Thứ Tư,
08/03/2016 - 04:44 — tuongnangtien
Vào
cuối thế kỷ trước, tôi có viết cái truyện ngắn (dự tưởng) về
chuyến bay hồi hương của một chàng thanh niên, đang hăm hở trở lại
Việt Nam, ngay sau khi đất nước này vừa thoát khỏi hiểm hoạ cộng
sản.
Tựa
tuy đã quên nhưng tôi vẫn còn nhớ (loáng thoáng) đôi câu:
Phi
cơ chao cánh, nhìn qua
khung cửa sổ là một dòng sông yêu kiều lượn khúc,
đang lấp lánh dưới ánh nắng chiều: Sông Sài Gòn.
Tôi kêu khẽ và không ngăn được đôi dòng nước mắt!
Ảnh: Nguyễn Công Bằng
Chiều
qua, khi chiếc Airbus 320 của Vietnam Airlines nghiêng mình trên không phận
Sài Gòn, tôi mới thực sự thấy lại hình ảnh của dòng sông (cũ) y như
mình đã hình dung, mấy mươi năm trước. Chỉ khác có điều khác là tôi
không còn khóc nữa. Tuổi già hạt lệ như sương.
Gã
thanh niên năm xưa, nay, đã trở thành một công dân lão hạng mà đường
về thì vẫn còn khoá kín. Xuống phi trường Tân Sơn Nhất, thay vì đi
lấy hành lý như phần đông hành khách, tôi cùng vài người ngoại quốc
rẽ qua lối khác - lối dành cho hành khách quá cảnh.
Dù đã
biết rõ lộ trình như vậy nhưng tôi vẫn cảm thấy nặng lòng, và hơi
hụt hẫng. Tôi đã ghé qua rất nhiều phi trường, với tâm trạng trống
không, chỉ để chờ chuyến bay kế tiếp. Thực khó mà tưởng tượng, lại
có lúc, mình phải “quá cảnh” ngay trên mảnh đất quê hương.
Tôi
lặng người nhìn lại Sài Gòn từ sân bay Tân Sơn Nhất. Tôi sinh ra ở
thành phố này, và cũng bỏ đi biền biệt từ đây. Hơn ba mươi năm sau tôi
mới có dịp trở về chốn cũ, bùi ngùi đứng ngó cố hương qua một
khung cửa kính rồi (thở dài) đi tiếp.
Tôi
chưa có lối về, đã đành; hàng triệu người dân Việt khác vẫn tiếp
tục bỏ đi. Theo dữ liệu của Tổ
Chức Di Dân Quốc Tế (IMO) "từ năm 1990 đến năm 2015 có hơn 2,5
triệu người Việt Nam di cư ra nước ngoài. Tính trung bình trong 26 năm, mỗi năm
có khoảng gần 100 nghìn người Việt di cư."
Sự
kiện trên đã được đạo diễn Song Chi ghi lại qua một bài viết ngắn
("Dòng
Người Ra Đi Chưa Bao Giờ Dừng Lại") với ít nhiều cay đắng:
"Thực tế, kể từ sau khi chiến tranh VN kết
thúc, người Việt bắt đầu bỏ nước ra đi, và trong suốt 40 năm qua, dù có khi ồ ạt,
có khi lặng lẽ, nhưng dòng người ra đi chưa bao giờ dừng lại. ..
Nhưng có vẻ như càng ngày số người tính chuyện
ra đi càng nhiều hơn, thành phần đa dạng hơn, tạo cảm giác đất nước như một con
thuyền đang đắm!"
Trong
số "thành phần đa dạng" này, công luận vẫn thường hay vẫn
bỏ quên những người bản địa. Sau những biến động khốc liệt xẩy ra ở
Tây Nguyên (2001 - 2004)
và Điện Biên (2011),
không ít sắc dân miền núi ở Việt Nam cũng buộc phải rời bỏ bảng
làng. Họ thường phải trải qua những chuyến đi vô cùng gian lao mà
điểm đến thì hoàn toàn vô định, hay ... vô vọng.
Người dân tộc
H'mong vô vọng bảo vệ Nhà tang lễ trước lúc nhà tang bị tấn công và tàn phá năm
2013. Ảnh & chú thích: RFA
Trong những trang sổ tay trước,
chúng tôi đã có dịp đề cập đến vài mảnh đời lưu lạc của đồng bào
H'mong đến từ Mường Nhé. Những dòng chữ còn lại của S.T.T.D hôm nay
xin được dành riêng cho những đồng bào Thượng đi từ Tây Nguyên mà
chúng tôi đã có dịp tiếp chuyện - đôi ba lần - ở ven đô Bangkok.
Sở dĩ
họ chọn Bangkok là chỗ dừng chân vì nơi đây ngoài vòng ảnh hưởng của
nhà nước CSVN nên an toàn hơn nhiều so với Phnom Penh. Thủ Đô nước Thái
cũng phú túc hơn nên một di dân bất hợp pháp có thể kiếm sống, bằng
cách này hay cách nọ, không mấy khó khăn.
Từ
Bangkok, thông tín viên Anh Vũ (RFA) đã gửi đi loạt bài phóng sự
truyền thanh ("Làn
Sóng Người Ti Nạn Từ Việt Nam") cặn kẽ. Xin ghi lại một vài
đoạn ngắn để rộng đường sư luận:
Trong những năm 2001 đến 2007, trước hiện trạng đất canh tác dần
dần bị rơi vào tay các đồn điền cao su của người Kinh di cư từ miền xuôi lên, cộng
với sự cấm đoán ngặt nghèo của chính quyền đối với các hoạt động tín ngưỡng,
tôn giáo, hàng loạt các cuộc biểu tình của người Thượng Tây nguyên đã nổ ra để
đòi trả lại đất đai bị thu hồi và đòi nới rộng quyền tự do tôn giáo.
