CTV Tiếng Dân
13/01/2018
LTS: Tháng 12/2017, một cộng tác
viên Tiếng Dân đi thăm thác Bản Giốc và đã trò chuyện cùng những người dân địa
phương. Sau đây là bài tường thuật về chuyến viếng thăm này.
_____
Thác Bản Giốc được coi là thác nước tự nhiên đẹp nhất
Việt Nam, thuộc địa phận xã Đàm Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Con
thác này từng được đưa vào sách giáo khoa và luôn ở trong tiềm thức những người
Việt yêu nước.
Nếu đứng ở phía Việt Nam nhìn toàn cảnh khu vực thác
sẽ thấy, con thác này đẹp và hùng vỹ không chỉ bởi những dòng thác trắng mượt
như lụa, mà còn bởi rặng núi phía bên bờ Đông dòng thác. Rặng núi như một bức
tường thành vừa cao, vừa dài, vừa kiên cố, che trở cả một vùng lãnh thổ rộng lớn
và là sự thèm muốn của bất cứ quốc gia nào không sở hữu được nó.
Đứng dưới chân thác nhìn lên, nửa thác chính hiện đã
thuộc Trung Quốc, gồm cả dãy núi bên phải. Ảnh chụp tháng 12/2017 – CTV Tiếng
Dân
Bên tay phải thác là rặng núi hùng vỹ. Những người
dân địa phương cho biết, trước đây, phần lãnh thổ của VN cách đỉnh dãy núi này
hơn 1 km về phía Đông. Điều này có nghĩa là, không chỉ nửa thác chính, mà toàn
bộ thác chính đều thuộc VN.
Ảnh chụp thác Bản Giốc từ xa. Nguồn: CTV Tiếng Dân
chụp tháng 12/2017
Người
dân địa phương nói gì?
Chúng tôi đã có dịp phỏng vấn bốn người dân địa
phương sinh sống lâu đời tại đây. Một người khoảng 30 tuổi, ba người kia khoảng
45 tuổi. Tất cả những người này đều cho rằng, những năm 1970, người dân Việt
Nam đã sinh sống, cày cấy phía bên kia bờ thác Bản Giốc. Thậm chí, người dân VN
còn làm nhà, nuôi trồng cách đỉnh dãy núi phía bờ Đông hơn một cây số. Tuy
nhiên, sau đó phía Trung Quốc đã dùng quân đội lấn chiếm, xua đuổi, buộc những
người dân sinh sống và nuôi trồng tại đây, phải bỏ nhà cửa, đất đai, lãnh thổ
Việt Nam cho phía Trung Quốc chiếm giữ.
Khi được hỏi, liệu VN có bị mất đất trong dịp phân định
biên giới tại Bản Giốc năm 1999?
Một người dân khẳng định: “Ôi! Mình mất nhiều chứ,
núi đá này mất hết, ngô trồng xuống mà nó nhổ đi hết”. Với ánh mắt buồn bã,
người này cho biết: “Từ hòn núi đá kia hơn một cây số nữa. Hết sạch, mất sạch,
Tàu lấy hết”.
VIDEO
:
Thác Bản Giốc những ngày cuối năm 2017
Hai người phụ nữ khác cũng chỉ tay về phía rặng núi
bên kia và cho biết, trước kia dân VN ở đây còn làm nhà phía bên kia (vùng đất
bây giờ đã bị TQ chiếm giữ). Qua cả rặng núi. Giờ TQ lấy hết rồi, lấy cả thác nữa.
Những lời khẳng định này cũng trùng khớp với những
chi tiết trong
cuốn Bên Thắng Cuộc của nhà báo Huy Đức. Xin được trích một đoạn trong BTC:
“Theo ‘Bị vong lục 15-3-1979 của Bộ ngoại giao’ thì toàn bộ khu vực thác Bản
Giốc nằm trong lãnh thổ Việt Nam cho tới ngày 20-2-1970 mới bị phía Trung Quốc
‘đưa 2.000 người kể cả lực lượng vũ trang’ sang lấn chiếm. Các tài liệu lịch sử
của người Pháp và những người dân sống lâu năm ở khu vực Đàm Thuỷ đều biết rõ
toàn bộ thác Bản Giốc nằm sâu trong biên giới Việt Nam chứ không phải là phần
được ‘quy thuộc’ như các nhà đàm phán trong thập niên 1990 giải thích (516)”.
