nhân quyền, bất kể nó xảy ra ở đâu
trên thế giới. Nhiều nhà tự do không thích những ràng buộc cụ thể của chủ nghĩa
dân tộc, và thường tưởng tượng mình là “công dân của thế giới”.
Tuyên bố phổ quát có thể khó hòa hợp với việc phân chia thế giới thành
các quốc gia-dân tộc. Chẳng hạn, không có lý thuyết tự do nào chỉ rõ cách xác định
ranh giới quốc gia, và chính sự thiếu hụt này dẫn đến xung đột nội bộ tự do ở
các vùng ly khai như Catalonia, Quebec, và Scotland, cũng như dẫn đến bất đồng
về cách đối xử phù hợp với người nhập cư và người tị nạn. Những người theo chủ
nghĩa dân túy, chẳng hạn như cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump, đã khiến căng thẳng
giữa khát vọng tự do phổ quát với những tuyên bố hẹp hơn của chủ nghĩa dân tộc
trở nên vô cùng mạnh mẽ.
Những người theo chủ nghĩa dân tộc phàn nàn rằng chủ nghĩa tự do đã phá bỏ
những liên kết của cộng đồng quốc gia, và thay thế nó bằng một chủ nghĩa đại đồng
toàn cầu (global cosmopolitanism), vốn quan tâm đến người dân ở các nước xa xôi
nhiều như quan tâm đến người dân trong nước. Những nhà dân tộc chủ nghĩa ở thế
kỷ 19 đã xác lập bản sắc dân tộc dựa trên cơ sở sinh học và tin rằng cộng đồng
quốc gia có nguồn gốc từ tổ tiên chung. Đây tiếp tục là cơ sở cho một số người
theo chủ nghĩa dân tộc đương thời, chẳng hạn như Thủ tướng Hungary Viktor
Orban, người đã xác định bản sắc dân tộc Hungary dựa trên sắc tộc Magyar. Những
nhà dân tộc chủ nghĩa khác, chẳng hạn như học giả người Israel Yoram Hazony, lại
cố gắng sửa đổi chủ nghĩa sắc tộc (ethnonationalism) của thế kỷ 20 bằng cách lập
luận rằng các quốc gia tạo thành các đơn vị văn hóa nhất quán, cho phép các
thành viên của quốc gia đó chia sẻ truyền thống lâu đời về ẩm thực, lễ nghi,
ngôn ngữ, và những thứ tương tự. Nhà tư tưởng bảo thủ người Mỹ Patrick Deneen
đã khẳng định rằng chủ nghĩa tự do tạo thành một hình thức phản văn hóa, thứ đã
làm tan biến mọi hình thức văn hóa tiền tự do, sử dụng quyền lực của nhà nước để
tự chen vào kiểm soát mọi khía cạnh của đời sống cá nhân.
Đáng chú ý, Deneen và những người bảo thủ khác đã đoạn tuyệt với các chủ
nghĩa tân tự do kinh tế, và công khai đổ lỗi cho chủ nghĩa tư bản thị trường về
việc làm xói mòn các giá trị của gia đình, cộng đồng, và truyền thống. Kết quả
là, các phạm trù cánh tả và cánh hữu phân chia theo ý thức hệ kinh tế của thế kỷ
20 đã không còn phù hợp với thực tế hiện nay, với các nhóm cánh hữu sẵn sàng sử
dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh cả đời sống xã hội lẫn nền kinh tế.
Có một sự chồng chéo đáng kể giữa những người theo chủ nghĩa dân tộc và
những người bảo thủ tôn giáo. Trong số những truyền thống mà các nhà dân tộc chủ
nghĩa đương thời muốn bảo vệ có cả những truyền thống tôn giáo. Do đó, Đảng
Pháp luật và Công lý ở Ba Lan đã liên kết chặt chẽ với Giáo hội Công giáo Ba
Lan, và đã tiếp nhận nhiều lời phàn nàn của nhà thờ có liên quan đến văn hóa,
như việc châu Âu tự do ủng hộ phá thai và hôn nhân đồng tính. Tương tự, những
người bảo thủ tôn giáo thường xem mình là người yêu nước; điều này chắc chắn
đúng đối với các tín đồ Phúc âm (evangelical) ở Mỹ, những người đóng vai trò cốt
lõi trong phong trào “Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại” của Trump.
