LỜI
BIỆN HỘ CHO TRỊNH BÁ PHƯƠNG TRONG PHIÊN TOÀ SƠ THẨM
Tại phiên tòa sơ thẩm xét xử Trịnh Bá Phương,
luật sư đã cố gắng và trong mọi nỗ lực có thể có để thực hiện việc bào chữa cho
bị cáo, dù bị ngắt nhiều lần bởi vị chủ toạ trong khi những vấn đề chưa thực sự
được trình bày chi tiết và đầy đủ như trong lời biện hộ này, và với trách vụ
trước thân chủ cùng sự tôn nghiêm của luật pháp, luật sư nỗ lực giải thích về
quyền bào chữa vốn cần được tôn trọng và đảm bảo chuẩn mực mà không bị hối thúc
và làm gián đoạn quá mức trong vai trò gìn giữ công lý, song dẫu vậy và về cơ bản
các luận cứ được trình bày sơ lược tại phiên toà này cũng đã bao quát chung nhất
tinh thần các nội dung đã được thảo trình ra tại đây.
Trong
diễn biến phiên toà, tôi đã đưa bổ sung hai vấn đề quan trọng: đầu tiên là cần
trình chiếu bản ghi hình buổi khám phòng giam của bị cáo ngày 18/11/2024 để thấy
được chính xác việc khám xét đó có đảm bảo không chỉ trình tự mà nó phải tuân
theo, mà còn để đảm bảo công bằng trong xét xử đối với chính bị cáo nếu nó vốn
là sự thực khách quan - bằng chứng bị niêm phong mà các luật sư chưa được tiếp
cận khi sao chụp hồ sơ vụ án (nhưng không được chấp nhận). Thứ hai, về việc Việt
Nam đã chấp thuận 271/320 khuyến nghị theo cơ chế rà soát định kỳ phổ quát về
nhân quyền (UPR) chu kỳ IV (ngày 27/9/2024), trong đó có các vấn đề về sửa một
số điều luật của BLHS và Luật An ninh mạng nhằm đảm bảo các quyền tự do ngôn luận,
hội họp, báo chí. Điều này nhấn mạnh và cho thấy Nhà nước đã nhìn nhận và đánh
giá tích cực theo hướng cởi mở với các thách thức trong vấn đề nhân quyền (ví dụ:
khuyến nghị với số hiệu 42.128; 42.130-133; 42.136-146…).
—————————
Đà
Nẵng, ngày 27 tháng 9 năm 2025
BẢN
LUẬN CHỨNG BÀO CHỮA
cho
bị cáo Trịnh Bá Phương trong vụ án: Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền
thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước CHXHCNVN
Kính
thưa Hội đồng xét xử sơ thẩm!
Kính
thưa đại diện VKS giữ quyền công tố tại phiên tòa!
Trước
tiên, thực hiện việc bào chữa cho bị cáo, chúng tôi muốn gửi lời cảm ơn tới Thẩm
phán – chủ tọa phiên tòa Đinh Tấn Long, thẩm phán Bùi Trọng Danh (Phó Chánh tòa
hình sự) cùng các cán bộ, thư ký của TAND TP Đà Nẵng đã tích cực hỗ trợ chúng
tôi để có thể nhanh chóng hoàn thiện các thủ tục gặp bị cáo tại Trại giam An Điềm.
Chúng
tôi thực hiện việc bào chữa cho bị cáo, không xuất phát từ việc đồng thuận hay
không với bất kỳ quan điểm chính trị nào, mà chỉ bảo vệ với mục đích kiểm tra sự
chính xác nghiêm ngặt tối đa của luật pháp.
Thông
qua quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án có được, cùng phần xét hỏi công khai tại
phiên tòa ngày hôm nay (27/09/2025), mặc dù trước một số yêu cầu về thủ tục
chưa được đáp ứng nghiêm ngặt về thành phần tham gia tố tụng quan trọng (như
giám định viên), chúng tôi vẫn nỗ lực trình bày toàn diện quan điểm bào chữa
cho bị cáo như sau đây.
I. VI
PHẠM VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG: QUYỀN TIẾP CẬN HỒ SƠ VỤ ÁN CỦA BỊ CÁO VÀ NGUYÊN TẮC
XÉT XỬ CÔNG BẰNG CHƯA ĐƯỢC ĐẢM BẢO
1.1. Vấn
đề tiếp cận hồ sơ của bị can chưa được đáp ứng
Theo
hồ sơ vụ án và lời trình bày của bị cáo Trịnh Bá Phương, ngày 29/7/2025 trong
buổi làm việc với Điều tra viên và đại diện VKSND thành phố Đà Nẵng, bị can đã
có đề nghị được tiếp cận hồ sơ vụ án để thực hiện quyền tự bào chữa cho mình
(BL175) trên cơ sở Điều 60 BLTTHS. Ngày 01/8/2025, thông qua Trại giam, bị can
Phương tiếp tục gửi đơn với cùng nội dung như trên tới VKSND thành phố Đà Nẵng.
Nhưng cho tới thời điểm ngày 12/9/2025, khi chúng tôi gặp và làm việc với bị
cáo thì được trao đổi rằng đề nghị này của bị cáo Phương vẫn chưa được giải quyết.
Về
nguyên tắc, các quyền này không được trì hoãn, ngay cả khi đã kết thúc giai đoạn
thực hiện quyền mà các quyền này chưa được đáp ứng. Cần thấy rằng, trong vụ án
này, bị cáo đã có đề nghị, yêu cầu tiếp cận và đọc hồ sơ từ giai đoạn truy tố,
nhưng yêu cầu này đã không được VKS tiến hành một cách nhanh chóng trong vai
trò của mình, dù đủ thời gian để thực hiện. Như vậy, dù bị can yêu cầu từ ngày
29/7/2025, nhưng tới ngày 07/8/2025, đại diện VKS mới trả lời cho bị cáo về việc
hồ sơ đã được chuyển giao cho Toà án, điều này rõ ràng thể hiện sự chậm trễ
không chính đáng xét trong khoảng thời gian mà bị cáo đã đưa ra yêu cầu một
cách chính thức cho đại diện VKS vào giai đoạn truy tố.
Quyền
tiếp cận hồ sơ vụ án là một trong những quyền cơ bản và quan trọng được quy định
tại BLTTHS (Điều 60.2.i) cùng nhiều văn bản hướng dẫn dưới luật khác. Và quyền
này được đảm bảo thực hiện kể từ khi kết thúc điều tra cho đến trước khi Tòa án
có quyết định đưa vụ án ra xét xử (Điều 2.3 TT liên tịch
02/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP). Theo đó, khi bắt đầu kết thúc hoạt động
điều tra, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong từng giai đoạn được phân
công giải quyết vụ án khi giao bản Kết luận điều tra hoặc Cáo trạng cho bị can
thì đồng thời cần tiếp tục thông báo, giải thích cho bị can được biết về quyền
được đọc, ghi chép bản sao tài liệu… liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản
sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa của họ khi họ có yêu cầu (Điều
4.1 Thông tư liên tịch 02/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP). Đối với những bị
can bị tạm giam thì người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm cấp
bút và giấy viết hoặc phương tiện cần thiết để bị can có thể ghi chép phục vụ
cho việc nghiên cứu tài liệu, hồ sơ của vụ án (Điều 7.1 Thông tư liên tịch
02/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP).
