19.06.2015
Mấy hôm trước tôi
có dịp đón một đoàn giáo sư người Phần Lan làm khách mời sang Việt Nam làm việc
sẵn dịp nói chuyện với các em sinh viên. Họ là những người từng nhiều năm đứng
trên bục giảng, và rồi những suy nghĩ và thắc mắc của họ khiến tôi không khỏi
gác tay lên trán và ngẫm về chuyện làm giáo dục của nước mình.
Khi dẫn vị giáo sư
đến giảng đường tại một trường đại học lớn ở Việt Nam, vị giáo sư có vẻ hơi bất
ngờ, vì cái bục giảng mà ông phải đứng nói chuyện cao hơn nhiều so với các em
sinh viên, nhất là khi ông đứng nói chuyện còn các em đang ngồi. Có lẽ vì thế
mà suốt buổi, vị giáo sư phải cố gắng hạn chế bước lên bục giảng tối đa, thay
vào đó là thường xuyên di chuyển đến gần nơi các em sinh viên ngồi để tương tác
với từng em một.
Các em sinh viên ai
cũng thích thú. Phần là vì ngưỡng mộ cái sự chân chất và giản dị của một vị
giáo sư có tiếng đầu ngành, đến từ quốc gia được ví là “thiên đường giáo dục”.
Phần là ưng cái sự gần gũi và nhiệt tình như thể người trong nhà qua phong thái
tương tác và trao đổi liên tục với các em. Đó là chưa kể, buổi nói chuyện diễn
ra tương đối cân bằng, khi thầy nói thì trò cũng hưởng ứng bằng cách phát biểu
xây dựng bài tạo hiệu ứng phấn khởi lan tỏa. Ông thầy di chuyển liên tục, thậm
chí bỏ Micro để nói chuyện “chay” với các bạn sinh viên ở góc xa. Để rồi cuối
ngày, các em phải tặc lưỡi tiếc nuối vì còn hàng tá câu hỏi gợi mở mà các em
còn chưa kịp được đặt ra để trao đổi với người thầy “tuy xa mà không lạ”.
Chuyện “cái bục giảng
cao ngất” và sự ứng xử tinh nhanh của ông thầy phương Tây khiến tôi thấm thía tại
sao người ta gọi Phần Lan là thiên đường giáo dục. Tại nhiều nước châu Âu, điển
hình là Phần Lan, cái bục giảng có cao đến mấy cũng thấp hơn vị trí học sinh, sinh
viên ngồi dự. “Đó là một vị trí bình đẳng và không áp đặt”, vị giáo sư giải
thích. Triết lý giáo dục bình đẳng của người Phần Lan đi từ cái bục giảng cũng
khiến nhiều người phải ngỡ ngàng. Thầy cô chính là nền tảng, nhưng trung tâm và
trên hết vẫn là học sinh. Thầy cô cung cấp phương pháp, định hướng, giúp đỡ
sàng lọc thông tin… còn việc tìm ra kiến thức phải bắt nguồn từ phía người học,
nhất là trong thời đại số, việc tìm kiếm kiến thức không còn là chuyện khó
khăn.
Ở mình, cái bục giảng
lúc nào cũng cao, và thầy cô thường gắn liền với cái bục giảng – một thế giới
khác mà đôi khi người học cũng chẳng dám “bẻng mãng” lại gần. Ngay cả khi kiểm
tra bài cũ, các em đứng gần bục giảng cũng chỉ toàn áp lực, chẳng có một sự
giao tiếp bình đẳng nào ngoài việc phán xét và chấm điểm. Thầy cô thường hiếm
khi rơi khỏi cái bục giảng ấy, có khi cả buổi học cũng chỉ đọc, chép khiến lũ học
trò lắm khi nói đùa “nghe mùi khét vì cháy ghế”. Và dần dần, cái bục giảng,
ngay cả trong thơ ca hay hò hát, trở thành một biểu tượng cho sự “cao xa” cả về
nghĩa đen lẫn nghĩa bóng của quý thầy cô, thay vì bổn phận của họ là đứng mũi
chịu sào, nâng đỡ, dìu dắt và xây dựng nền tảng phương pháp học tập vững
chắc cho các em.