Lời chỉ trích của nhóm bảo thủ đối với chủ nghĩa tự do – rằng các xã hội
tự do không mang đến một cốt lõi đạo đức chung mạnh mẽ, để có thể xây dựng cộng
đồng xung quanh nó – là đúng. Đây quả thực là một đặc điểm của chủ nghĩa tự do,
chứ không phải là một khuyết điểm. Câu hỏi đặt ra cho những người bảo thủ là:
liệu có cách nào khả thi để quay ngược đồng hồ và thiết lập lại trật tự đạo đức
vững chắc hơn hay không. Một số người Mỹ bảo thủ hy vọng sẽ quay trở lại một thời
kỳ tưởng tượng khi hầu như tất cả mọi người ở Mỹ đều theo đạo Thiên Chúa. Nhưng
đa dạng tôn giáo ở các xã hội hiện đại ngày nay lớn hơn rất nhiều so với thời
điểm chiến tranh tôn giáo ở châu Âu vào thế kỷ 16. Ý tưởng khôi phục một truyền
thống đạo đức chung được xác định bởi niềm tin tôn giáo là một kế hoạch không
thể thành công. Các nhà lãnh đạo hy vọng có thể thực hiện được kiểu khôi phục
này, chẳng hạn như Narendra Modi, thủ tướng theo chủ nghĩa dân tộc Hindu của Ấn
Độ, thực ra đang mời gọi áp bức và bạo lực cộng đồng. Modi biết quá rõ điều
này: ông từng là thủ hiến của Gujarat khi bang miền tây này bị tàn phá bởi bạo
loạn cộng đồng vào năm 2002, khiến hàng nghìn người chết, chủ yếu là người Hồi
giáo. Kể từ năm 2014, khi Modi trở thành thủ tướng, ông và các đồng minh của
mình đã tìm cách gắn bản sắc dân tộc Ấn Độ với đạo Hindu và ngôn ngữ Hindi, một
sự thay đổi lớn so với chủ nghĩa đa nguyên thế tục của các nhà sáng lập tự do của
Ấn Độ.
VAI
TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC
Các lực lượng phi tự do trên khắp thế giới sẽ tiếp tục sử dụng lời kêu gọi
chủ nghĩa dân tộc như một vũ khí bầu cử mạnh mẽ. Các nhà tự do có thể bị cám dỗ,
muốn loại bỏ luận điệu này, gọi nó là hiếu chiến và thô thiển. Nhưng họ không
nên nhường lại quốc gia cho đối thủ của mình.
Chủ nghĩa tự do, với những giả định phổ quát của nó, có thể không thoải
mái khi phải đứng bên cạnh chủ nghĩa dân tộc địa phương, nhưng thực ra hai bên
vẫn có thể dung hòa. Các mục tiêu của chủ nghĩa tự do hoàn toàn tương thích với
một thế giới được phân chia thành các quốc gia-dân tộc. Mọi xã hội đều cần sử dụng
vũ lực, vừa để giữ gìn trật tự bên trong, vừa để bảo vệ khỏi những kẻ thù bên
ngoài. Một xã hội tự do thực hiện điều này bằng cách tạo ra một nhà nước hùng mạnh,
nhưng sẽ kiềm chế quyền lực nhà nước bằng pháp quyền. Quyền lực nhà nước dựa
trên một khế ước xã hội giữa các cá nhân tự chủ, những người đồng ý từ bỏ một số
quyền được làm theo ý mình để đổi lấy sự bảo vệ của nhà nước. Nó được chính
danh hóa bởi sự chấp nhận luật pháp một cách rộng rãi và, nếu đó là một nền dân
chủ tự do, thì còn bởi các cuộc bầu cử phổ thông.