Để đối phó với các cuộc biểu tình đông người, chính quyền VN đã
tiến hành nhiều đợt đàn áp nhằm vào người Thượng ở Tây Nguyên, từ đó nhiều người
Thượng Tây nguyên tìm đường trốn chạy sang Campuchia để tìm qui chế tỵ nạn...
Ông Y Heo KNuil Ly dân tộc Ê đê ở tỉnh Đaklac đã chạy sang tỵ nạn
tại Thái Lan từ năm 2008 nói với chúng tôi:
“Từ trại tỵ nạn ở Campuchia chúng tôi phải chạy trốn sang Thái
Lan vào năm 2008, lý do tôi phải bỏ trốn khỏi đất nước quê hương tôi một phần
cũng vì vấn đề chính trị. Trước việc đất đai của cha ông chúng tôi đã bị chính
quyền thu hết thì chúng tôi đã đi biểu tình để phản đối cái đó và yêu cầu chính
phủ Hà nội phải tôn trọng quyền của người Thượng ở Tây nguyên. Một phần nữa họ
đã ghép tôi tội hoạt động tôn giáo Tin lành và họ đã ghét bỏ tôi nên buộc tôi
phải chạy sang Campuchia để tỵ nạn.”
Nói về những khó khăn của những người Thượng Tây nguyên tỵ nạn ở
Thái Lan đã và đang gặp phải trong thời gian vừa qua, ông Y Thoat Knul bày tỏ:
“Vì mình không có giấy tờ nên phải đi làm chui thôi, làm phụ hồ,
làm rửa xe, làm đủ các công việc. Mỗi ngày phải làm việc từ 10-14 tiếng đồng hồ,
không có nghỉ, phải chấp nhận làm nô lệ thôi. Với cuộc sống bơ vơ hiện tại thì
khôngbiết tin vào ai, không biết phải làm gì và không biết mình sẽ rơi vào tay
ai. Đó còn chưa kể đến chuyện ốm đau, bệnh tật và biết bao các thứ chuyện
khác...”
Tình cảnh những người Thượng Tây nguyên đang tỵ nạn ở Thái Lan
khó khăn là như vậy, song sự quan tâm của các tổ chức và cá nhân người Việt đối
với họ còn ở mức hết sức khiêm tốn. Trong một tâm trạng buồn tủi, ông Y Thoat
Knul nói về nguyện ước của ông và bà con người Thượng Tây nguyên đang tỵ nạn ở
Thái Lan. Ông nói:
“Cuộc sống của chúng tôi rất mong manh, không biết sẽ đi đâu, về
đâu khi mà Cao ủy LHQ đã bỏ rơi chúng tôi hoàn toàn. Chúng tôi bây giờ chỉ cầu
mong tất cả cộng đồng người Việt ở Hải ngoại và các tổ chức hãy quan tâm đến sự
sống của người Thượng tỵ nạn. Đây là lời nói chân thành từ đáy lòng.”
Bẩy người dân Tây
Nguyên vừa đặt chân đến Cambodia, vào cuối tháng 6 năm 2016. Ảnh tư
liệu của MIRO chụp tại chùa Samaki Raingsei ở Phnom
Penh.
Như đã
thưa, tôi đã có dịp cụng ly với qúi ông Y Heo KNuil Ly, Y Thoat Knul,
cùng nhiều ông bà, và trẻ em khác nữa. Chúng tôi đều là những kẻ
sinh trưởng ở Tây Nguyên, đều rất hảo rượu, và thời tiết Thái Lan
thì đặc biệt thích hợp cho loại bia Singha ướp lạnh nên câu chuyện
(bên bàn nhậu) luôn luôn rôm rả và rất "đậm đà bản sắc văn hóa
dân tộc" ... cho đến khi mọi người đều quá chén.
Vui
quá rồi cũng hóa buồn. Sau khi uống mềm môi những người bạn đồng ẩm
của tôi cứ thường nhắc đi nhắc lại những câu nói rất chí tình (tương
tự) như lời như ông Y Thoat Knul:
"Chúng tôi bây giờ chỉ cầu mong tất cả cộng
đồng người Việt ở Hải ngoại và các tổ chức hãy quan tâm đến sự sống của người
Thượng tỵ nạn. Đây là lời nói chân thành từ đáy lòng.”
Gặp gỡ và
cụng ly ở Bangkok. Ảnh: Nguyễn Xuân Kim
May
nhờ có rượu nên những người ngồi chung bàn không biết rằng "lời
nói chân thành từ đáy lòng" của họ đã khiến tôi đỏ mặt.
Tôi xấu hổ vì biết chắc rằng chưa hề bao giờ có bất cứ tổ chức
nào bận tâm đến số phận đến những người Thượng đang sống vất vưởng
ở Phnom Penh hay Bangkok. Dù ở trong hay ngoài nước, đối với đám người
Kinh - nói chung - đồng bào Thượng có lẽ chưa bao giờ là đồng
bào thiệt cả.
Với
tâm thức hẹp hòi này thì dân Việt sẽ còn gặp nhiều thảm kịch khác -
trong tương lai gần - ngay cả sau khi những người cộng sản đã đội nón ra
đi.
K’ Tien
No comments:
Post a Comment