Tuy
nhiên, cho tới thời điểm hiện tại, vụ án đã trải qua các giai đoạn tố tụng quan
trọng bao gồm điều tra và truy tố, và tại phiên tòa ngày hôm nay, bị cáo Trịnh
Bá Phương, mặc dù có yêu cầu về việc được tiếp cận, đọc và ghi chép hồ sơ từ
trước, vẫn chưa được thực hiện quyền năng cơ bản này. Pháp luật đã quy định người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm bảo đảm cho người bị buộc tội
thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định
(Điều 16 BLTTHS) để từ đó bảo toàn nguyên tắc cốt lõi về xét xử công bằng trong
hoạt động tư pháp - quy định mà Việt Nam đã tham gia Công ước quốc tế về các
quyền dân sự và chính trị của Liên hiệp Quốc 1966 (VN trở thành thành viên năm
1982) và bổ trợ bởi Án lệ Khoroshenko v. Liên Bang Nga (2011). Do đó, việc bị
cáo Trịnh Bá Phương chưa được thực hiện quyền tiếp cận hồ sơ vụ án là vi phạm
những nguyên tắc căn bản và nền tảng của ngay BLTTHS, và vi phạm vào quyền cơ bản
của bị can/bị cáo trong khi chuẩn mực tố tụng yêu cầu các cơ quan tiến hành tố
tụng phải thực hiện mọi biện pháp để bảo đảm chúng.
Bổ
sung tại phiên toà: bị cáo và luật sư đều đề nghị được trình chiếu bằng chứng
là dữ liệu điện tử đối với đoạn quay ghi hình việc khám buồng giam ngày
18/11/2024. Tuy nhiên, việc này không được HĐXX chấp nhận.
1.2. Về
quyền bào chữa và sự tôn trọng đối với nghề luật sư
Trong
vụ án này, do tính chất đặc thù của loại tội danh mà BLHS quy định, dẫn đến một
điều luật tương ứng trong BLTTHS đã giới hạn và tước bỏ quyền được bào chữa của
bị can tại giai đoạn điều tra – Điều 74. Hiến pháp và BLHS đều yêu cầu không
phân biệt mọi yếu tố con người và chính trị, các quyền cơ bản phải được duy trì
và bảo đảm trong mọi trường hợp. Không phân biệt mọi loại tội, nguyên tắc xét xử
công bằng bao gồm trong đó việc đảm bảo toàn bộ và đầy đủ các quyền mà tại đó
người bị buộc tội không bị ngăn trở thực hiện hoặc được bảo vệ chính đáng với bất
kể hình thức nào, đặc biệt không dựa trên loại tội mà người này vi phạm. Nguyên
tắc xét xử công bằng được hiểu rằng một người bị cáo buộc phải được thực hiện
thủ tục tố tụng qua một tiến trình công bằng và khách quan mà bất kỳ người nào
cũng đều được đảm bảo như nhau mà không phân biệt loại tội mà họ bị truy cứu.
Điều 74 BLTTHS là một điều luật nghiễm nhiên tạo nên sự bất cập và đe dọa từ bản
chất về tính công bằng trong xét xử khi loại trừ luật sư (người bào chữa) tham
gia tố tụng bảo vệ bị can tại giai đoạn điều tra – quy định mà LHQ đã khuyến
nghị cần phải bãi bỏ để phù hợp với (Điều 14) Công ước quốc tế về các quyền dân
sự và chính trị mà chính VN đã tham gia làm thành viên từ rất sớm (được bổ trợ
bởi Bình luận chung số 32, Án lệ Khoroshenko v. Liên Bang Nga năm 2011, và Án lệ
Rastorguev v. Ba Lan năm 2011).
Hơn
nữa, trong hồ sơ thể hiện, tại BL145, CQĐT đã nại ra lý do rằng “...các đối tượng
phản động khác, trong đó có số luật sư bất đồng chính kiến lợi dụng việc CA tỉnh
Quảng Nam khởi tố bị can đối với Trịnh Bá Phương...” để đề nghị VKS tỉnh Quảng
Nam không cho luật sư tham gia tại giai đoạn điều tra. Điều này rõ ràng thể hiện
một thiên kiến tiêu cực về nghề nghiệp luật sư và đồng thời tác động trực tiếp
vào hoạt động tố tụng của luật sư tham gia bào chữa cho Phương từ chính CQĐT,
trong khi không có căn cứ pháp lý nào về vấn đề quan điểm biểu đạt trong từ chối
hoạt động nghề nghiệp của luật sư.
Bên
cạnh đó, trước đó, ĐTV đưa ra yêu cầu luật sư cung cấp tài liệu cá nhân để thực
hiện các hoạt động không đảm bảo chính xác theo căn cứ của bộ luật tố tụng
(BL143), chúng tôi đã có văn bản phúc đáp và đề nghị trong quá trình tiến hành
tố tụng các vụ án, CQĐT không lặp lại các yêu cầu vượt quá cơ sở pháp lý của
BLTTHS đã ấn định riêng cho chức danh luật sư để đảm bảo các hoạt động tố tụng
được diễn ra chuẩn mục và thông suốt. Với hai ứng xử như vậy, cho thấy quyền
hành nghề của luật sư đã vô tình bị cản trở, trì hoãn, bị nhìn nhận thiếu tích
cực trong vai trò bổ trợ (gìn giữ) công lý và không được tuân thủ về các điều
kiện mà vốn cơ quan tiến hành tố tụng luôn phải thông hiểu cặn kẽ và nhất quán
trong trách vụ.
Thêm
vào đó, với vụ án quy định tại Điều 117, BLTTHS ấn định rằng luật sư được tham
gia bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra, và thường CQĐT gửi thông báo có trích
dẫn văn bản của Viện trưởng VKSND cùng cấp về việc từ chối đó. Quy định này được
xác định tức khắc một hệ quả của một quyền quan trọng đối với quyền bào chữa của
bị cáo và quyền hành nghề của luật sư, khi chúng ấn định thời điểm tham gia tố
tụng của luật sư cũng đồng thời ràng buộc trách nhiệm thông báo việc kết thúc
điều tra cũng như văn bản tố tụng thể hiện hoạt động này đã kết thúc, như Bản
KLĐT và hoặc văn bản chuyển giao hồ sơ cho cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm
quyền tiếp theo thụ lý giải quyết – các văn bản này cần được các cơ quan tố tụng
tống đạt/thông báo tới luật sư để luật sư có thể kịp thời tham gia tố tụng theo
đúng tinh thần điều luật đã ấn định. Tuy nhiên, tinh thần này đến nay chưa được
triệt để thực hiện bởi các cơ quan tố tụng, nhờ đó, chúng tôi kính đề nghị về
việc cần nhìn nhận và đảm bảo thực hiện hành động pháp lý này trên thực tế,
chúng giúp cho nguyên tắc pháp chế (pháp quyền) trở nên toàn diện và được thống
nhất.