Quyền tự do sẽ là vô nghĩa nếu chúng không thể được thực thi bởi một nhà
nước, mà theo định nghĩa nổi tiếng của nhà xã hội học người Đức Max Weber, là sự
độc quyền sử dụng vũ lực hợp pháp trên một lãnh thổ xác định. Quyền tài phán
theo lãnh thổ của một quốc gia nhất thiết phải tương ứng với khu vực được chiếm
giữ bởi nhóm cá nhân đã ký kết khế ước xã hội. Trong khi đó, các quyền của những
người sống bên ngoài khu vực tài phán này vẫn phải được nhà nước tôn trọng,
nhưng không nhất thiết phải được thực thi.
Do đó, các quốc gia có quyền tài phán lãnh thổ xác định vẫn sẽ là những
chủ thể chính trị quan trọng, bởi vì chúng là những chủ thể duy nhất có thể sử
dụng vũ lực một cách hợp pháp. Trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay, quyền lực
được sử dụng bởi rất nhiều tổ chức, từ các tập đoàn đa quốc gia đến các nhóm
phi lợi nhuận, từ các tổ chức khủng bố, đến các cơ quan siêu quốc gia như Liên
minh châu Âu và Liên Hiệp Quốc. Nhu cầu hợp tác quốc tế để giải quyết các vấn đề
như sự ấm lên toàn cầu và đại dịch chưa bao giờ rõ ràng hơn thế. Nhưng một dạng
quyền lực cụ thể, khả năng thực thi các quy tắc thông qua đe dọa hoặc thực sự sử
dụng vũ lực, vẫn nằm dưới sự kiểm soát của các quốc gia-dân tộc. Cả Liên minh
Châu Âu và Hiệp hội Vận tải Hàng không Quốc tế đều không thể triển khai cảnh
sát hoặc quân đội của riêng mình nhằm thực thi các quy tắc mà họ đặt ra. Các tổ
chức như vậy vẫn phụ thuộc vào năng lực cưỡng chế của các quốc gia đã trao quyền
cho họ. Chắc chắn, ngày nay có một khối lượng luật quốc tế rộng lớn thay thế
cho luật quốc gia trong nhiều lĩnh vực, ví dụ trường hợp Luật pháp Chung
(acquis communautaire) của Liên minh Châu Âu, được xem như một loại luật chung
để điều phối thương mại và giải quyết tranh chấp. Nhưng rốt cuộc, luật pháp quốc
tế vẫn phụ thuộc vào việc thực thi ở cấp quốc gia. Khi các thành viên EU bất đồng
về các vấn đề quan trọng trong chính sách, như những gì xảy ra trong khủng hoảng
đồng euro năm 2010 và khủng hoảng người di cư năm 2015, kết quả không được quyết
định bởi luật pháp châu Âu mà bởi quyền lực tương đối của các quốc gia thành
viên. Nói cách khác, quyền lực tối cao tiếp tục nằm trong tay các quốc gia-dân
tộc, theo đó có nghĩa là việc kiểm soát quyền lực ở cấp độ này vẫn còn rất quan
trọng.
Do đó, không nhất thiết phải có mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tự do phổ quát
và nhu cầu về các quốc gia-dân tộc. Dù nhân quyền có thể là một giá trị chuẩn mực
phổ quát, nhưng quyền lực thực thi giá trị đó thì không; nó là một nguồn tài
nguyên khan hiếm nhất thiết phải được áp dụng trên một lãnh thổ xác định. Một
nhà nước tự do hoàn toàn có lý khi trao các mức quyền khác nhau cho công dân và
những người không phải công dân, bởi vì nhà nước ấy không có nguồn lực hoặc luật
pháp để bảo vệ các quyền này một cách phổ quát. Tất cả mọi người sinh sống
trong lãnh thổ của một nhà nước đều được pháp luật bảo vệ bình đẳng, nhưng chỉ
công dân mới là người tham gia đầy đủ vào khế ước xã hội, có các quyền và nghĩa
vụ đặc biệt, cụ thể là quyền bầu cử.
