Tiềm
năng kinh tế mới là yếu tố làm nên tính chiến lược của Tây Nguyên?
Nguyễn
Quốc Tấn Trung - Luật Khoa
July 12 2023 1:26 PM
Nếu bất ổn xảy ra thì
cuối cùng vẫn nằm ở câu chuyện phân bổ lợi ích kinh tế.
https://www.luatkhoa.com/content/images/size/w2000/format/webp/2023/07/CLTN.jpg
Đồ họa: Shiv/ Luật Khoa.
Tây Nguyên là một khu vực địa lý luôn được nhắc đến như là vị trí chiến
lược, tối quan trọng cho an ninh quốc gia Việt Nam. Điều này đặc biệt đúng
trong quan điểm của báo chí nhà nước.
Tuy nhiên, theo người viết, để làm rõ tính chiến lược của Tây Nguyên
thì vẫn ít có nghiên cứu hay bài báo nào chú trọng.
Ví dụ, trong một bài bình luận được đăng tải trên Thông tấn xã Việt
Nam, tác giả đưa ra các bình luận như:
“Nhiều
tướng lĩnh của chúng ta và cả nước ngoài đã nhận định, Tây Nguyên quan trọng tới
mức nếu ai chiếm được Tây Nguyên thì coi như đã làm chủ được Việt Nam và Đông
Dương.”
“Trải
qua cuộc chiến tranh giải phóng 30 năm, không chỉ chúng ta mà người Pháp, người
Mỹ và thế giới cũng nhận thức được vị trí yết hầu của khu vực này. Họ xem Tây
Nguyên là ‘nóc nhà của Đông Dương’; là vùng đất liền kề ngã ba Đông Dương. Cho
nên, chiếm lĩnh được khu vực này thì cũng dễ dàng chiếm lĩnh được toàn bộ Đông
Dương.” [1]
Đây là những nhận định trên bề mặt, có tính tuyên ngôn và khái quát
cao, giúp cho thông điệp trên dễ sử dụng. Song nếu để làm rõ tính chiến lược thực
chất thì nội dung này chưa đủ.
Trong quá trình phân tích, tác giả bài báo có nhắc đến việc Pháp và Mỹ
rất chú trọng đến Tây Nguyên. Song cuối cùng, ông chỉ ghi nhận rằng các trận
đánh ở đây mang tính chất bổ trợ cho trận đánh chính là Điện Biên Phủ, nơi thực
dân Pháp tập trung xây dựng cứ điểm quân sự quan trọng nhất của họ trong cuộc
chiến với Việt Minh. Hoặc tác giả chỉ mới dừng lại ở việc mô tả cách quân đội cộng
sản “điểm huyệt” Buôn Ma Thuột nhằm làm toàn bộ miền Nam rung chuyển.
Hay trong một phân tích khác được đăng tải trên Tạp chí Quốc phòng toàn
dân, vị trí chiến lược của Tây Nguyên được nhấn mạnh trong cuộc chiến chống Mỹ
của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Theo đó, Tây Nguyên là vùng đệm ngắt
kết nối giữa hai khu vực quân sự chiến lược khác của chính quyền miền Nam là Huế
- Đà Nẵng và Sài Gòn. [2] Tiến công Tây Nguyên như một chiến dịch mở màn được
mô tả là nhằm vào mục đích nội địa này. Còn các mô tả hay diễn giải khác không
được nhắc đến trong nghiên cứu.
Vậy còn cách nào khác giúp chúng ta hiểu về tính chiến lược của Tây
Nguyên?
Và có yếu tố nào khác đóng góp vào tầm quan trọng của Tây Nguyên ngoài
các tuyên ngôn ngắn về địa chính trị?
Khía cạnh lịch sử
Cho đến gần đây, các quan điểm lịch sử cho rằng đồng bào người Thượng ở
Tây Nguyên chỉ là những nhóm dân biệt lập, kém phát triển, không có giao thương
kinh tế, v.v. đều đã bị phủ nhận.