II.
CHƯA CÓ ĐỦ CƠ SỞ VÀ CĂN CỨ ĐỂ KHẲNG ĐỊNH TRỊNH BÁ PHƯƠNG LÀ NGƯỜI LÀM/TẠO LẬP
RA TÀI LIỆU ĐÃ ĐƯỢC THU GIỮ
2.1.
Không có Kết luận giám định về dòng chữ được viết trên tờ giấy A3 với chữ viết
của bị cáo Trịnh Bá Phương là do cùng một người viết ra
Hai
cơ quan giám định chuyên môn, bao gồm Phòng Kỹ thuật hình sự CA tỉnh Quảng Nam
(cũ) và Phân viện Khoa học Hình sự tại TP Đà Nẵng khi nhận được yêu cầu giám định
của Cơ quan ANĐT tỉnh Quảng Nam (nay là Cơ quan ANĐT TP Đà Nẵng) về nội dung:
chữ viết tại tờ giấy A3 (tài liệu thu giữ) và chữ viết của Trịnh Bá Phương tại
mẫu so sánh có phải do cùng một người viết ra không, đều có văn bản từ chối
giám định vì các tài liệu mẫu so sánh không đảm bảo điều kiện để giám định
(BL115; BL111; BL109). Như vậy, không có cơ sở khoa học và bằng chứng pháp lý
nào để cáo buộc về hành vi “làm/tạo lập” ra vật phẩm là đối tượng của hành vi bị
truy cứu. Do đó, không thể kết luận và việc loại bỏ cáo buộc hành vi “LÀM” đối
với bị cáo Trịnh Bá Phương trở thành yêu cầu cơ bản để đảm bảo nguyên tắc suy
đoán vô tội mà bị cáo được hưởng, cũng như bất kỳ ai bị đặt vào việc xét xử
cũng sẽ được thụ hưởng quyền này.
2.2.
Không có bất kỳ người nào tại Trại giam An Điềm chứng kiến (nhìn thấy hoặc biết
hoặc có thông tin) việc bị cáo Phương là người làm/tạo lập ra dòng chữ trên tờ
giấy A3 đã thu giữ ngày 18/11/2024
Thêm
vào đó, những người làm chứng được triệu tập tới phiên tòa (Nguyễn Xuân Tăng,
Nguyễn Văn Thuận, Phạm Văn Điệp...) đều chỉ là người chứng kiến sự việc thu giữ
tài liệu, đồ vật vào ngày xảy ra sự việc 18/11/2024 mà không hề biết về việc bị
cáo Phương có phải là người trực tiếp viết dòng chữ trên tờ giấy A3 và dán vào
tờ báo Kinh tế Sài Gòn hay không (BL11, 12, 80, 82). Đồng thời, bút và giấy có
phải các vật được bị cáo sử dụng hoặc ít nhất có thể tìm thấy sự liên kết trong
việc đã sở hữu chúng hay không. Vấn đề này tiếp tục được hỗ trợ thêm về tiêu
chuẩn phải chứng minh ngay tiếp sau đây.
2.3.
Chưa thực hiện việc lấy dấu vân tay của Trịnh Bá Phương trên các tài liệu đồ vật
đã tiến hành thu giữ: hoạt động quan trọng và thiết yếu đã bị bỏ qua
Theo
như hồ sơ vụ án, ngày 18/11/2024, cán bộ Trại giam An Điềm đã thu giữ được đồ vật
khác ngoài tài liệu là tờ giấy A3, bao gồm 01 bút lông mực màu đen nhãn hiệu
“PERMANENT MARKER”, 01 cái dùi tự chế cán gỗ màu nâu. Để có cơ sở cho nhận định
bị cáo có phải là người viết dòng chữ trên tờ giấy A3 hay không, một điều kiện
bắt buộc đặt ra rằng, các cơ quan tiến hành tố tụng cần thiết phải tiến hành
thu thập và kiểm tra dấu vân tay của bị cáo xem chúng còn lưu giữ lại trên bề mặt
của các tài liệu, đồ vật đã thu giữ hay không.
Tuy
nhiên, theo hồ sơ vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng đã bỏ qua công việc quan
trọng này, nhưng lại vẫn đưa ra một nhận định thiếu cơ sở và khách quan rằng:
vì ngày 4/10/2024 khi bị cáo chuyển vào buồng giam I.3 ở một mình, buồng giam
đã được kiểm tra và không phát hiện vật dụng, tư trang gì; giấy ca-rô khổ A3 là
Trịnh Bá Phương đăng ký mua tại căng tin vào ngày 23/8/2024 bằng tiền lưu ký
(BL122) nên có căn cứ xác định tờ giấy khổ A3 một mặt dán vào tờ báo Kinh tế
Sài Gòn, một mặt có ghi dòng chữ “ĐẢ ĐẢO ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VI PHẠM NHÂN
QUYỀN ĐẢ ĐẢO TÒA ÁN CỘNG SẢN KẾT ÁN OAN TÔI”, hẳn nhiên, phải là sản phẩm của
Trịnh Bá Phương tạo ra, chứ không phải của phạm nhân khác hay đã có trong buồng
giam I.3 từ trước.
Nhận
định này đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc suy đoán vô tội tại Điều 13 BLTTHS
và nguyên tắc xác định sự thật của vụ án tại Điều 15 BLTTHS, bởi lẽ:
-
Không
có tài liệu, bằng chứng chứng minh việc mua giấy A3: Trong hồ sơ không cho thấy
bất cứ tài liệu kèm theo Biên bản làm việc nào giữa ĐTV và Trại giam An Điềm về
việc vào ngày 23/8/2024 bị cáo đã mua giấy A3 ở căng tin (ví dụ: bản ảnh chụp/bản
sao từ sổ theo dõi mua đồ tại căng tin của Trại giam);
-
Khoảng
thời gian đủ dài và các điểm mù của các sự kiện bao quanh để không thể xác định
nguồn tài liệu tạo nên vật phẩm: Bị cáo Trịnh Bá Phương, giả dụ, dù mua giấy
ca-rô A3 hay không, về bằng chứng thực tế, cũng chưa đủ cơ sở để khẳng định tờ
giấy A3 đã thu giữ là của bị cáo. Vì từ ngày 23/8/2024 (ngày mua giấy theo hồ
sơ vụ án) đến ngày 04/10/2024 (ngày bị cáo chuyển tới buồng giam mới I.3) không
có tài liệu chứng cứ thể hiện Trịnh Bá Phương có mang theo các vật dụng gì, có
bao gồm giấy A3 hay không. Do đó, từ ngày 04/10/2024 đến ngày 18/11/2024 khi kiểm
tra buồng giam và phát hiện sự việc càng không có cơ sở để khẳng định tờ giấy
A3 thu giữ là của Trịnh Bá Phương.