Thực tế rằng các quốc gia vẫn là trung tâm của quyền lực cưỡng chế nên
khuyến khích chúng ta thận trọng trước đề xuất thành lập các cơ quan siêu quốc
gia mới và trao quyền lực đó vào tay họ. Các xã hội tự do đã có hàng trăm năm
kinh nghiệm học cách kiềm chế quyền lực ở cấp quốc gia thông qua các thể chế
pháp quyền và lập pháp, cũng như cách cân bằng quyền lực để việc sử dụng nó phản
ánh lợi ích chung. Tuy nhiên, các xã hội này chưa biết làm thế nào để tạo ra
các thể chế như vậy ở cấp độ toàn cầu, nơi mà – ví dụ – một tòa án hoặc một cơ
quan lập pháp toàn cầu có thể trở thành đối trọng với các quyết định độc đoán của
một cơ quan hành pháp toàn cầu. Liên minh châu Âu là sản phẩm của nỗ lực nghiêm
túc nhất nhằm thực hiện điều này ở cấp độ khu vực, kết quả thu về là một hệ thống
ngượng ngập, đặc trưng bởi sự yếu kém quá mức trong một số lĩnh vực (chính sách
tài khóa, đối ngoại) và mạnh mẽ quá mức trong những lĩnh vực khác (điều tiết
kinh tế). Châu Âu chí ít còn có một lịch sử và bản sắc văn hóa chung – thứ
không tồn tại ở cấp độ toàn cầu. Các thể chế quốc tế như Tòa án Công lý Quốc tế
và Tòa án Hình sự Quốc tế vẫn đang dựa vào các quốc gia để thực thi phán quyết
của họ.
Nhà triết học người Đức Immanuel Kant đã tưởng tượng ra một nền “hòa bình
vĩnh cửu” (perpetual peace), trong đó một thế giới tạo nên bởi các quốc gia tự
do sẽ điều chỉnh các mối quan hệ quốc tế thông qua luật pháp, thay vì sử dụng bạo
lực. Cuộc xâm lược Ukraine của Putin, thật không may, đã chứng tỏ rằng thế giới
vẫn chưa đạt đến thời điểm hậu lịch sử này, và rằng sức mạnh quân sự vẫn là
công cụ tối thượng để bảo đảm hòa bình cho các nước theo chủ nghĩa tự do. Do
đó, quốc gia-dân tộc với tư cách là nhân tố quan trọng trong nền chính trị toàn
cầu sẽ khó có thể biến mất.
(Còn tiếp một phần)
-------------------------
Francis Fukuyama là Nghiên cứu
viên cấp cao tại Viện Nghiên cứu Quốc tế Freeman Spogli tại Đại học Stanford.
Bài viết này được tóm gọn từ cuốn sách sắp xuất bản của ông “Liberalism and Its
Discontents” (Farrar, Straus and Giroux, 2022).
Nguồn: Francis
Fukuyama, “A
Country of Their Own”, Foreign Affairs, 01/04/2022
--------------------------------
Cuộc
đối đầu giữa chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa dân tộc (P2)
Francis
Fukuyama - Foreign
Affairs
Nguyễn Thị Kim Phụng,
biên dịch
https://nghiencuuquocte.org/2023/07/10/cuoc-doi-dau-giua-chu-nghia-tu-do-va-chu-nghia-dan-toc-p2/
MỘT
CUỘC SỐNG TỐT ĐẸP
Sự phê phán của chủ nghĩa bảo thủ dành cho chủ nghĩa tự do, về cốt lõi,
chứa đựng một hoài nghi hợp lý trước sự nhấn mạnh của chủ nghĩa tự do đối với
quyền tự chủ cá nhân. Các xã hội tự do giả định sự bình đẳng về nhân phẩm, một
loại phẩm giá bắt nguồn từ khả năng lựa chọn của một cá nhân. Vì lẽ đó, xã hội
tự do tận tâm bảo vệ quyền tự chủ như một quyền cơ bản. Nhưng dù quyền tự chủ
là một giá trị tự do cơ bản, nó không phải là điều duy nhất tự động vượt qua mọi
tầm nhìn khác về cuộc sống tốt đẹp.