Nhiều nhóm tác giả (như Jean Boulbet, Gerald C. Hickey, hay Oscar
Salemink, v.v.) ghi nhận rằng sự lớn mạnh của các vương triều miền xuôi, như
Champa (dù nhỏ nhưng có thể cạnh tranh với Đại Việt trong một thời gian dài)
hay chính quyền Đàng Trong của chúa Nguyễn, đều dựa rất lớn vào vai trò trung
gian kết nối của người Thượng ở Tây Nguyên cho các thực thể chính trị nằm sâu
bên trong lục địa và các thương gia hoạt động ở Biển Đông. [3]
Cụ thể hơn, các vương quốc miền xuôi này có quan hệ tốt, thân thiện và
thúc đẩy các hoạt động mang tính thương mại hóa cao với những nhóm dân cư nói
tiếng Austronesian (Jarai, Êđê [Rhadé], Churu, Raglai) và nói tiếng
Austroasiatic (Hrê, Bahnar, Koho, Ma). Đây vốn là những cộng đồng chính trị tự
chủ đang kiểm soát vùng đất mà ngày nay gọi là Tây Nguyên. Điều này giúp các
vương quốc miền xuôi tiếp cận được với các sản vật, hàng hóa có giá trị tìm thấy
được ở Tây Nguyên, cũng như có thể thông thương với các vương quốc nằm sâu bên
trong lục địa.
Nói cách khác, Tây Nguyên là lý do lớn nhất khiến những vương quốc miền
xuôi trở thành một điểm hội tụ giao thương của Biển Đông, thu hút thương nhân từ
Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Ả Rập, và sau đó nữa là châu Âu.
Đối với thương mại hướng hạ nguồn, người Chăm và người Kinh dùng gỗ
quý, mây, tre, mật ong, bò rừng, quế, cây gai dầu, các loại gia vị quý thời điểm
đó (spices), sừng tê, vật phẩm làm từ cọp (hổ) - vốn đều là các sản vật miền
Thượng - để thu hút thương nhân đi biển.
Đối với thương mại hướng thượng nguồn, người Chăm và người Kinh lần lượt
bán lại cho các cộng đồng ở Tây Nguyên cũng như các vương quốc trong lục địa
các sản phẩm như muối, nước mắm, cá khô, bình gốm Trung Quốc, các sản phẩm đồ đồng
và đồ sắt tiêu chuẩn cao, v.v.
Đây là nền tảng cho sự thịnh vượng của các vương quốc phía Nam, mà cụ
thể là nguồn thu thuế chính của chính quyền Đàng Trong. Nhờ duy trì ngân khố ổn
định từ hoạt động giao thương nói trên, các chúa Nguyễn mới có thể đẩy lùi các
cuộc tiến công biên giới từ phía chính quyền chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, mở rộng sức
ảnh hưởng về phía Nam, cũng như cập nhật các công nghệ, sản phẩm tân tiến từ
phương Tây. [4]
Theo tiến trình lịch sử, sự suy yếu về quản lý cũng như nạn tham nhũng,
sưu cao thuế nặng của chính quyền Đàng Trong đã khiến cho mối quan hệ giữa miền
xuôi và các cộng đồng Austronesian và Austroasiatic ở Tây Nguyên mất đi.
Theo ghi nhận từ sử gia Li Tana, sự bất bình của các cộng đồng người
Thượng cộng với các lực lượng người Chăm chưa khuất phục chúa Nguyễn đã hình
thành nền tảng ủng hộ chính trị đầu tiên, với nguồn lực đáng kể, cho cuộc khởi
nghĩa Tây Sơn. [5] Từ điểm khởi đầu này, tập đoàn chính trị mới của ba anh em
nhà Tây Sơn lần lượt hạ bệ cả ba nhánh quyền lực phong kiến quan trọng nhất thời
kỳ này: chúa Nguyễn, chúa Trịnh, lẫn nhà Hậu Lê.
Vì những lý do kể trên, nhiều sử gia khẳng định tính trung tâm của các
cộng đồng ở Tây Nguyên và đóng góp của họ trong tiến trình phát triển lịch sử của
toàn Việt Nam ở giai đoạn từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18.
Chính các loại sản vật quý của Tây Nguyên và sự thỏa hiệp của những cộng
đồng nơi đây với người miền xuôi khiến các cảng biển của Nam Kỳ trở thành điểm
đến hàng đầu cho thương mại hàng hải quốc tế thời điểm đó, đánh dấu sự xuất hiện
của các cường quốc tại Đông Á, Nam Á lẫn quá trình thực dân của người châu Âu.
Cũng chính sự bất hòa và phản ứng chính trị từ các cộng đồng người Thượng
đối với các chính quyền người Kinh khiến cho cấu trúc và những dàn xếp chính trị
phức tạp giữa các vương quốc đổ vỡ, làm bùng nổ cuộc khởi nghĩa thay đổi hoàn
toàn hiện trạng chính trị của Việt Nam thế kỷ 18.
