Nguyễn
Thông
(Nguyễn
Thông Cào)
Trẻ
con học sinh các trường ngoài phố chia nhau sơ tán về thôn quê thì các thầy cô
cũng về theo. Tôi nhớ hồi học cấp 1, trường làng tôi có vợ chồng thầy Sơn cô
Quý ở khu Sở Dầu, Thượng Lý chuyển về. Thầy Sơn trán hói, kính cận, còn cô Quý
tóc phi dê đúng kiểu phụ nữ nội thành. Thầy cô có hai đứa con trai tên Hà,
Giang, chúng sạch sẽ, dễ thương, quần áo lúc nào cũng lành lặn. Cuối năm 1968,
Mỹ ngưng ném bom, thầy cô lại chuyển về phố. Trong trận bom tối 16.4.1972 máy
bay B52 rải thảm khu Sở Dầu, Thượng Lý, nhà thầy trúng bom, cả thầy cô và một
trong hai con đều chết. Tôi không nhớ người thoát chết là Giang hay Hà. Mỹ đánh
trở lại đột ngột quá, thầy cô và mọi người không kịp sơ tán như lần trước. Đêm ấy,
làng Phúc Lộc xã Hưng Đạo cạnh trận địa pháo sát chân cầu Niệm bị chết hơn 6 chục
người. Thương lắm.
Năm
1966, đám chúng tôi lên lớp 5, trường cấp 2. Trường cũng có mấy thầy cô sơ tán.
Cô Oanh hiệu trưởng, tóc ngắn, xinh đẹp. Cô Cúc người miền Nam tập kết, dạy địa,
về trường đem theo cả hai đứa con sinh đôi. Cô hiền hậu, nói giọng Nam nghe rất
lạ bởi hồi ấy bọn nông thôn ít khi được tiếp xúc với người miền Nam.
Nhân
chuyện này, tôi kể thêm ngoài lề: Năm 1988, tôi cho thằng cu con về quê chơi với
ông bà nội và gia đình. Thằng bé 4 tuổi cứ thích ra chỗ bà nội ở quầy bán tạp
hóa đầu hồi sát đường, ngó nghiêng chỗ này chỗ khác, rồi bi bô đủ thứ chuyện. Một
đám học trò cấp 1 người làng Quế ngang qua, ghé vào mua kẹo bột, 1 hào 1 cái.
Nghe thằng con tôi bi bô, chúng nó nháy nhau thì thào, tôi ngồi phía trong nghe
được. Chúng bảo, đ. mẹ, nó bé tí thế kia mà đã nói được tiếng miền Nam, chúng
mày ạ. Bọn hắn ngó thằng bé như người trên giời rơi xuống.
Mẹ
con cô Cúc và cô Oanh ở trong căn nhà tường đất mái rạ gần gốc nhãn cổ thụ mấy
trăm năm, phía sau trường học (vốn là hậu cung của đình làng). Chia làm đôi, cô
Oanh hiệu trưởng nên được một nửa, ba mẹ con cô Cúc một nửa, gọi là phòng ở
nhưng chỉ gần chục mét vuông. Thế cũng tươm lắm rồi. Chúng tôi thỉnh thoảng ghé
chơi, đùa nghịch, bế hai đứa sinh đôi cho cô rảnh lo cơm nước giặt giũ. Khi bộ
đội tên lửa về lập trận địa ở thôn Trà Phương, trường cấp 2 phải sơ tán sang
thôn Phương Đôi cùng xã, lớp 5 của tôi cũng kéo qua đó, còn lớp 6 và 7 được ưu
tiên sơ tán về khu thành phủ cũ, gần chùa Mục Đồng. Xã làm một lớp học sâu dưới
đất, chỉ nhô mái phía trên, còn ra vào lớp bằng hào giao thông. Cô Cúc, cô
Oanh, các thầy cô ai có xe đạp thì đi xe đạp, phần lớn đều đi bộ hơn cây số. Học
trò thì trăm phần trăm “xe căng hải” (xe hai cẳng).
Có
hôm đang giờ môn địa lý của cô Cúc, báo động. Thầy trò theo lối hào tỏa ra các
hầm chữ A và hố cá nhân (có thụt/nùn rơm đậy lại). Pháo cao xạ nổ đì đùng, mảnh
đạn phạt bờ tre nhà chị Hiền phó chủ tịch xã rào rào. Báo yên, kéo nhau về lớp.