Phạm vi của những gì được xem là quyền tự chủ đã dần mở rộng theo thời
gian, đi từ khả năng lựa chọn tuân theo các quy tắc trong khuôn khổ đạo đức hiện
có, đến việc tự tạo ra các quy tắc đó cho chính mình. Nhưng tôn trọng quyền tự
chủ là nhằm quản lý và kiểm soát sự cạnh tranh của những niềm tin đã ăn sâu vào
tâm trí, chứ không phải để thay thế hoàn toàn những niềm tin đó. Không phải người
nào cũng cho rằng tối đa hóa quyền tự chủ cá nhân là mục tiêu quan trọng nhất của
cuộc sống, hoặc việc phá vỡ mọi hình thức quyền lực hiện có quả thực là một điều
tốt đẹp. Nhiều người sẵn lòng giới hạn quyền tự do lựa chọn của họ bằng cách chấp
nhận các khuôn khổ tôn giáo và đạo đức vốn kết nối họ với những người khác, hoặc
bằng cách sống theo các truyền thống văn hóa được kế thừa. Tu chính án đầu tiên
của Hiến pháp Mỹ là nhằm bảo vệ quyền tự do tôn giáo, chứ không phải bảo vệ
công dân khỏi tôn giáo.
Các xã hội tự do thành công có nền văn hóa riêng và cách diễn giải riêng
về thế nào là một cuộc sống tốt đẹp, ngay cả khi tầm nhìn đó có thể không bền
chặt bằng các xã hội bị ràng buộc bởi một học thuyết duy nhất. Chúng không thể
giữ thái độ trung lập đối với các giá trị cần thiết để duy trì một xã hội tự
do. Chúng ưu tiên tinh thần quần chúng, sự khoan dung, cởi mở, và tích cực tham
gia các hoạt động công, nếu muốn tạo ra sự gắn kết. Chúng cần khuyến khích sự đổi
mới, tinh thần kinh doanh, và chấp nhận rủi ro, nếu muốn phát triển thịnh vượng
về mặt kinh tế. Một xã hội của những cá nhân hướng nội chỉ quan tâm đến việc tối
đa hóa tiêu dùng cá nhân sẽ hoàn toàn không phải là một xã hội.
Các quốc gia có vai trò quan trọng không chỉ vì chúng là trung tâm của
quyền lực chính danh và là công cụ để kiểm soát bạo lực. Chúng còn là nguồn cộng
đồng duy nhất. Chủ nghĩa tự do phổ quát ở một cấp độ nào đó mâu thuẫn trực tiếp
với bản chất hòa đồng của con người. Con người ta sẽ cảm thấy mối quan hệ tình
cảm bền chặt nhất với những ai gần gũi nhất với mình, chẳng hạn bạn bè và gia
đình. Khi vòng tròn thân quen đó mở rộng, ý thức về nghĩa vụ của họ chắc chắn sẽ
giảm đi. Khi xã hội loài người phát triển rộng lớn hơn và phức tạp hơn sau nhiều
thế kỷ, ranh giới của sự đoàn kết đã mở rộng đáng kể, từ các gia đình, làng mạc,
và bộ lạc ra toàn bộ quốc gia. Nhưng ít có người nào lại thực sự yêu toàn thể
nhân loại. Đối với hầu hết mọi người trên khắp thế giới, quốc gia vẫn là đơn vị
đoàn kết lớn nhất mà họ phải trung thành theo bản năng. Thật vậy, lòng trung
thành đó đã trở thành nền tảng quan trọng cho tính chính danh, và theo đó là khả
năng cai trị của nhà nước. Trong một số xã hội, bản sắc dân tộc yếu có thể gây
ra những hậu quả tai hại, như những gì thể hiện ở một số quốc gia đang phát triển
đang gặp khó khăn, chẳng hạn như Myanmar và Nigeria, và ở một số quốc gia thất
bại, chẳng hạn như Afghanistan, Libya và Syria.