Nói cách khác, Tây Nguyên chưa bao giờ đứng ngoài diễn trình lịch sử Việt
Nam như chúng ta thường nghĩ. Vùng đất này có những đóng góp chiến lược vào việc
tạo dựng hình hài của một nước Việt Nam hiện đại.
Khía cạnh địa chính trị - quân sự
Giá trị chiến lược của Tây Nguyên trong các phân tích hiện đại có thể
nói là bắt đầu với các nhóm truyền giáo phương Tây khi họ lần đầu đến Việt Nam.
Sau đó, những thông tin và quan điểm này được lưu truyền và xác nhận bởi các
nhóm tướng tá, lãnh đạo quân sự người Pháp như Galliéni và Ardant du Picq. [6]
Trong giai đoạn Đệ nhị Thế chiến, nhóm thực dân cầm quyền ủng hộ chế độ
Vichy (chính quyền lâm thời tại Pháp thân Đức Quốc Xã) nhắm đến việc biến Tây
Nguyên trở thành trái tim mới của Đông Dương, với Đà Lạt là thủ phủ liên bang.
[7] Song kế hoạch này cuối cùng không đi đến đâu khi Nhật can thiệp quân sự và
đảo chính Pháp vào năm 1945.
Sau này, tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Văn Tiến Dũng dẫn lời của tướng
Việt Nam Cộng hòa Phạm Văn Phú nói rằng ai kiểm soát Tây Nguyên sẽ kiểm soát
toàn miền Nam Việt Nam. [8]
Tuy nhiên, những lý giải rõ ràng hơn vẫn không được ghi nhận trong hầu
hết các tài liệu nói trên. Nếu chỉ bằng quan sát chính trị - chiến lược thông
thường, tầm quan trọng của Tây Nguyên có thể được cho là đến từ vị trí của vùng
đất này.
Tây Nguyên đủ gần biển để có thể hỗ trợ quá trình vận tải, củng cố
phòng thủ vùng duyên hải, nhưng ngược lại rất khó để tấn công trực tiếp bằng đường
biển bởi tính phòng thủ tự nhiên của các dãy đồi núi dốc chắn ngang. Tây Nguyên
cung cấp khả năng tiếp cận chiến lược đến mọi vùng đất thấp và thung lũng sông
xung quanh. Trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai (Hoa Kỳ - Nam Việt - Bắc
Việt), Tây Nguyên có vai trò trung tâm vì tính kết nối của nó với các chiến trường
liên quan (Bắc Việt - Nam Việt - đường mòn Hồ Chí Minh ở Campuchia và Lào).
Nhìn chung, người viết cho rằng tầm quan trọng của Tây Nguyên tương tự
với bất kỳ vùng đồi núi nào nằm bên trong lãnh thổ các quốc gia khác. Khả năng
phòng thủ tự nhiên vì địa hình trắc trở hay độ cao rõ ràng không có tính đặc
thù. Trong bối cảnh Việt Nam, Tây Nguyên trở nên đặc biệt quan trọng vì vùng đồi
núi này có khả năng cắt đứt khả năng giao thông - liên lạc giữa Trung Bộ và Nam
Bộ. Song mở rộng tầm quan trọng của khu vực này đối với toàn Đông Dương có lẽ sẽ
cần nhiều minh chứng và nghiên cứu làm rõ hơn.
Khía cạnh kinh tế
Nếu danh xưng “pháo đài của Đông Dương” có phần to tát và khiến người
viết phải nghi ngờ về tính chiến lược của Tây Nguyên, thì khả năng đóng góp
kinh tế của vùng đất này có lẽ là lý do khiến Tây Nguyên hiện đại trở thành
trung tâm của bất đồng và kỳ vọng kiểm soát.
Tính trên phương diện kinh tế nông nghiệp, Tây Nguyên đã và đang tiếp tục
khẳng định vị thế của mình với hồ tiêu, cà phê, cao su, điều, sắn, v.v. Đây đều
là những nhóm sản phẩm xuất khẩu có giá trị hàng đầu của Việt Nam hiện nay và
được nhiều quốc gia trên thế giới ưa chuộng.