Thằng Hồ Văn Sử dân sơ tán kêu toáng lên giơ bàn tay đầy máu. Hóa ra nó quệt phải
một mảnh đạn cao xạ sắc như dao cắm phập vào thụt rơm của nó. Ai cũng nói suýt
chết, thằng này cao số. Giờ già rồi, không biết bạn Sử còn hay mất.
Tôi
có kỷ niệm với cô giáo miền Nam. Hôm ấy mải đánh dậm tuốt tận đầm thôn Tú Đôi
xã bên, tôi về muộn, chưa kịp ăn cơm đã tới giờ đi học. Đường sang lớp sơ tán
khá xa. Nhưng kẹt nhất là 2 chiếc quần dài cũ vải xanh chéo Nam Định thường bộ
nghiêm bộ nghỉ thì hôm ấy cả hai đều đang phơi, còn ướt sũng. Giá anh trai tôi ở
nhà thì có thể mượn được quần, nhưng anh ấy đang học lớp 8 trường huyện (cả huyện
chỉ có một trường cấp 3), sơ tán tuốt xã Tân Phong gần biển. Quần của thày tôi
loại quần nâu lá tọa nên không mặc được.
Khi
cô Lưu hội phụ nữ đi quyên góp quần áo cũ và giẻ rách để cho bộ đội trận địa
làm giẻ lau đạn, nhà tôi chả đóng góp được gì. Quần áo cũ, rách cả, nhưng góp
thì lấy gì mà mặc. Bu tôi một mảnh vải bằng bàn tay cũng cất đi để phòng khi cần
vá chỗ rách. Lại nhớ mấy bà chè chai đồng nát hằng ngày quẩy đôi quang gánh lần
mò từng đường làng ngõ xóm rao “Ai lông ngan lông vịt, đồng nát, tóc rối, dép
nhựa rách, giẻ rách bán không”. Đúng cái câu mà sau này đám tôi được học “Cả
dân tộc đói nghèo trong rơm rạ” suốt mấy chục năm trời.
Tiếc
buổi học, tôi đánh liều “diện” quần đùi tới lớp. Đã thế, lại đi muộn, thằng bé
cứ thập thò ngách hào giao thông, không dám vào. Cô Cúc nhìn thấy, ra kéo vào.
Tan buổi học, đương sự ba chân bốn cẳng ôm vội cặp sách vọt biến. “Vụ án quần
đùi” khiến tôi ngượng suốt mấy tuần. Sau 1972 hòa bình, tôi nghe cô Oanh, cô
Cúc đã về lại phố, rồi 1975 cô Cúc về Nam, chả bao giờ được gặp lại cô và hai
thằng sinh đôi nữa. (còn tiếp)
*****
Nguyễn Thông (Nguyễn Thông Cào)
Cuộc
sơ tán dân từ thành thị về nông thôn cuối năm 1964 đầu năm 1965 đã làm
thay đổi khá nhiều cuộc sống nông thôn miền Bắc. Điều được nhà thơ
Tố Hữu gọi là "dập dìu hợp tác", "sớm trưa tiếng
trống đi về trong thôn", "nông thôn có máy làm trâu thay
người" chỉ có trong thơ ca, trong sự tưởng tượng của thi sĩ thôi,
chứ nông thôn miền Bắc từ ngày giải phóng thật nghèo nàn buồn bã
ảm đạm, sau chút náo nức ban đầu. Cứ tầm gà lên chuồng là tất cả
chìm vào yên ắng, màn đêm. Dầu hỏa là mặt hàng phân phối, mỗi hộ
chỉ được mua 1 lít/tháng, thậm chí cả bao diêm vài chục que cũng phân
phối nên thường có chuyện sang hàng xóm "xin lửa". Độ 9 - 10
giờ tối là tắt đèn để tiết kiệm dầu. Gần như người ta rút hết vào
nhà, đường làng vắng tanh, ít tiếng nói cười. Điều này tôi biết
chắc chắn và chính xác hơn các nhà thơ, hơn Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế
Lan Viên vốn chỉ "khép cửa phòng văn hì hục viết".
Có
dân phố về, vui hẳn. Ít ra họ cũng là "tầng lớp trên" hiểu
biết rộng, nhiều, thông thạo sự đời, có văn hóa cao, kinh tế khá hơn,
tiền bạc "rủng rỉnh" hơn người bản địa. Quần áo sặc sỡ
nhiều màu hơn, nhiều kiểu hơn chứ không như đại chúng nâu sồng hoặc
đen. Khi ấy tôi đã gần lên 10, từng tặc lưỡi sao các anh chị ấy nhiều
kiểu quần tây sơ mi đẹp thế. Lần đầu tiên tôi biết vải kaki trong khi
mình chỉ xanh chéo Nam Định là hết mức. Nhiều chị mặc phin nõn,
valide. Các anh để tóc đít vịt, áo chim cò. Nhiều bác nhiều chị tóc
phi dê. Ai cũng guốc dép đi hằng ngày, nhiều người còn diện giày.