HƯỚNG
TỚI CHỦ NGHĨA DÂN TỘC TỰ DO
Lập luận này có vẻ tương tự với lập luận của Hazony, học giả bảo thủ người
Israel, trong cuốn sách năm 2018 của ông, The Virtue of Nationalism (Giá
trị của Chủ nghĩa Dân tộc), trong đó ông ủng hộ một trật tự toàn cầu dựa trên
chủ quyền của các quốc gia-dân tộc. Hazony đã đưa ra một điểm quan trọng khi cảnh
báo rằng các quốc gia tự do, chẳng hạn như Mỹ, có xu hướng đi quá xa trong việc
tìm cách định hình phần còn lại của thế giới theo hình ảnh của chính họ. Tuy
nhiên, ông đã sai khi cho rằng các quốc gia là các đơn vị văn hóa được phân định
rõ ràng, và rằng có thể đạt được một trật tự toàn cầu hòa bình bằng cách chấp
nhận các quốc gia đó như hiện tại. Các quốc gia ngày nay là những cấu trúc xã hội
vốn là sản phẩm phụ của các cuộc tranh đấu lịch sử thường liên quan đến chinh
phạt, bạo lực, cưỡng bức đồng hóa, và sự thao túng có chủ ý các biểu tượng văn
hóa. Bản sắc dân tộc có nhiều hình thức cả tốt lẫn xấu, và các xã hội có thể thực
hiện quyền tự quyết của mình trong việc lựa chọn chúng.
Cụ thể, nếu bản sắc dân tộc dựa trên các đặc điểm cố định như chủng tộc,
sắc tộc, hoặc di sản tôn giáo, thì nó sẽ trở thành một phạm trù có tính loại trừ,
vốn vi phạm nguyên tắc tự do về bình đẳng nhân phẩm. Dù không nhất thiết phải
có mâu thuẫn giữa nhu cầu về bản sắc dân tộc với chủ nghĩa tự do phổ quát,
nhưng vẫn tồn tại một điểm căng thẳng tiềm tàng giữa hai nguyên tắc này. Khi dựa
trên những đặc điểm cố định, bản sắc dân tộc có thể biến thành chủ nghĩa dân tộc
hung hăng và có tính loại trừ, như đã xảy ra ở châu Âu trong nửa đầu thế kỷ 20.
Vì lý do này, các xã hội tự do không nên chính thức công nhận các nhóm dựa
trên tiêu chí cố định như chủng tộc, sắc tộc, hoặc di sản tôn giáo. Tất nhiên,
có những lúc việc này là không thể tránh khỏi và các nguyên tắc tự do không thể
đem ra áp dụng. Ở nhiều nơi trên thế giới, các nhóm sắc tộc hoặc tôn giáo đã
chiếm giữ cùng một lãnh thổ suốt nhiều thế hệ, và đã xây dựng truyền thống văn
hóa và ngôn ngữ phong phú của riêng mình. Ở Balkan, Trung Đông, Nam Á và Đông
Nam Á, bản sắc dân tộc hoặc bản sắc tôn giáo thực sự là một đặc điểm thiết yếu
đối với hầu hết mọi người, và việc đồng hóa chúng vào một nền văn hóa quốc gia
rộng lớn hơn là điều cực kỳ không thực tế. Dù vậy, có thể tổ chức một hình thức
chính trị tự do xoay quanh một số đơn vị văn hóa. Ví dụ, Ấn Độ công nhận nhiều
ngôn ngữ quốc gia, và trong quá khứ đã từng cho phép các bang tự đặt ra các
chính sách liên quan đến hệ thống giáo dục và luật pháp của mình. Chủ nghĩa
liên bang và đi kèm với nó là sự phân chia quyền lực cho các đơn vị địa phương
thường là điều cần thiết ở các quốc gia đa dạng như vậy. Quyền lực có thể được
chính thức phân bổ cho các nhóm khác nhau, được phân định bởi bản sắc văn hóa
trong một cấu trúc mà các nhà khoa học chính trị gọi là “chủ nghĩa hiệp nhất”
(consociationalism). Dù mô hình này đã hoạt động khá tốt ở Hà Lan, nhưng nó lại
tạo ra thảm họa ở những nơi như Bosnia, Iraq, và Lebanon, khi mà các nhóm bản sắc
thấy mình bị khóa chặt trong một trò chơi có tổng bằng không. Do đó, trong các
xã hội mà các nhóm văn hóa chưa trở thành các đơn vị riêng biệt (self-regarding
units), tốt hơn hết nên đối xử với công dân trên tư cách cá nhân, chứ không phải
là thành viên của các nhóm bản sắc.