Như
vậy, chỉ với việc làm rõ tờ giấy A3 (chưa bàn tới dòng chữ được viết trên tờ giấy)
có phải là của bị cáo hay không, vốn đã chưa đủ cơ sở và căn cứ để khẳng định.
Do đó, việc buộc tội bị cáo lén lút làm và cất giấu 01 (một) tờ giấy khổ A3, một
mặt dán tờ báo Kinh tế Sài Gòn, một mặt có ghi dòng chữ “ĐẢ ĐẢO ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM VI PHẠM NHÂN QUYỀN ĐẢ ĐẢO TÒA ÁN CỘNG SẢN KẾT ÁN OAN TÔI” như tại KLĐT
và Cáo trạng, cho thấy chưa tuân thủ về chuẩn mực khách quan, thiếu vững chắc về
căn cứ và chưa đầy đủ sức mạnh về thuộc tính bằng chứng trong buộc tội.
Từ
những phân tích chi tiết và cụ thể nêu trên có thể thấy rằng chưa đủ cơ sở và
căn cứ để cho rằng Trịnh Bá Phương là người làm ra các tài liệu mà Trại giam An
Điềm phát hiện và thu giữ ngày 18/11/2024, bởi lẽ rằng trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình, CQTHTT phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự
thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ các chứng cứ buộc
tội và vô tội (Điều 15 BLTTHS). Nếu không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để
buộc tội, kết tội theo trình tự thủ tục thì phải kết luận người bị buộc tội
không có tội (Điều 13 BLTTHS).
2.4.
Tồn tại sự khác nhau/không đồng nhất về dòng chữ trên tài liệu cáo buộc Trịnh
Bá Phương giữa các văn bản tố tụng
Tài
liệu được sử dụng cho tiến trình giám định với các Bút lục: BL1, BL17-22, BL24,
BL31, BL95-97, BL100, BL104-105, BL112-114, tại đây thể hiện dòng chữ được ghi
nhận trong các văn bản tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng không đảm bảo
rằng chúng đồng nhất hay giống nguyên vẹn toàn bộ các chữ được viết trong KLĐT
và Cáo trạng, cùng một số văn bản khác – giữa hai bản vật chứng thể hiện thiếu
một chữ “ĐẢNG” (khi không có từ này, một danh từ chủ thể sẽ biến thành một danh
từ đối tượng/khái niệm). Như vậy, rõ ràng với hệ thống dày đặc các văn bản ghi
nhận sự vênh lệch về tính chân thực của chứng cứ, tài liệu vốn được coi là duy
nhất để buộc tội bị cáo, đã bất ngờ tồn tại hai phiên bản khác nhau.
Trong
vụ án mà từng từ (chữ, hay ký tự) đều được giám định và bị xem xét dưới góc độ
dùng để buộc tội một người, việc thiếu một từ (và được xem là đặc biệt quan trọng)
trở nên một vấn đề pháp lý đáng quan tâm về tính chính xác và hợp pháp của nó.
Câu hỏi đặt ra cho xung đột khách quan này cần được trả lời theo nghĩa: tài liệu
giữa trưng cầu giám định và tài liệu cho kết quả giám định không đảm bảo nguyên
vẹn thuộc tính, việc giám định hẳn nhiên không còn đáng tin cậy và cần phải loại
trừ khỏi tổ hợp các bằng chứng.
III.
CÁC NỘI DUNG TRONG VIỆC GIÁM ĐỊNH DÒNG CHỮ TRÊN TÀI LIỆU THU GIỮ CHƯA TUÂN THỦ
CƠ BẢN CÁC YÊU CẦU PHÁP LÝ
Bên
cạnh những phân tích nêu trên về việc chưa đủ căn cứ và cơ sở để khẳng định rằng
Trịnh Bá Phương là người làm/tạo lập ra tờ giấy A3 với dòng chữ “ĐẢ ĐẢO ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM VI PHẠM NHÂN QUYỀN ĐẢ ĐẢO TÒA ÁN CỘNG SẢN KẾT ÁN OAN TÔI”, chúng
tôi tiếp tục đi đến việc chứng minh rằng về trình tự, thủ tục đối với việc giám
định nội dung dòng chữ nêu trên để buộc tội bị cáo cũng có nhiều dấu hiệu vi phạm
mang tính nền tảng.
A. VỀ TỐ
TỤNG VÀ CÁC VẤN ĐỀ THÁCH THỨC
3.1.
Thực hiện giám định khi không đảm bảo về thẩm quyền giám định; có sự nhầm lẫn
cơ bản về thẩm quyền giám định
Theo
quy định tại Điều 3.1, Điều 52.2 Luật An toàn thông tin mạng; Điều 2.15 Thông
tư 11/2022/TT-BTTTT ngày 29/7/2022; Điều 39.1 Nghị định 72/2013/NĐ-CP; Điều
2.12 Thông tư liên tịch 06/2016/TTLT-BTTTT-BNV; Điều 1, Đều 2.15 Quyết định số
14/2023/QĐ-UBND của UBND TP.Đà Nẵng, Sở TT&TT có nhiệm vụ và quyền hạn về
“an toàn thông tin” mà không có nhiệm vụ và quyền hạn trong việc giám định nội
dung của tài liệu (an ninh thông tin). Như vậy, nguồn chứng cứ này không đảm bảo
thẩm quyền chuyên trách (và kéo theo vô hiệu về giá trị pháp lý) theo quy định
tại Điều 87.2 của BLTTHS. HĐXX cần bác bỏ bằng chứng này.
3.2.
Đưa ra các kết luận định tội khi không có căn cứ cụ thể và chính xác
Trong
toàn bộ quá trình giám định, sau đó đi đến các kết luận quan trọng tại bản KLGĐ
của tập thể (02) các giám định viên Sở TT&TT TP.Đà Nẵng, tại đây đều đã
không đưa ra hoặc không dựa trên bất kỳ tiêu chuẩn hay quy chuẩn nào trong khi
pháp luật yêu cầu buộc phải có.