Vài anh có cả dép nhựa Tiền phong trắng quai hậu, chí ít cũng dép
nhựa Tái sinh. Hầu hết họ đều biết đàn hát, bọn trẻ con thì thạo
nhiều trò chơi, nhất là chơi bi, súng bắn diêm, nuôi cá cảnh, đánh tú
lơ khơ. Chúng khác hẳn đám tôi chỉ chơi khăng chơi đáo, bật tường ăn
diêm, đánh trận giả. Chúng văn minh hiện đại hơn hẳn, phục lăn.
Tối
tối, các bác anh chị và đám cùng tuổi tôi thắp đèn ngồi trò chuyện
râm ran, các bà các chị đan len, nhào bột mì rán ăn tối. Hình như
người thành phố đã quen ăn kiểu công nghiệp, có đủ bữa sáng, bữa
trưa, bữa chiều, bữa tối (lót dạ trước khi đi ngủ), không như nông dân
chỉ 2 bữa chính là sáng (6 giờ) và chiều (2 giờ), tối nhịn, ôm bụng
đói đi ngủ. Người phố, dù phải đi sơ tán, vẫn có cuộc sống mà nông
dân mơ ước. Thày tôi bảo, nhưng bà con phải bỏ nhà bỏ cửa đi sơ tán
thế này là tội lắm rồi, nên chả đứa nào tị nạnh.
Đoàn
dân phố sơ tán đầu tiên về làng Trà Phương tôi đông nhất khoảng tháng
9.1964. Khi ấy tôi bắt đầu vào lớp 4, lớp cuối cùng của cấp 1. Nhà
tôi đón người chị họ và các cháu con chị cùng về, có cả cặp sinh
đôi chưa đầy năm, vui lắm. Hôm sau, tôi vào trong làng coi HTX tổ chức
đón một đoàn được sắp xếp cư ngụ xóm trong, tập trung ở sân HTX Thụy
Sơn. Trong số ấy, có nhiều bạn sẽ học với lứa chúng tôi suốt mấy
năm ròng, từ lớp 4 tới hết lớp 7. Vẫn còn nhớ cả khuôn mặt, dáng
vẻ, nụ cười của các bạn phố, những Nguyễn Ngọc Châm, Hoàng Liên
Hợp, Hoàng Liên Thái (2 Hoàng này là chị em ruột), Nguyễn Thanh Thủy,
Hồ Văn Sử, Trần Đức Hậu, Phạm Ngọc Linh, Nguyễn Văn Bình, Trần Hùng,
Dương Thế Hùng... Họ đều xinh đẹp, trắng trẻo, hoạt bát hơn bọn trẻ
nông dân chúng tôi nhiều. Chị Hợp còn khoác theo cây đàn ghi ta, rất
điệu. (còn tiếp)
Nguyễn
Thông
.
***
Nguyễn Thông cùng với Nguyễn Thông Cào.
Sơ
tán là từ rất quen nghe thời chiến tranh trước năm 1975. Khi Mỹ dùng
máy bay đánh phá miền Bắc, được "bên thắng cuộc" gọi là
"cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ" thì từ "sơ
tán" vốn phổ biến hồi chống Pháp lại được nhắc hằng ngày. Tôi
ở nông thôn, nơi máy bay Mỹ ít để ý, không phải đi sơ tán, nhưng tận
mắt chứng kiến hai cuộc sơ tán vĩ đại của người thành phố về nông
thôn. Lần thứ nhất vào tháng 8.1964, lần nhì vào tháng 4.1972. Lần 1
kéo dài 5 năm, lần 2 chỉ nhỉnh hơn 8 tháng. Chừng ấy thời gian cũng
đủ trát vào ký ức bao nhiêu cảnh đời, con người, số phận, đủ cả vui
buồn.
Hồi
còn bé, tôi nghe thày bu kể, khi Pháp còn chiếm đóng Hải Phòng,
nhiều gia đình nông dân dù ở nông thôn cũng phải tản cư, chuyển từ
vùng tạm chiếm sang huyện Vĩnh Bảo hoặc tỉnh Thái Bình là vùng tự
do để sinh sống. Thời đó, người ta dùng từ tản cư (tản là di chuyển,
tỏa ra, dời đi; cư là ở, cư trú; tản cư là chuyển dời đến chỗ khác
để cư trú, sinh sống), cũng có nghĩa như từ di cư, di tản sau này. Sau
khi tản cư, nếu cuộc sống bình thường trở lại thì trở về chốn cũ,
gọi là hồi cư.