Vấn đề được đặt ra là, nếu Trung Quốc đã có trong
tay bản đồ phân định biên giới theo Công ước Pháp – Thanh, thì không dễ gì có
chuyện đến tận những năm 70 – 80 Trung Quốc mới xua đuổi người Việt Nam như vậy.
Chính quyền Việt Nam trả lời sao về những phát biểu của người dân nơi đây?
Thác
Bản Giốc trong Hiệp định phân giới cắm mốc
Việt Nam và Trung Quốc đã hoàn thành công tác phân giới cắm mốc trên toàn tuyến
biên giới đất liền vào ngày 31/12/2008. Trong đó, khu vực thác Bản Giốc thì “toàn
bộ thác phụ và ½ thác chính quy thuộc Việt Nam”. Nếu nhìn từ phía dưới chân
thác, phần thác bên trái và nửa phía Tây của thác chính thuộc chủ quyền của Việt
Nam, nửa phía Đông của thác chính thuộc Trung Quốc.
Lý do của việc kéo dài việc phân giới sau khi
ký Hiệp ước 1999 là do hai bên vẫn còn tranh chấp căng thẳng
tại đồn Pò Đon. Lưu ý là “Hai bên thỏa thuận không xây dựng công trình nhân
tạo tại các khu vực Thác Bản Giốc”.
Hiệp định về khai thác tài nguyên du lịch thác Bản
Giốc chỉ được Việt Nam và Trung Quốc chính thức đặt bút ký vào ngày
6/11/2015, mà VOV viết là nhằm “khép lại hoàn toàn những
tranh chấp do lịch sử để lại, mở ra một thời kỳ hợp tác mới giữa hai nước”.
Cũng như để trấn an dư luận: “Việc ra đời của Hiệp định tàu thuyền đi lại
tự do ở cửa sông Bắc Luân và Hiệp định hợp tác, khai thác và bảo vệ tài nguyên
du lịch thác Bản Giốc đã phần nào giải đáp những thông tin thiếu cơ sở trong dư
luận cho rằng toàn bộ hai phần thác Bản Giốc vốn thuộc về Việt Nam đã bị mất
cho Trung Quốc”.
Hiệp định về Bản Giốc cùng với cửa sông Bắc Luân được
hai bên nhất trí giải quyết bằng giải pháp “cả gói” và “dựa trên nguyên
tắc công bằng hợp lý, tôn trọng các dấu tích lịch sử, ưu tiên ổn định đời sống
cư dân biên giới, phù hợp các văn bản pháp lý do lịch sử để lại”, cũng theo
VOV.
Phía Việt Nam, đặc biệt là ông Lê Công Phụng, thứ
trưởng Bộ Ngoại giao, Trưởng đoàn đàm phán cấp Chính phủ về biên giới, lãnh thổ
Việt – Trung và ông Trần Công Trục, cựu trưởng Ban biên giới Chính phủ, nhiều lần
nhấn mạnh đến Biên bản phân giới cắm mốc giữa Pháp và nhà Thanh ngày
31/5/1892 và Công ước Pháp – Thanh 1887 cùng Công ước Pháp – Thanh năm 1895 để cho rằng,
trong quá trình đàm phán,“không có chuyện Việt Nam đã để mất thác Bản Giốc cho Trung
Quốc“.
Tuy nhiên, việc bám vào Công ước Pháp – Thanh để cho
rằng, “không có chuyện” VN bị mất một phần thác Bản Giốc, là thể hiện sự
chủ quan và cẩu thả. Bởi thực tế, đã có việc “Pháp nghe nói và cũng muốn để
cho Trung Hoa công nhận sự chiếm đóng Bắc Kỳ của Pháp và không gây khó khăn nên
đã nhân nhượng và thực hiện cắt một số đất đai ở Hà Giang và Quảng Yên giao cho
nhà Thanh”.
Chưa hết, việc phía Việt Nam chỉ căn cứ vào bản đồ
do phía TQ đưa ra và cột mốc được cho là cắm từ thời nhà Thanh để làm cơ sở
phân định cũng thiếu vững chắc. Rất có thể phía Trung Quốc đã cho sửa bản đồ và
làm mốc giả một cách tinh vi mà phía Việt Nam không biết.