Cụ
thể: Tại Bản ghi nhận quá trình thực hiện giám định (BL100-101) có thể hiện quá
trình giám định (mục 3), các GĐV tiến hành xem xét, đánh giá, giám định tư pháp
đối với mẫu cần giám định và đưa ra ý kiến rằng:
-
Có 01 (một) nội dung biểu thị sự chống đối kịch liệt với tinh thần muốn đánh đổ
TAND Việt Nam, xuyên tạc, vu khống TAND Việt Nam - “ĐẢ ĐẢO TÒA ÁN CỘNG SẢN KẾT
ÁN OAN TÔI”;
-
Có 01 (một) nội dung biểu thị sự chống đối kịch liệt với tinh thần muốn đánh đổ
tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam, xuyên tạc, vu khống tổ chức Đảng Cộng sản Việt
Nam - “ĐẢ ĐẢO ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VI PHẠM NHÂN QUYỀN”.
Trong
bản KLGĐ ngày 16/01/2025 của Sở TT&TT TP.Đà Nẵng có nêu phương pháp thực hiện,
tại đó ghi rõ rằng dòng chữ trên tờ giấy A3 thu giữ tại buồng giam của bị cáo
có nội dung: “châm biếm, đả kích, bôi nhọ, xuyên tạc, vu khống chính quyền, làm
ảnh hưởng đến uy tín cơ quan, tổ chức; gây hoang mang, lo lắng làm ảnh hưởng đến
lòng tin của quần chúng nhân dân đối với công cuộc xây dựng CNXH tại Việt Nam
và sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ, Quốc hội và Nhà nước CHXHCN Việt Nam”
(BL98-99; BL102-103).
Như
vậy, trong cả hai tài liệu, Bản ghi nhận quá trình thực hiện giám định và KLGĐ
ngày 16/01/2025 của Sở TT&TT TP.Đà Nẵng nêu trên, các GĐV chỉ thuần túy liệt
kê các kết luận mà không có bất kỳ căn cứ nào được viện dẫn để đối chiếu, phân
tích và đánh giá với mẫu cần giám định, thay vào đó, nhận thức và ý chí chủ
quan của các GĐV được mặc nhiên đưa ra và tự thừa nhận như tiêu chuẩn để kết tội.
Mặc
dù tại bản KLGĐ có nêu phương pháp phân tích, đánh giá và đối chiếu với các quy
định của Hiến pháp và các văn bản pháp luật hiện hành, nhưng tuyệt nhiên trong
đó không chỉ rõ cơ sở tham chiếu trong đánh giá dựa trên tinh thần của điều khoản,
điểm hay điều luật, quy chuẩn nào và tại văn bản nào – chúng ta không thể xác định
tính cách các nhân vật nếu chỉ đọc tựa đề của một cuốn sách. Các GĐV tự đặt ra
tính chân lý nghiễm nhiên của chính các kết luận của mình, ngay cả vấn đề điều
kiện chuyên môn bắt buộc cũng không được tham chiếu dưới bất kể hình thức nào,
trong khi đó các kết luận này cho thấy hai dòng chữ được tổng hợp với sự xâm phạm
đồng thời và rộng khắp các cấu thành tại điểm a, b của điều luật buộc tội.
Luật
giám định yêu cầu nếu việc giám định thuộc các lĩnh vực chuyên môn khác nhau,
buộc các giám định viên phải đảm bảo thành phần theo từng lĩnh vực chuyên môn
và phải từ chối giám định một khi vượt ngoài yếu tố chuyên môn của họ - quay trở
lại KLGĐ, chúng cho thấy các phạm vi được mở rộng trong nhiều vấn đề, bởi các
dòng chữ này hoàn toàn mang tính tổng quát bao trùm lên các địa hạt khác nhau.
Do đó, với hai GĐV chỉ đáp ứng phẩm chất về thông tin truyền thông, có đủ khả
năng đảm nhận việc giám định mà không gặp trở ngại về tính xác đáng của các kết
luận của họ? Và nếu không có cơ sở chuẩn tắc làm đối sánh, bất kỳ một người nào
có thẩm quyền khi được yêu cầu, sẽ chỉ có thể đưa ra các kết luận theo suy diễn
chủ quan mà không có cách nào để chắc chắn sự giám định đó đại diện cho tính
chân thực lẫn khách quan đã được định hình và hệ thống hóa từ trong bản chất của
hoạt động này.
Thiếu
sót nêu trên trong quá trình giám định của các giám định viên không chỉ vi phạm
nguyên tắc chung về hoạt động giám định tư pháp (Điều 3.1 Luật Giám định tư
pháp 2012, sửa đổi 2021) mà còn vi phạm quy định về giám định tư pháp trong
chính lĩnh vực thông tin và truyền thông với tư cách chuyên môn - khi tại Điều
10.1 Thông tư 24/2013/TT-BTTTT (thời điểm hiện tại được thay thế bởi TT
25/2024/TT-BTTTT ngày 31/12/2024) đã quy định một cách cụ thể rằng: hoạt động
giám định tư pháp trong lĩnh vực thông tin và truyền thông phải được thực hiện
dựa trên quy chuẩn chuyên môn trong lĩnh vực thông tin và truyền thông, bao gồm
Tiêu chuẩn quốc gia và Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia trong lĩnh vực thông tin và
truyền thông).
Như
vậy, chúng tôi giả định rằng Sở TT&TT TP.Đà Nẵng có thẩm quyền giám định nội
dung của tài liệu (an ninh thông tin) thì bản KLGĐ ngày 16/01/2025 của cơ quan
này cũng không được coi là nguồn chứng cứ để buộc tội bị cáo Trịnh Bá Phương, bởi
chúng không đảm bảo các tiêu chuẩn pháp lý trong chính chuẩn mực và các đòi hỏi
điều kiện về chuyên môn trong giám định, trong khi họ đã không có mặt tại phiên
toà để trả lời chính thức các câu hỏi về các khoảng trống trong giám định này.
3.3.
Nội dung bản kết luận giám định đã kết tội thay chức năng của toà án và nhầm lẫn
chức năng giám định
Như
đã nhận định ngay tại phần kề trên, do bởi các GĐV đã không thực hiện dựa vào bất
kỳ Tiêu chuẩn quốc gia hay Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia nào, nên thay vì đưa ra
một kết luận mang tính định lượng, trong hoạt động giám định, các GĐV đã nhầm lẫn
giữa giám định định mức và giám định cấu thành. Để làm rõ vấn đề pháp lý này, cần
đưa ra ví dụ minh hoạ, chẳng hạn như: trong giám định thương tích sẽ đưa ra kết
luận phần trăm (%) tổn hại sức khỏe cụ thể; trong vụ án về chất cấm, ta sẽ giám
định hàm lượng chất cấm trong hợp chất để xác định khối lượng chất ma túy;
trong vụ án thiệt hại tài sản, ta sẽ giám định về giá trị tổn thất của tài sản...
Do đó, bởi nhầm lẫn chức năng giám định giữa hai cách thức và mục đích của việc
giám định, các GĐV đã thực hiện kết luận giám định với nhận định mang tính kết
tội bằng việc liệt kê và sử dụng chính cấu thành mặt khách quan của tội phạm được
ghi trong điều luật để lấy làm tiêu chí giám định và đưa ra các kết luận của
mình (điểm a, b, khoản 1, Điều 117 BLHS). Rõ ràng ở đây, các giám định viên đã
thực hiện việc kết tội Trịnh Bá Phương thay cho và đi trước các cơ quan tiến
hành tố tụng. Trong trường hợp này, các giám định viên đã không đảm bảo đúng mặt
chức năng và phạm vi tố tụng.