Theo một thống kê vào năm 2018, các tỉnh thuộc Tây Nguyên luôn dẫn đầu
trong nhiều ngành cây trồng công nghiệp mũi nhọn. [9] Chỉ riêng Đắk Lắk đã là địa
phương có diện tích, sản lượng cà phê nhân đứng đầu cả nước. Cụ thể, diện tích
đạt 201.152 ha, chiếm trên 40% diện tích cà phê của cả vùng Tây nguyên và 30%
diện tích cà phê của cả nước. Sản lượng mỗi năm đạt từ 450.000 tấn cà phê nhân
trở lên. Nhờ Tây Nguyên, Việt Nam mới trở thành một trong các quốc gia xuất
khẩu cà phê lớn trên thế giới. [10]
Tương tự đối với ngành hồ tiêu, thống kê từ năm 2020 cho biết Tây Nguyên
chiếm hơn 60% diện tích canh tác của loại cây này trên cả nước. [11] Tây Nguyên
tiếp tục là vùng sản xuất hồ tiêu trọng điểm với sản lượng hàng đầu thế giới.
[12] Đối với cao su, Tây Nguyên là vùng chuyên canh thứ hai của cả nước (chỉ
sau Đông Nam Bộ). [13]
Mỗi ngành nói trên đều đóng góp hàng tỷ Mỹ kim vào giá trị xuất khẩu mỗi
năm cho Việt Nam. Nếu tính luôn yếu tố việc làm, thu nhập cho người dân cũng
như các yếu tố bình ổn xã hội nhờ vào sản xuất công-nông nghiệp khác, thì tầm
quan trọng của Tây Nguyên trong an ninh kinh tế và tiền tệ của Việt Nam là vô
cùng rõ ràng.
Tuy nhiên, để duy trì được một diện tích canh tác rộng lớn như vậy cho
hàng triệu người Kinh di cư, các cộng đồng bản địa quan trọng ở Tây Nguyên
(Jarai hay Êđê) gần như đã phải từ bỏ hoàn toàn các tuyên bố chủ quyền đối với
đất đai truyền thống, các kỹ thuật canh tác đặc trưng, lối sống cũng như nền tảng
chính trị bản làng của mình.
Ổn định tình hình Tây Nguyên, dù có phải dùng vũ lực cưỡng ép, đã trở
thành mục tiêu tối quan trọng đối với chính quyền Hà Nội trong bối cảnh chính
trị hiện nay. Bất kỳ sự thừa nhận hay trao trả lại chủ quyền nội địa hoặc quyền
tự quyết cho các cộng đồng tại đây (thường chắc chắn sẽ gắn liền với đất đai) đồng
nghĩa với diện tích canh tác khổng lồ nói trên và vai trò quản lý trong chuỗi
cung ứng các loại cây trồng mang lại giá trị cao của Việt Nam sẽ trở nên mất kiểm
soát.
Bức tranh toàn cảnh càng rõ ràng hơn nếu chúng ta kể đến các loại
khoáng sản quý ở Tây Nguyên, từ bauxite, sắt, đến magnesit hay diatomit.
***
Tầm quan trọng của Tây Nguyên thường được nhắc đến như là một câu chuyện
của địa chính trị, quân sự, quốc phòng.
Tuy nhiên, qua những thông tin kể trên, chúng ta thấy sức mạnh của Tây
Nguyên đối với quá trình phát triển lịch sử của Việt Nam dường như lại nằm ở
giá trị kinh tế của nó.
Trong các giai đoạn trung đại và cận đại, Tây Nguyên và sự hòa hợp của
người Kinh với các cộng đồng ở đây là nền tảng cho sự lưu thông của các nguồn
hàng, sản vật quý hiếm, góp phần biến những thành phố cảng ở Nam Kỳ trở thành
điểm đến quốc tế.
Trong giai đoạn hiện đại và sau ngày hòa bình, Tây Nguyên tiếp tục giữ
vị thế là khu vực đóng góp kinh tế quan trọng, đưa Việt Nam gia nhập câu lạc bộ
của những nhà xuất khẩu lớn trên thế giới trong nhiều lĩnh vực, mặt hàng.
Tây Nguyên không đơn giản chỉ có tính chiến lược vì các đặc trưng địa
lý đơn thuần của nó. Nhận thức đúng tính chiến lược của Tây Nguyên từ góc độ
kinh tế, người viết cho rằng những bất ổn có thể xảy ra - đến cuối cùng - vẫn nằm
ở câu chuyện phân bổ lợi ích kinh tế.
