Samuel Charap &
Timothy J. Colton - Project
Syndicate
Biên dịch: Nguyễn Văn Đáp
| Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Posted
on 23/03/2017 by The Observer
Donald Trump vừa
chính thức nhậm chức Tổng thống Mỹ, nhưng những nghi vấn về sự can thiệp của
Nga vào cuộc bầu cử thì vẫn còn đó. Và một câu hỏi chính thường bị bỏ quên là:
tại sao Putin lại làm như vậy?
Tất
nhiên, không khó để đoán lý do tại sao Putin lại thích Trump làm đối thủ của
mình hơn là cựu Ngoại trưởng Hilliary Clinton. Nhưng có một sự khác biệt giữa
việc hy vọng vào một kết quả (may rủi) với việc gắng sức và chấp nhận rủi ro để
kết quả đó chắc chắn xảy ra. Theo quan điểm của chúng tôi, kết luận của các cơ
quan tình báo Mỹ, rằng thông qua việc giúp đỡ Trump, Kremlin đang thúc đẩy
“mong muốn lâu dài của mình trong việc làm suy yếu trật tự dân chủ tự do do Mỹ
dẫn đầu” là không hoàn toàn thuyết phục.
Sự
can thiệp của Nga vào cuộc bầu cử Mỹ là chưa từng có tiền lệ. Mới chỉ ba năm
trước đây, nó vẫn là chuyện không thể tưởng tượng được: dù mối quan hệ của
phương Tây với Nga không phải là lý tưởng, và lộ rõ nhiều sự cạnh tranh, thì nó
vẫn chủ yếu là sự hợp tác. Gần đây nhất là vào tháng 6 năm 2013, Putin và
Barack Obama đã ra một thông báo tái khẳng định “sự sẵn lòng tăng cường hợp tác
song phương dựa trên nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng, và tôn trọng thực
sự lợi ích của nhau.”
Mọi
thứ đã thay đổi vào tháng 2 năm 2014, khi cuộc Cách mạng Maidan[1] lên đến đỉnh điểm với việc phế truất
vị Tổng thống thân Nga Viktor Yanukovych. Bước phát triển này – và phản ứng của
Putin –đã thay đổi một cách căn bản quan hệ của phương Tây với Nga.
Gần
như ngay khi quyền lực thay đổi ở Kiev, chính sách đối ngoại của Kremlin đã trở
nên hiếu chiến. Nga đã xâm chiếm và sáp nhập bán đảo Crimea, và sau đó bắt đầu ủng
hộ một cuộc nổi dậy khó khăn nhằm đòi ly khai ở vùng Donbas của Ukraine. Mỹ và
EU đã đáp trả bằng các lệnh trừng phạt ngày càng phức tạp và khắc nghiệt cùng một
chiến dịch rộng lớn nhằm “cô lập” Nga về mặt ngoại giao.
Nga
đã đưa cả những hành động quyết đoán của mình lên bầu trời, dẫn đến một số cuộc
chám trán gay cấn giữa các máy bay chiến đấu của Nga với các phi cơ của phương
Tây (cả dân sự và quân sự), và xuống dưới biển bằng việc đẩy mạnh các hoạt động
tàu ngầm ở Bắc Đại Tây Dương tới mức tương đương với thời Chiến tranh Lạnh.
Theo chính quyền Obama, đã có một sự tăng đột biến các vụ quấy nhiễu nhân viên
ngoại giao Mỹ ở Nga.
Trên
mặt trận chính trị, Kremlin bắt đầu ủng hộ các lực lượng hoài nghi và chống-EU.
Và Nga đã dám ngăn cản cả các nỗ lực của phương Tây nhằm giải quyết các thách
thức quốc tế chính, đáng chú ý nhất là cuộc nội chiến ở Syria. Các hiệp định
lâu nay giữa Nga và Mỹ về an ninh và không phổ biến vũ khí hạt nhân đã bị Nga từ
bỏ một cách giận dữ. Tất cả những điều này lên đến đỉnh điểm trong vụ Nga cho
rò rỉ các e-mail được cho là bị xâm nhập nhằm làm mất uy tín chiến dịch tranh cử
của bà Clinton.
Trong
khi những nỗ lực của Nga nhằm can thiệp vào cuộc bầu cử tổng thống Mỹ gắn liền
với bối cảnh rộng lớn hơn là sự leo thang (căng thẳng) từ sau năm 2014, thì
chúng vẫn chắc chắn thể hiện một sự thay đổi. Nga cũng có thể đã tấn công các
chiến dịch của cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa trong cuộc bầu cử tổng thống năm
2012, nếu xét đến khả năng (tấn công) mạng ghê gớm của nước này. Nhưng các cơ
quan tình báo của nước này đã âm thầm phân tích thông tin, để cải thiện hiểu biết
về những lãnh đạo tương lai của đối thủ tiềm tàng – một hành động không phải
quá ghê gớm được thực hiện bởi một chính phủ.