Mặt khác, có những khía cạnh khác của bản sắc dân tộc có thể được chấp nhận
một cách tự nguyện, theo đó có thể được chia sẻ một cách rộng rãi, chẳng hạn
như truyền thống văn học, chuyện kể lịch sử, ngôn ngữ, ẩm thực, và thể thao.
Catalonia, Quebec, và Scotland đều là các khu vực có truyền thống lịch sử và
văn hóa riêng biệt, và cả ba đều có những đảng phái dân tộc chủ nghĩa đang tìm
cách tách biệt hoàn toàn khỏi đất nước mà hiện nay họ đang liên kết. Nếu họ thực
sự tách ra, thì cũng có rất ít nghi ngờ về việc các khu vực này sẽ tiếp tục là
các xã hội tự do tôn trọng quyền cá nhân, giống như Cộng hòa Séc và Slovakia đã
làm sau khi trở thành hai quốc gia riêng biệt vào năm 1993.
Bản sắc dân tộc cho thấy những nguy hiểm hiển nhiên, nhưng nó cũng là một
cơ hội. Nó là một cấu trúc xã hội, và nó có thể được định hình để hỗ trợ, thay
vì làm suy yếu, các giá trị tự do. Trong lịch sử, nhiều quốc gia đã được hình
thành từ các nhóm dân cư đa dạng, những người mà ý thức cộng đồng mạnh mẽ của họ
được dựa trên các nguyên tắc hoặc lý tưởng chính trị, hơn là các nhóm tất định.
Australia, Canada, Pháp, Ấn Độ, và Mỹ là các quốc gia trong những thập niên gần
đây đã tìm cách xây dựng bản sắc dân tộc dựa trên các nguyên tắc chính trị hơn
là chủng tộc, sắc tộc, hay tôn giáo. Nước Mỹ đã trải qua một quá trình lâu dài
và đau đớn nhằm xác định lại ý nghĩa của việc thế nào là một người Mỹ, từng bước
loại bỏ các rào cản đối với quyền công dân dựa trên giai cấp, chủng tộc, và giới
tính – dù quá trình này vẫn chưa hoàn thành và đã trải qua nhiều thất bại. Ở
Pháp, việc xây dựng bản sắc dân tộc bắt đầu với Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân
quyền của Cách mạng Pháp, trong đó đã thiết lập một lý tưởng về quyền công dân
dựa trên một ngôn ngữ và văn hóa chung. Vào giữa thế kỷ 20, Australia và Canada
là những quốc gia thống trị bởi nhóm đa số người da trắng và có các đạo luật đặt
ra giới hạn về nhập cư và quyền công dân, chẳng hạn như chính sách “Nước Úc trắng”
(White Australia) khét tiếng, nhằm ngăn cản những người nhập cư từ Châu Á. Tuy
nhiên, cả Australia và Canada đều đã tái tạo lại bản sắc dân tộc của họ theo hướng
phi chủng tộc kể từ sau những năm 1960, và bắt đầu mở cửa cho phép nhập cư ồ ạt.
Ngày nay, cả hai quốc gia đều có khối dân sinh ra ở nước ngoài lớn hơn Mỹ,
nhưng lại không trải qua sự phân cực và phản ứng tiêu cực từ người da trắng
(white backlash) như ở Mỹ.