Theo sách Bên Thắng Cuộc của nhà báo Huy Đức, thì: “Ngày
30-12-1999, sau sáu vòng đàm phán ở cấp chính phủ, mười sáu vòng đàm phán ở cấp
chuyên viên, chủ yếu tập trung xử lý 164 khu vực C, hai bên đã ký ‘Hiệp ước hoạch
định biên giới đất liền’. Theo đó: ‘Quy thuộc khoảng 114,9 km2 cho Việt
Nam (gồm 112,3km2 thuộc khu vực C; 2,6 km2 thuộc khu vực A và B) và
khoảng 117,2 km2 thuộc Trung Quốc (trong đó có 114,8 km2 thuộc khu vực
C; 2,4 km2 thuộc khu vực A và B)’ (510). Nhìn qua các con số thì có vẻ như
‘đây là một kết quả công bằng’ (511). Nhưng, trên thực tế, chính quyền địa
phương, các cán bộ biên phòng và người dân nhìn thấy từng tấc đất giờ đây đã
thuộc về Trung Quốc. Theo ông Nguyễn Mạnh Cầm: ‘Khi tôi lên, Cao Bằng nói, những
phần đất này lâu nay là của ta sao các anh để thế này. Tôi phải giải thích
là phải theo các nguyên tắc đã thoả thuận trong quá trình đàm phán’.”
Cựu Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm cũng thừa
nhận: “Anh em Cao Bằng cũng phản ứng, nhưng muốn thoả thuận được thì mình
cũng phải nhượng bộ”. Và “Ông Nguyễn Mạnh Cầm thừa nhận: “Năm 1993, khi
thông qua những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới, thấy rằng việc
phân chia theo trung tuyến dòng chảy là một nguyên tắc hợp lý. Lúc bàn nguyên tắc
này, Bộ Chính trị chưa nghĩ tới những trường hợp cụ thể như Bản Giốc’.” Điều
này chứng tỏ, các nhà đàm phán VN lẫn những lãnh đạo cấp cao nhất rất tắc
trách, cẩu thả. Họ không hề tham khảo chính quyền địa phương, cũng như người
dân bản địa để có kế sách phù hợp. “Sự hiểu biết thực địa của người dân
biên giới đã không được khai thác để giúp Việt Nam giữ từng tấc đất”.
Những
nghi vấn độc lập
Tác giả Mai Thái Lĩnh từng có bài viết với nhiều câu
hỏi quan trọng: Sự thật về Thác Bản Giốc. Bài viết có đoạn: “Việc
Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm cồn Pò Thoong vào năm 1976 và phá hủy trạm thủy
văn ở nơi đó không thể che lấp được sự thật: trước đó Việt Nam là chủ sở hữu của
cồn này, và đương nhiên là chủ sở hữu của toàn bộ Thác Bản Giốc. Toàn bộ hồ sơ
về việc thành lập và quá trình hoạt động của trạm thủy văn chính là một bằng chứng
về chủ quyền của Việt Nam. Điều này chứng tỏ cột mốc 53 nằm sai vị trí, và việc
nó bị dời đến địa điểm hiện nay là do phía Trung Quốc thực hiện sau khi đã chiếm
cồn Pò Thoong”.
Cồn Pò Đon, còn có tên gọi khác là cồn Pò Thoong. Ảnh:
internet
Trong một bài
phỏng vấn trên báo Giáo Dục, để bác bỏ quan điểm của ông Mai Thái Lĩnh,
ông Trần Công Trục một lần nữa khẳng định, Việt Nam mặc định lấy các Công ước
Pháp – Thanh và coi đây là “nguyên tắc cơ bản nhất” để tiến hành đàm
phán. Ông Trục còn nhấn mạnh: “Nếu cứ dựa vào lịch sử, sách giáo khoa,
bản đồ để khẳng định chủ quyền đối với các khu vực tranh chấp thì không bao giờ,
không ở đâu có thể giải quyết được vì không có một cơ sở nguyên tắc chung.”
Nói
và làm
Trong khi phía Trung Quốc tận dụng triệt để vùng đất
“nhạy cảm” này để khẳng định chủ quyền, như cho xây kè bờ sông hàng chục
ki-lô-mét không chỉ để bảo vệ phần đất của họ, mà còn gây xói lở cho bên bờ
phía Việt Nam, các con đường xuống tham quan thác được họ đầu tư xây dựng kiên
cố, mặc dù không có hiện tượng bạt núi đề làm đường, thì phía Việt Nam gần như
bỏ mặc. Không rõ công trình kè nhân tạo này có trái với cam kết mà hai bên đưa
ra hay không, chỉ biết cồn cát ngay dưới chân thác đã bị xói lở và chắc chắn sẽ
biến mất trong vài năm tới.