Sự
can thiệp vào cuộc bầu cử cũng đã thể hiện một rủi ro đáng kể đối với Nga. Dù
chưa biết được mức độ mà các e-mail bị rò rỉ ảnh hưởng tới cuộc bỏ phiếu như thế
nào, thì chắc chắn Kremlin đã phải trả giá cho hành động này, khi bị ghét bỏ bởi
hầu hết công chúng Hoa Kỳ, cùng gần như toàn bộ giới tinh hoa chính trị Mỹ.
Quyết
tâm của Kremlin nhằm đạt được mục đích ở Ukraine đã khiến Nga chấp nhận một rủi
ro như vậy. Như các hành vi của Nga từ năm 2014 chỉ ra, chính phủ Nga cho rằng nguyên
trạng hậu cách mạng ở Ukraine – cụ thể là sự lao đầu liều lĩnh về
phương Tây của nước này – là một mối đe dọa trực tiếp tới an ninh quốc gia Nga.
Bằng việc sáp nhập Crimea, ủng hộ các phe ly khai Donbas, và trực tiếp mắng nhiếc
phương Tây, Nga muốn thể hiện rõ ràng rằng nước này sẽ làm bất cứ điều gì để đạt
được lợi ích mà nước này mong muốn.
Nhưng
phương Tây lại không hợp tác. Bất chấp sự leo thang của Kremlin, cả Mỹ và EU đều
từ chối cuộc đàm phán mà Nga mong muốn, và tiếp tục hỗ trợ việc hội nhập của
Ukraine vào EU và NATO. Và, dù lời mời Ukraine chính thức tham gia cả hai tổ chức
này trong trường hợp tốt nhất cũng chỉ là một khả năng xa vời, thì chúng cũng chưa
hoàn toàn bị loại bỏ.
Một
lần nữa nó thể hiện rõ ràng rằng các nhà hoạch định chính sách phương Tây không
muốn nhượng bộ, và Kremlin rõ ràng đã quyết định cố gắng tìm người thay thế họ.
Nếu xét quyết tâm của Nga trong việc duy trì ảnh hưởng ở Ukraine, một giải pháp
bao trùm (tính tới lợi ích của các phe thân Nga) có thể là cần thiết để ngăn chặn
Kremlin không theo đuổi những lựa chọn hung hăng hơn nhằm khẳng định lập trường
của mình.
Việc
nhận thức được thực tế không thoải mái này không nên khiến phương Tây phải đầu
hàng Nga. Thay vào đó, phương Tây nên ủng hộ mạnh mẽ hơn cho đối thoại cởi mở
và đàm phán cứng rắn – chính xác là những gì đang thiếu trong chính sách của
phương Tây về cuộc khủng hoảng Ukraine cũng như toàn bộ khu vực Á-Âu hậu Xô-viết.
Chúng ta đã lâm vào tình thế hiện nay bởi cả Nga và phương Tây đã mất hơn một
thập niên tìm kiếm lợi thế đơn phương và né tránh các thỏa hiệp từ đàm phán.
Việc
tổ chức đàm phán trong bầu không khí thiếu tin tưởng, trả đũa lẫn nhau và kích
động thù hận hiện nay sẽ đòi hỏi một sự đầu tư dài hạn vốn liếng chính trị
trong một thời kì liên tục. Việc thoát ra khỏi cách tiếp cận mang tính thù địch
hiện nay để tìm điểm chung sẽ cần thời gian. Một thỏa thuận nhanh chóng là
không thể.
Như
sự can thiệp của Nga vào cuộc bầu cử Mỹ đã chứng minh rõ ràng, những hệ quả của
việc cho phép cuộc khủng hoảng Ukraine tiếp diễn đã lan ra ngoài biên giới nước
này. Để tìm kiếm một điểm cân bằng ổn định mới trong quan hệ giữa Nga và phương
Tây, tất cả các bên phải nhanh chóng có một nỗ lực thiện chí nhằm giải quyết vấn
đề này.
*
Samuel
là Nghiên cứu viên Cao cấp về Nga và khu vực Á-Âu tại Viện Nghiên cứu Chiến lược
Quốc tế. Ông là đồng tác giả của cuốn Everyone
Loses: The Ukraine Crisis and the Ruinous Contest for Post-Soviet Eurasia.
Timothy
J. Colton là Giáo sư về Quản trị Chính quyền và Nga tại Đại học Harvard. Ông là
đồng tác giả của cuốn Everyone
Loses: The Ukraine Crisis and the Ruinous Contest for Post-Soviet Eurasia.
—————
[1] Maidan, viết đầy
đủ là Maidan Nezalezhnosti (Quảng trường Độc lập), chỉ nơi đầu tiên những người
biểu tình tập trung để phản đối chính phủ, ủng hộ việc hội nhập với châu Âu, khởi
đầu cho cuộc Cánh mạng Maidan (Maidan Revolution). Cũng chính từ đây, thuật ngữ
EuroMaidan xuất hiện, đầu tiên là trên Twitter, và được sử dụng rộng rãi trên
báo chí để chỉ phong trào này (ND)
Nguồn: Samuel Charap
& Timothy J. Colton, “ The
US Election and the Ukraine Connection”, Project Syndicate,
24/01/2017.
No comments:
Post a Comment