Mặc
dù vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng lại vẫn sử dụng kết luận của các giám định
viên tại Sở TT &TT TP Đà Nẵng để buộc tội Trịnh Bá Phương là không đúng quy
định pháp luật vì lẽ điều luật đã nhắc đến các khái niệm “Nhà nước CHXHCN Việt
Nam”, “chính quyền nhân dân” nhưng tại dòng chữ viết trên giấy A3 thu giữ tại
buồng giam Trịnh Bá Phương chỉ nhắc đến “Đảng CSVN” và “Tòa án CS”. Đối chiếu với
toàn bộ hệ thống văn bản pháp luật theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
không hề có văn bản nào đồng nhất hoặc chỉ ra có sự tương đồng giữa các khái niệm
“Nhà nước CHXHCN Việt Nam”, “chính quyền nhân dân” với “Đảng CSVN” và “Tòa án
CS”, ngoại trừ tại Điều 4 Hiến pháp có nhắc đến nhưng lại phân định rạch ròi và
rõ ràng các chủ thể bao gồm: “Đảng CSVN”, “Nhà nước CHXHCN Việt Nam” và “xã hội”.
Như vậy, “Đảng CSVN” và “Nhà nước CHXHCN Việt Nam” là hai chủ thể hoàn toàn độc
lập và có tư cách pháp lý khác biệt nhau. Nhưng các Giám định viên của Sở
TT&TT TP Đà Nẵng và các cơ quan THTT sau này đã đồng nhất các khái niệm
trên và đưa ra kết luận cho rằng Trịnh Bá Phương chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam
(mặc dù quy trình, trình tự về việc thu thập chứng cứ chưa đảm bảo đúng quy định
pháp luật). Kết luận này là một sự cưỡng ép về nỗ lực giải thích vượt qua khoảng
trống của luật pháp về chủ thể.
3.4.
Địa phương hóa việc kết tội: một đặc thù pháp lý vượt quá các thẩm quyền tố tụng
và chuẩn mực tư pháp thông thường
Để
đưa ra cáo buộc đối với bị cáo Trịnh Bá Phương, các cơ quan THTT đã sử dụng Kết
luận giám định ngày 16/01/2025 của Sở TT&TT TP Đà Nẵng. Bên cạnh những vi
phạm về thẩm quyền và thiếu sót nghiêm trọng về phương pháp giám định nêu trên,
chúng tôi còn nhận thấy rằng, một vấn đề đang tồn tại rất lâu trong các vụ án
xét xử tội danh quy định tại Điều 117, khi các cơ quan THTT thường luôn sử dụng
các KLGĐ của Sở TT&TT (hoặc số rất ít vụ án được Bộ TT&TT thực hiện)
làm căn cứ và cơ sở cho việc buộc tội trước những phát ngôn hay các hình thức
biểu đạt quan điểm của họ. Mặc cho những sai phạm còn tồn tại, thậm chí đã tạo
ra một vấn đề lớn nảy sinh, đó là một cơ quan chuyên môn thuộc một cơ quan hành
chính địa phương có thể đưa ra kết luận buộc tội các bị can/bị cáo. Chính một tập
thể giám định viên, hoặc trong một số trường hợp là một GĐV duy nhất, của các Sở
TT&TT có thể kết tội bị can/bị cáo mà việc kết luận này chính thức được coi
như phiên luận tội thứ nhất và cũng là toàn diện đối với họ.
B. VỀ MẶT
NỘI DUNG VÀ CÁC KHOẢNG TRỐNG TRONG CHỦ THỂ LẪN MỤC ĐÍCH
3.5.
Xác định chủ thể bị xâm phạm của tội danh chưa chính xác và truy cứu một loại
hành vi vượt quá sự tương xứng với sự kiện thực tế
Trong
dòng chữ được viết ra, có nêu “Đảng cộng sản” là một chủ thể bị đưa vào phản
kháng của bị cáo. Tuy vậy, cần nhấn mạnh rằng, kết cấu tại điều luật 117 yêu cầu
truy tố với các hành vi xâm phạm với chủ thể và khách thể thuộc phạm vi Nhà nước
CHXHCNVN, mà cấu trúc về chủ thể đã được Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội, Luật
Tổ chức chính quyền địa phương đã ấn định, tại đó không bao hàm Đảng cộng sản
Việt Nam như một chủ thể thuộc cấu trúc của điều luật, và do đó sẽ bị tác động
bởi hành vi của bị cáo nếu viện dẫn Điều luật 117. Tại Điều 4 Hiến pháp đã phân
định rõ hai dạng chủ thể này trong chính nó khi khẳng định rằng ĐCSVN là tổ chức
lãnh đạo Nhà nước, và Điều 117 BLHS quy định các hành vi chống Nhà nước
CHXHCNVN. Vấn đề này, một cách chính thức và trong bàn thảo học thuật, trên hệ
thống truyền thông của nhà nước CHXHCNVN, đã đăng tải các bài viết về đúng vấn
đề mà vụ án này đang tiếp tục tranh luận, rằng ĐCS có nên được đưa vào trong
tác động của Điều 117 hay không, bởi hiện nay vấn đề này đang bỏ ngỏ - vấn đề
này phù hợp với chính KLGĐ trong đó nêu rõ ĐCS và nhà nước CHXHCNVN là hai chủ
thể độc lập về tư cách. Do vậy, không thể truy cứu một hành vi không được điều
chỉnh trong một điều luật mà BLHS đã loại trừ nó, hoặc ít nhất đã không bao hàm
chủ thể này trong các khía cạnh thiết kế quy phạm.
Đường
dẫn bài tham luận của Giảng viên Học viện An ninh tại Tapchitoaan.vn
(ngày
30/09/2020, lúc 11:02): https://tapchitoaan.vn/de-xuat-hoan-thien-quy-dinh-cua-bo...
Xét
tiếp theo chuỗi đánh giá bằng chứng này, trong dòng chữ đã được giám định, một
khi loại bỏ chủ thể ĐCS khỏi điều luật mà bị cáo bị cáo buộc, điều vốn rất hiển
nhiên về mặt cấu thành pháp lý, chỉ còn dòng chữ “ĐẢ ĐẢO TÒA ÁN CỘNG SẢN KẾT ÁN
OAN TÔI” – nội dung này trở thành một quan điểm độc lập, được nhìn nhận trong
góc độ pháp lý mà bị cáo đang phải gánh chịu biện pháp trừng phạt của hai bản
án trước đó, cho thấy một tiếng nói kêu oan (giả dụ rằng nếu được xác thực của
bị cáo viết ra), rõ ràng không thể là căn cứ cho bất cứ loại suy diễn nào về việc
chống lại Nhà nước CHXHCNVN, bởi tại đó, bị cáo bày tỏ về nhận thức của mình đối
với các bản án mà bị cáo thấy rằng chúng không đảm bảo sự hợp pháp, điều mà bị
cáo tin tưởng vào nhận định của bản thân rằng các bản án dù có hiệu lực thi
hành vẫn đang là một biểu hiện của sự oan sai trong kết tội đối với chính bị
cáo.