Tuy nhiên, không nên đánh giá thấp khó khăn của việc tạo dựng một bản sắc
chung trong các nền dân chủ bị chia rẽ mạnh mẽ. Hầu hết các xã hội tự do đương
đại đều được xây dựng từ các dân tộc mà hiểu biết về bản sắc dân tộc của họ đã
được tạo ra thông qua các phương pháp phi tự do. Pháp, Đức, Nhật Bản, và Hàn Quốc
đều là các dân tộc trước khi trở thành các nền dân chủ tự do; Mỹ, như nhiều người
đã chỉ ra, là một quốc gia trước khi nó trở thành một dân tộc. Quá trình xác định
dân tộc Mỹ theo thuật ngữ chính trị tự do đã kéo dài rất lâu, với nhiều gian khổ,
và thường xuyên gặp phải bạo lực. Thậm chí ngày nay, quá trình đó đang bị thách
thức bởi những cá nhận thuộc cả cánh tả lẫn cánh hữu với những diễn ngôn cạnh
tranh nhau gay gắt về nguồn gốc của đất nước.
Chủ nghĩa tự do sẽ gặp rắc rối, nếu mọi người coi nó không hơn gì một cơ
chế để quản lý sự đa dạng một cách hòa bình, mà không có ý thức rộng hơn về mục
đích dân tộc. Những người từng sống với bạo lực, chiến tranh, và chế độ độc tài
thường mong muốn được sống trong một xã hội tự do, như người châu Âu đã làm
trong giai đoạn sau năm 1945. Nhưng khi mọi người đã quen với cuộc sống yên
bình dưới chế độ tự do, họ có xu hướng cho nền hòa bình và trật tự đó là điều
hiển nhiên, và bắt đầu khao khát một nền chính trị sẽ hướng họ đến những mục
tiêu cao hơn nữa. Vào năm 1914, châu Âu hầu như không có xung đột tàn khốc nào
suốt gần một thế kỷ, và nhiều người đã vui mừng hành quân ra trận bất chấp những
tiến bộ to lớn về vật chất đã đạt được trong thời gian đó.
Lịch sử nhân loại có lẽ đã đến gần một thời điểm tương tự: chúng ta đã
thoát khỏi chiến tranh quy mô lớn giữa các quốc gia trong ba phần tư thế kỷ, và
đồng thời, chứng kiến tăng trưởng to lớn của thịnh vượng toàn cầu mà từ đó đã tạo
nên những thay đổi xã hội lớn không kém. Liên minh châu Âu được thành lập như một
liều thuốc giải độc cho chủ nghĩa dân tộc đã dẫn đến các cuộc thế chiến, và
theo nghĩa đó, nó đã thành công vượt mọi hy vọng. Nhưng cuộc xâm lược Ukraine của
Nga lại trở thành điềm báo cho nhiều xáo trộn và bạo lực đang chờ phía trước.
Tại thời điểm này, hai kịch bản tương lai rất khác nhau đã xuất hiện. Nếu
Putin thành công trong việc hủy hoại nền độc lập và dân chủ của Ukraine, thế giới
sẽ quay trở lại kỷ nguyên của chủ nghĩa dân tộc hiếu chiến và không khoan dung,
gợi nhớ giai đoạn đầu thế kỷ 20. Mỹ sẽ không thể tránh khỏi xu hướng này, vì những
người theo chủ nghĩa dân túy như Trump đang khao khát sao chép đường lối độc
tài của Putin. Mặt khác, nếu Putin đưa nước Nga rơi vào cảnh thất bại về quân sự
và kinh tế, chúng ta sẽ còn cơ hội để học lại bài học tự do rằng quyền lực
không bị luật pháp kiềm chế sẽ dẫn đến thảm họa quốc gia, và để hồi sinh các lý
tưởng về một thế giới tự do và dân chủ.
-----------
Francis Fukuyama là Nghiên cứu
viên cấp cao tại Viện Nghiên cứu Quốc tế Freeman Spogli tại Đại học Stanford.
Bài viết này được tóm gọn từ cuốn sách sắp xuất bản của ông “Liberalism
and Its Discontents” (Farrar, Straus and Giroux, 2022).
No comments:
Post a Comment