Tôi có đứa em học lớp
chín. Ngày chuẩn bị thi học kỳ, thay vì xem lại các dạng toán và các cách giải
tương ứng, em tôi lại học thuộc các bài toán thầy cô cho ở lớp lẫn lúc học
thêm. Nó bảo “thầy giới hạn ra đề cho học sinh đỡ vất vả”. Tôi có giúp em mình
giải toán, nhưng rồi em tôi lo ngại “hôm trước có đứa bạn giải toán theo cách của
chị gái chỉ cho. Kết quả chính xác, duy chỉ có cách làm khác với đáp án nên thầy
chấm rớt”. Thế là, thay vì phát triển bài toán theo nhiều hướng, em tôi quyết
tâm trở thành “một con vẹt” do những “nhà làm xiếc” đứng trên bục giảng huấn luyện.
Có lẽ vì thế mà các giải thưởng toán quốc tế, hay trình độ toán học của các em
học sinh Việt Nam tương đối cao so với mặt bằng chung của thế giới, vì các em vốn
ngoan lại rất trung thành, bởi chỉ cần “nổi loạn” bất chấp bài giải của thầy
cô, thì không ít người đứng trên bục giảng sẵn sàng “hạ bệ” các em.
Đứa em tôi còn thường
xuyên than phiền “các bạn học sinh giỏi được ưu tiên nhiều quá. Có bạn thì được
thay mặt cô quản lớp khi cô ra ngoài”, có em thì được “ghi lại các em không làm
bài, không thuộc bài”; thậm chí còn có em thay thế thầy cô phán tội bạn mình,
buộc bạn mình phải nộp phạt. Đó là chưa kể học điểm cao thì được các ưu đãi nghỉ
lao động, nghỉ trực nhật… khiến bạn bè cùng lớp vừa chạnh lòng, vừa hờn tủi. Đó
là mầm mống cho cái mà người châu Âu gọi là bất công, bất bình đẳng, bởi em nào
cũng bỏ tiền để học, em nào cũng có nhu cầu học hành, và ai cũng có nhu cầu tiến
bộ. Việc “thương em giỏi”, bỏ rơi em yếu kém chưa bao giờ đạt hiệu quả, cả về mặt
giáo dục đạo đức hay giáo dục tri thức. Thế mới xảy ra cớ sự các em học yếu chẳng
có nơi để tựa, để bám víu, để được kéo lên, ít nhất là về đạo đức, tình người.
Và thế mới có chuyện ganh ghét, đố kỵ và bạo lực học đường cứ xảy ra nhan nhản
như chuyện thường ngày. Một em học trò lớp 7 chỉ vào mặt bạn mình “mày là ai mà
dám cấm tao nói chuyện trong lớp”, và rồi một cậu bé lớp trưởng bị ăn đòn bầm dập
khi vừa ra khỏi cổng trường, bất chấp những bài giảng về đạo đức mà các thầy,
các cô vẫn đọc ra rả khi ngồi trên bục giảng. Cái bục giảng không chỉ không giúp
truyền đạt được bài học, mà nó còn vô tình tạo ra một hình tượng thầy cô rất xa
xôi, không đáng tin cậy lẫn không cần thiết phải nghe lời.
“Cái bục giảng” chẳng
biết từ thuở nào cứ in sâu vào đầu của không ít thầy cô người Việt. Để rồi chẳng
em nào dám vượt qua “cái bóng” quá cao, quá khắc nghiệt của không ít thầy cô.
Thế nên, dẫu các em có trở thành những “cổ máy” siêu phàm như thể các robot
tính toán tốc độ cao, nhưng rồi Việt Nam mãi cũng chẳng có những cái tên ghi
danh trên bảng vàng Nobel khoa học. Bởi những thứ vốn được xem là “sáng tạo”,
là “bứt phá” vốn chỉ có thể phát triển từ khi các em còn là những trang giấy trắng
với sức tưởng tượng vô tận. Chứ khi đầu các em bị nhồi nhét những bài toán, câu
thơ với những phương pháp, cách thức mang tính khuôn khổ cố định và cứng nhắc,
thì mãi mãi cũng chẳng thể thoát ra khỏi cái vòng lẩn quẩn của “cái bục giảng”
được.
Ở nước ngoài, một
người thầy khi chọn học sinh cho mình thường bảo “tôi cần bạn”. Nhưng còn ở
mình, thường thì thầy cô cho rằng “tôi chọn em”, và nghĩa là tôi đang đứng trên
bục giảng, còn em hãy cố gắng một ngày nào đó bước lên bục giảng thay tôi, như
cái cách mà “con của Chí Phèo lại bị bỏ rơi ở cái lò gạch
cũ”.
* Blog của Cao Huy Huân là blog cá nhân. Các bài viết trên
blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay
lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
No comments:
Post a Comment