Thêm
nữa, với cùng một biểu ngữ về nội dung hoàn toàn tương tự, ngày 9/9/2023, hai
người gồm bị cáo Trịnh Bá Phương, tù nhân Phan Công Hải, cùng thực hiện đeo biểu
ngữ với dòng chữ phản đối ĐCS để bày tỏ bất bình về việc vi phạm quy chế giam
giữ tại Trại Giam An Điềm từ những người có trách nhiệm - và hai tù nhân này đều
bị kỷ luật theo Quy chế của Trại giam An Điềm. Điều này một lần nữa đồng thuận
và hỗ trợ mạnh mẽ cho căn cứ buộc tội trở nên thiếu cơ sở ngay trong thực tế,
khi cùng một loại hành vi mà một thể nhân lại gánh chịu chế tài bằng hai hình
thức khác nhau. Vì xung đột này, như đã từng thỉnh cầu tới ngài Tổng bí thư
ĐCSVN, và tại phiên toà này, chúng tôi thấy rằng, ngoài vấn đề buộc tội không
thực sự cần thiết với duy nhất một dòng chữ ngắn ngủi vốn chưa từng được biết đến
sự tồn tại trước đó, việc xét xử bị cáo cũng không đảm bảo được cơ sở bằng chứng
và tự mâu thuẫn với sự ứng xử pháp lý trước đó.
Xét
rằng, luật pháp không chỉ mang trong chúng tính chất khoan hồng và sự giáo huấn,
chúng còn cần được nhất quán trong trừng phạt và giới hạn tối đa sự tuỳ nghi
trong viện dẫn và giải thích. Do vậy, thay vì truy cứu trách nhiệm hình sự biểu
ngữ ghi dòng chữ đã được giám định, chỉ nên kỷ luật bị cáo trước các quy định
Quy chế của Trại giam An Điềm trong vấn đề kiểm soát trật tự tại nơi giam giữ.
3.6.
Chưa xác định mục đích “nhằm chống Nhà nước CHXHCNVN” một cách rõ ràng và có
căn cứ
Trong
hồ sơ, không cho thấy tính cụ thể về mục đích chống Nhà nước CHXHCNVN. Các cơ
quan tiến hành tố tụng dựa vào Bản án về tội danh Điều 117 mà bị cáo bị truy cứu
năm 2021 để liên kết và phỏng chiếu gián tiếp mục đích của bị cáo trong vụ án
này là một gán ghép chủ quan, mang trong nó khả năng về sự thiên kiến bất tương
xứng. Không ai bị áp đặt về ý chí, quan điểm, suy nghĩ, và không ai bị truy cứu
hai lần về cùng một hành vi tương ứng. Do đó, không thể sử dụng một suy diễn và
dựa vào khả năng liên hệ của các sự kiện vốn rời rạc và tách biệt trở thành mục
đích trong kết tội tại thời điểm và sự kiện mà nó không phản ánh.
Ngay
cả khi phản đối bản án sơ thẩm và phúc thẩm trước đó với nhận thức mà bị cáo
cho rằng chúng xâm phạm trực tiếp vào quyền lợi chính đáng của mình, điều đó
cũng không bị mở rộng và không được đánh đồng về mục đích chống Nhà nước đối với
bị cáo, trong khi chính bị cáo đã và vẫn đang tiếp tục đề nghị kháng nghị hai bản
án trước theo quy định luật pháp hiện hành. BLTTHS quy định các cơ quan tiến
hành tố tụng cũng như mọi người bị cáo buộc hoặc liên quan đều có quyền kêu oan
trong bất cứ thời điểm hay giai đoạn nào, cả khi các bản án của các cấp xét xử
đã có hiệu lực pháp luật, và quan điểm về sự oan sai này không bị cưỡng bức hoặc
đàn áp về mặt nhận thức, do vậy, nếu bị cáo phản đối Tòa án đã từng xét xử kết
án oan đối với họ bằng một dòng chữ hiển nhiên được chấp thuận về quan điểm mà
không thể bị trừng phạt vì lý do bày tỏ này.
3.7.
Xung đột (chưa tương thích) pháp luật về các chuẩn mực quyền con người với cam
kết của Công ước và các khuyến nghị quốc tế
Chúng
tôi một lần nữa tin tưởng rằng, hoàn toàn chưa đủ căn cứ và cơ sở để đưa ra cáo
buộc đối với Trịnh Bá Phương về hành vi “lén lút làm, tàng trữ tài liệu” là tờ
giấy A3, ghi dòng chữ “ĐẢ ĐẢO ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VI PHẠM NHÂN QUYỀN ĐẢ ĐẢO
TÒA ÁN CỘNG SẢN KẾT ÁN OAN TÔI”. Việc kết tội Trịnh Bá Phương dựa trên tài liệu
không theo đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định là vi phạm những nguyên
tắc cơ bản của BLTTHS (Điều 13, Điều 15, Điều 87), cũng đồng thời vi phạm
nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp (Điều 12, Điều 14, Điều 16, Điều 25 và Điều
120). Tờ giấy trên đó ghi dòng chữ được thu giữ tại buồng giam của bị cáo chỉ
đơn thuần là sự thể hiện quan điểm chính trị thuần túy mà không phải là những
hành vi kích động bạo lực hoặc bạo loạn nhằm hướng đến Nhà nước CHXHCN Việt
Nam.
Tuy
nhiên, để đảm bảo việc giải quyết vụ án cũng như các luận chứng của các luật sư
mang cái nhìn toàn diện và khách quan, chúng tôi cũng nhấn mạnh thêm rằng, những
cáo buộc đối với bị cáo trong vụ án này với duy nhất một tờ giấy ghi dòng chữ
đã nêu (xin không nhắc lại tại đây), trong khung cảnh không phân biệt quan điểm
và tư tưởng chính trị trong đời sống được ghi nhận minh tường trong Hiến pháp,
tỏ ra phù hợp với Điều 14 và Điều 25 của Hiến pháp, đồng thời tương ứng với
tiêu chuẩn đòi hỏi tại Điều 19 Công ước quốc tế về các Quyền dân sự và Chính trị
của LHQ (viết tắt ICCPR, Việt Nam tham gia Công ước năm 1982). Tại Bình luận
chung số 34 về Điều 19: Tự do quan điểm và biểu đạt, đã nhấn mạnh rằng mọi hình
thức quan điểm đều được bảo vệ, bao gồm các quan điểm có bản chất chính trị bao
hàm Chính phủ, các chính khách, Tòa án, các thiết chế quân đội... Việc hình sự
hóa việc duy trì một quan điểm là không phù hợp với khoản 1 Điều 19 của Công ước.