Cồn cát dưới chân thác đang bị xói lở. Trong khi
phía TQ lượng khách tới thác có 5 bè thì VN chỉ có duy nhất một bè, với vài du
khách không mặc áo phao an toàn. Ảnh tác giả chụp
Theo báo
Thanh Niên, thì “từ năm 2007, Chính phủ Việt Nam đã có Quy hoạch tổng thể
Khu du lịch thác Bản Giốc tại Quyết định 134/2007QĐ-TTg. Quy hoạch này chỉ rõ:
từ 2008-2010 xây dựng hệ thống hạ tầng, trồng cây xanh, tôn tạo cảnh quan, xây
dựng trung tâm du khách… với kinh phí 500 tỉ đồng. Giai đoạn 2011-2015 với
1.000 tỉ đồng sẽ tập trung vào xây dựng cơ sở vật chất, xây khu dân cư, công
viên đá, khu vui chơi thể thao. Từ năm 2016-2020 sẽ hoàn thiện các công trình với
số tiền 900 tỉ đồng. Cụ thể hơn, quy hoạch này chỉ rõ nhu cầu về số phòng khách
sạn các năm 2010, 2015 và 2020 lần lượt là 50 – 260 – 1.400, để đón số khách
tương ứng 90.000 – 350.000 và 1 triệu lượt”.
Thế nhưng, ngay cả con đường dẫn xuống thác cũng vừa
mới được làm sơ sài, hàng quán lèo tèo chục người bán, từ hạt dẻ cho đến những
đồ lưu niệm, đa số là hàng Trung Quốc. Cây cầu bắc qua dòng nước dẫn từ thác phụ
tới dòng sông Quây Sơn, người dân địa phương nói cũng bị phía TQ ngăn cản,
không cho xây dựng. Mặc dù cây cầu này đã được đổ bê tông hai bên mố cầu.
Chiếc “cầu khỉ” được làm tạm qua dòng thác phụ. Trên
bờ người dân kinh doanh chụp ảnh với hai chú ngựa già, gầy yếu. Ảnh tác giả chụp.
Người dân địa phương cho biết, họ lo sợ nhất là
chính quyền lại tiếp tay cho doanh nghiệp đầu tư khai thác, dẫn đến thay đổi cảnh
quan nơi đây, gây ô nhiễm và đẩy người dân ra bên lề.
Dự án vẫn còn nằm trên giấy, được đặt dưới khu vực
chân thác. Ảnh tác giả chụp.
Cảm
nhận sau chuyến đi
Cảm nhận chung sau khi tới thăm Bản Giốc, chúng tôi
không thấy chỉ dấu nào cho thấy nơi đây sẽ “cất cánh” cả, thay vào đó là
một nỗi buồn thăm thẳm. Có lẽ nỗi đau lớn nhất là phần lãnh thổ thiêng liêng đối
với người dân địa phương, nay không còn nữa. Còn cuộc sống thì cũng chỉ mang
tính tạm bợ qua ngày, họ vẫn chỉ là những người bán hàng thuê cho Trung Quốc
đúng theo nghĩa đen của từ này: “Chỉ sướng các ông tướng thôi”.
Với tốc độ phát triển du lịch như hiện nay của TQ,
công dân của họ chẳng mấy chốc sẽ tràn ngập khu vực này. Đây thực sự sẽ là mối
lo mới, mà giải pháp đối phó thì không hề đơn giản.
Cho dù hiện nay người dân hai bên sống hòa thuận, bộ
đội hai bên vẫn thường giao lưu qua lại, nhưng phía TQ vẫn luôn hành xử như những
kẻ đê tiện. Cũng theo người dân cho biết, nếu kiểm tra người VN nào không có giấy
thông hành, phía TQ sẵn sàng bắt người đòi tiền chuộc, ít thì 5 triệu, nhiều
thì 7-8 triệu đồng mỗi người.
Ngẫm lại, một trong những sai lầm chết người của việc
đưa cửa sông Bắc Luân và thác Bản Giốc vào giải pháp “cả gói”, đã làm
cho TQ dễ dàng ép VN vào thế buộc phải chấp nhận ký các Hiệp định phân giới mà
phần thua thiệt chắc chắn nằm ở phía VN.
No comments:
Post a Comment