------------
Chú thích
1. Tây Nguyên không chỉ là một địa danh. (2023, July 12). TTXVN.
https://dhtn.ttxvn.org.vn/tintuc/tay-nguyen-khong-chi-la-mot-dia-danh-4910
2. Chiến thắng Tây Nguyên - Giá trị lịch sử và hiện thực.
(n.d.). http://tapchiqptd.vn/vi/ky-niem-45-nam-ngay-giai-phong-mien-nam/chien-thang-tay-nguyen-gia-tri-lich-su-va-hien-thuc-15208.html
3. Jean Boulbet, Pays des Maa’, domaine des génies (Nggar Maa’, nggar
yaang). Essai d’ethno-histoire d’une population proto-indochinoise du Viêt Nam
central (Paris: Ecole Française d'Extrême-Orient, 1967)
4. Tham khảo thêm:
5. Li Tana, Nguyễn Cochinchina: Southern Vietnam in the Seventeenth and
Eighteenth Centuries (Ithaca NY: Cornell University Press, 1989)
6. Joseph-Simon Galliéni, Galliéni au Tonkin (1892–1896), par lui-même
(Paris, 1941 [or. 1913]
7. Eric T. Jennings, Imperial Heights: Dalat and the Making and Undoing
of French Indochina (Berkeley: University of California Press, 2011),
8. Văn Tiến Dũng, Our Great Spring Victory: An Account of the
Liberation of South Vietnam (Hanoi, Vietnam: NXB The Gioi, 2000)
9. Các tỉnh Tây Nguyên thâm canh các loại cây công nghiệp dài ngày.
(2018, April 6). Báo Ảnh Dân Tộc Và Miền Núi. https://dantocmiennui.vn/cac-tinh-tay-nguyen-tham-canh-cac-loai-cay-cong-nghiep-dai-ngay/173278.html
10. Minh M. (2023, March 6). Xuất khẩu thứ 2 thế giới: Cà phê Việt chưa
có thương hiệu tầm cỡ và bỏ trống gia tăng giá trị. Nhịp Sống Kinh Tế Việt
Nam & Thế Giới. https://vneconomy.vn/xuat-khau-thu-2-the-gioi-ca-phe-viet-chua-co-thuong-hieu-tam-co-va-bo-trong-gia-tang-gia-tri.htm
11. Phát triển hồ tiêu xuất khẩu ở các tỉnh Tây Nguyên theo hướng bền vững.
(2022, April 12). Tạp Chí Kinh Tế Và Dự Báo - Bộ Kế Hoạch Và Đầu Tư. https://kinhtevadubao.vn/phat-trien-ho-tieu-xuat-khau-o-cac-tinh-tay-nguyen-theo-huong-ben-vung-22144.html
12. Tran, D. T., Nguyen, T. H. O., Huynh, T. U., Oanh, T., DO, Nguyen,
Q. V., & Nguyen, A. V. (2022). Analysis of endophytic microbiome dataset
from roots of black pepper (Piper nigrum L.) cultivated in the Central
Highlands region, Vietnam using 16S rRNA gene metagenomic next-generation
sequencing. Data in Brief, 42, 108108. https://doi.org/10.1016/j.dib.2022.108108
13. Phát triển bền vững cây cao su vùng Tây Nguyên. (2018, November
19). Quân Đội Nhân Dân. https://www.qdnd.vn/kinh-te/cac-van-de/phat-trien-ben-vung-cay-cao-su-vung-tay-nguyen-554922
----------------------------------------------------------------------------------------------
Từ
sự kiện ở Tây Nguyên nghĩ về chức năng xã hội của giới trí thức
Tham gia cải biến xã hội, chống bất công, chứ không phải vận hành xung
quanh quỹ đạo của giai cấp thống trị.
Huỳnh
Công Đương | Luật
Khoa tạp chí
.
Người
Kinh: Từ đồng chí cộng sản trở thành thế lực thực dân nội địa ở Tây Nguyên
Quyết tâm khai hóa bằng sự thượng đẳng và tính ưu việt của chủ nghĩa xã
hội.
Vincente
Nguyen | Luật Khoa tạp chí
.
Chủ
nghĩa thực dân nội địa sau năm 1975 tác động đến Tây Nguyên như thế nào?
Căng thẳng và xung đột dai dẳng
Vincente
Nguyen | Luật Khoa tạp chí
No comments:
Post a Comment