Việc sách nhiễu, đe dọa hay kỳ thị một người, bao gồm việc bắt, giam giữ, truy
tố hay bỏ tù một người vì những lý do những quan điểm họ có thể có là vi phạm
khoản 1, Điều 19. Trên cơ sở đó, chúng ta cần bảo vệ những quyền cơ bản của con
người, của công dân, nếu không chỉ ra được có mối nguy hiểm hoặc sự đe dọa thực
tế và ngay lập tức từ lời nói, hành vi hoặc sự thể hiện khác từ các chủ thể này
tới Nhà nước CHXHCN Việt Nam, thì có thể được xem là việc hạn chế quyền con người
mà thiếu cơ sở pháp lý. Như vậy, có thể thấy nội hàm của Điều 117 đã không
khoanh vùng phạm vi và từ đó dẫn đến những cáo buộc chưa đủ cơ sở pháp lý làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến quyền của công dân.
Trên
cơ sở đó, Liên Hợp Quốc đã đưa ra khuyến nghị (năm 2017) rằng Việt Nam nên loại
bỏ một số điều luật, trong đó có Điều 117, Điều 331 BLHS và Điều 74 BLTTHS, vì
các điều luật còn quá rộng và mơ hồ, không phù hợp với các nghĩa vụ quốc tế về
quyền con người. Tiếp đó, theo Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát chu kỳ IV (ngày
27/9/2024), Việt Nam đã chấp thuận 271/320 khuyến nghị của 133 quốc gia thành
viên của LHQ về vấn đề sửa đổi một số điều của BLHS và Luật An ninh mạng, đồng
thời tăng cường mọi nỗ lực bảo đảm các phương thức và hiệu quả với các quyền tự
do ngôn luận, hội họp và báo chí. Sự tiếp nhận này cho thấy Nhà nước nhìn nhận
cởi mở và tích cực về vấn đề nhân quyền đối với các thực hành đảm bảo thực chất
hơn nữa các quyền cơ bản vốn được ghi nhận trong Hiến pháp này hiện nay. Trong
trường hợp của bị cáo Phương, chủ thể làm/tạo lập ra dòng chữ này, giả dụ rằng
nếu có thể chứng minh, nên bị áp dụng chế tài xử phạt hành chính hoặc nặng hơn
và nghiêm khắc hơn có thể bị điều tra, truy tố và xét xử bởi một tội danh khác,
như “Tội vu khống” (Điều 156 BLHS), bởi đã vu khống các tổ chức Đảng CSVN, nếu
các tổ chức này có yêu cầu truy xét. Ngay như trong chính kết luận tại KLGĐ, tại
đây nêu rõ rằng “có một nội dung biểu thị sự vu khống đối với Tòa án và Đảng
CS”, chúng cho thấy mục đích khác và cụ thể của hành vi, mà không phải nhằm mục
đích chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam như cáo buộc của VKS.
Tại
thời điểm sự việc xảy ra ngày 18/11/2024, Trịnh Bá Phương chỉ ở buồng giam một
mình. Trong một không gian, khoảng không quá nhỏ hẹp, vỏn vẹn chưa đầy 10m2 xét
về diện tích, không được giao tiếp với bất kỳ ai khác, hiển nhiên dòng chữ này
không thể gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia hoặc gây hoang mang, lo lắng làm ảnh
hưởng đến lòng tin của quần chúng nhân dân đối với công cuộc xây dựng CNXH tại
Việt Nam như trong KLGĐ, KLĐT và Cáo trạng đã mô tả. Việc dùng một tài liệu mà
chưa đủ căn cứ xác định có phải do bị cáo làm/tạo ra hay không để cho rằng bị
cáo có mục đích chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam là thiếu khách quan và không đủ
bằng chứng pháp lý.
Với
những luận chứng được phân tích cụ thể, hệ thống và dẫn chiếu đầy đủ các căn cứ
pháp lý nêu trên, chúng tôi kính đề nghị tới VKSND TP.Đà Nẵng xem xét áp dụng
Điều 325 BLTTHS về việc rút toàn bộ quyết định truy tố đối với bị cáo Trịnh Bá
Phương. Trong trường hợp VKS không đồng thuận với chúng tôi về nội dung này,
chúng tôi kính đề nghị tới HĐXX xem xét áp dụng Điều 328 BLTTHS, tuyên bị cáo
không có tội hoặc chuyển sang một tội danh khác phù hợp hơn (nếu HĐXX vẫn giữ
quan điểm cho rằng tài liệu bị thu giữ là của bị cáo Trịnh Bá Phương), trong đó
có thể và ưu tiên áp dụng các biện pháp kỷ luật theo quy chế trại giam mà không
tiến hành mọi hình thức trừng phạt bằng đạo luật hình sự.
Trân
trọng cảm ơn sự lắng nghe từ HĐXX và đại diện VKS!
CÁC
LUẬT SƯ
https://www.facebook.com/photo/?fbid=122225928122174356&set=a.122101847216174356
Trịnh
Bá Phương
.
Thân phận người dân Việt Nam – nhìn vào gia đình Trịnh Bá
Phương – là một nghịch lý cay đắng:
Nông dân đòi công lý thì bị biến thành “tội phạm chính trị”.
Quyền con người bị coi như khẩu hiệu. Pháp luật thành công cụ đàn áp. Gia đình
dân oan nối tiếp nhau vào tù, như lời đe dọa rằng chống bất công thì cái giá là
lao lý. Bi kịch ấy không chỉ của riêng họ, mà phản chiếu số phận chung của người
dân trong một cơ chế coi dân là đối tượng quản lý, chứ không phải chủ nhân đất
nước.
Thân phận của người dân chỉ còn hai chữ “ chịu đựng “
.
Luật sư có giỏi đến đâu thì cũng không thể cứu được thân
chủ vì là án bỏ túi. Tòa án chỉ mở ra cho có thôi vì luật là tao,tao là luật .
Chán không còn gì để nói với nền tư pháp hiện nay của xứ mình .
.
Án bỏ túi rồi. Nếu vì công lý Việt Nam thì toà đã cho
công khai khi đại diện ngoại giao các nước đến được tham dự. Còn đây thì đâu cần
chứng cứ hay luật sư bào chữa
.
Với những điểu như ls nêu thì toà, vks, cqđt đã vứt bỏ
vai trò của ls để xông vào hành hung một tù nhân, còn gì để để nói nữa mà cứ
leo lẻo cái mồm “vn kog có tù nhân lương tâm, kog có oan sai…??? Đmcs!
No comments:
Post a Comment