Sơ
tán, theo giải nghĩa của từ điển Việt, là di chuyển người hoặc của
cải từ nơi này tới nơi khác để tránh thiên tai hoặc chiến tranh. Từ
Hán Việt, sơ là sự phân tán, chia ra; tán là chia ra, tan ra, rời ra.
Chia nhỏ đám đông về nhiều nơi gọi là sơ tán. Thời chống Mỹ ở miền
Bắc, có hẳn một bộ phận dân chúng được gọi là "dân sơ
tán". Những người này chủ yếu ở thành thị, nhất là những đô
thị lớn, trọng điểm, dễ bị bom như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, kéo
nhau về nông thôn tạm sinh sống, làm ăn, chờ chiến tranh chấm dứt. Ban
đầu họ hy vọng chả mấy lại được về phố. Năm 1966, khi ông Hồ ra lời
kêu gọi toàn quốc chống Mỹ, có câu "chiến tranh có thể kéo dài
5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, Hà Nội, Hải Phòng và các thành
phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá" thì hầu hết thất vọng,
không còn nghĩ tới chuyện về. Có người ở lại nông thôn, lấy trai
làng gái làng, mãi về sau mới hồi cư phố.
Ngày
5.8.1964, Mỹ bắt đầu cho máy bay, từ miền Nam ra, hoặc từ hạm đội 7
vào, ném bom Hồng Gai (Quảng Ninh), Lạch Trường (Thanh Hóa), Bến Thủy
(Nghệ An), Đồng Hới (Quảng Bình), những chỗ có bộ đội hải quân, để
trả thù vụ tàu Maddox. Vài ngày sau, chính quyền ráo riết đốc thúc
nhân dân các thành thị sơ tán về nông thôn, dù chưa bị máy bay Mỹ oanh
tạc. Hải Phòng quê tôi trọng tâm của bom bởi thành phố này là đầu
mối nhận hàng hóa, vũ khí từ phe anh em môi răng. Dân chúng phải sơ
tán triệt để, chỉ trừ những người ở lại trực chiến hoặc bám cơ sở
công nghiệp không thể bỏ, như cảng, nhà máy điện, nhà máy nước.
Nguyên tắc chung là, ai có họ hàng, bà con ở nông thôn, xã nào huyện
nào thì về nhà người thân, còn không cũng cứ về rồi chính quyền
xã, hợp tác xã sắp xếp ở từng gia đình. Thì xưa nay dân phố vốn từ
nông thôn mà ra. Công nhận dân mình, nông dân mình tốt thật, chả máu
mủ ruột rà gì vẫn vui vẻ đón tiếp, tận tình nhường nhà cửa, thu
xếp chỗ ăn chỗ ở cho bà con ngoài phố. Gần như không có sự xa lạ,
lạnh lùng. Một thời hiếm có về tình người.
Phải
công nhận các nhạc sĩ rất nhanh nhảu "đi vào cuộc sống". Tôi
còn nhớ, lúc ấy đang học cấp 1 (tương đương tiểu học bây giờ), dân sơ
tán thậm chí còn chưa thu xếp ổn hẳn, trên đài đã vang lên bài hát
"Về đồng quê" động viên lũ trẻ thành phố. Nghe riết, thuộc,
rồi nghêu ngao "Về đồng quê em vui chơi học hành/Giúp đỡ gia đình
cô bác bà con/Về đông quê em đào mương chống Mỹ/Phân bón gây thật
nhiều cho đồng lúa xanh tươi/Lúa lúa ơi, em yêu cây lúa/Lúa nuôi anh bộ
đội diệt quân Mỹ xâm lăng/Về đồng quê em chăm học chăm làm/Chăm chỉ
luyện rèn để xứng đáng là trò ngoan"..., hoặc bài hát nổi
tiếng một thời "Bé bé bằng bông": "Hai má hồng
hồng/Cháu đi sơ tán bế em đi cùng/Mẹ mua xe gỗ/Cho bé ngồi trong/Bao
giờ chiến thắng em đưa bé về phố đông" (bài này, mấy đứa lếu
láo hát chế thành "Bé bé bằng bông/Hai mà bằng đồng/Hai chân
bằng sắt/Hai tay bằng chì/Mẹ mua bè chuối/Cho bé tập bơi/Bao giờ
chết đuối em đưa bé về áo quan"). (còn tiếp)
.
No comments:
Post a Comment