2
THÁNG BA, 2017
Bernard Fall và lính
Biệt Động Quân Nam-Việt
Trong
bản dịch Điện
Biên Phủ Một Góc Địa Ngục của Vũ Trấn Thủ, Nxb Công An Nhân dân 2004, Hữu
Mai, là người ghi lại hồi ức của Võ Nguyên Giáp, viết:
‘‘Nhân
dịp kỷ niệm 50 chiến thắng Điện Biên Phủ, « Điện Biên Phủ – Một góc địa ngục của
Bernard Fall » đã đến với người đọc Việt Nam. Tôi coi đây là một công trình
trung thực, đầy đủ nhất của phương Tây viết về Điện Biên Phủ. Cuốn sách sẽ giúp
cho người đọc thấy và hiểu được hầu như mọi diễn biến, con người ở phía bên
kia, một sự bổ sung tuyệt vời cho những cuốn sách của chúng ta về Điện Biên Phủ.
Tôi nghĩ đây cũng là dịp để bày tỏ lòng biết ơn một người đã đứng bên chúng ta
trong suốt cuộc trường chinh giành tự do, đã ngã xuống trên chiến trường như một
chiến sĩ, mà chúng ta chỉ biết tới một cách muộn màng, đó là nhà báo, nhà sử học,
người anh hùng Bernard Fall. Tôi cũng nghĩ đây là lời cảm ơn chân thành gửi tới
chị Dorothy Fall, người đã luôn luôn là trợ thủ đắc lực của chồng trong cuộc đấu
tranh, người đã không ngừng gắn bó với Việt Nam.’’ (MGĐN, trang 14, sđd)
Hữu
Mai bầy tỏ lòng tri ân của dân Việt mà ấn bản Việt ngữ từ bản Pháp văn Un Coin
d’Enfer [1] của Michel Carrière là lời cảm ơn chân thành gửi đến quả phụ
Dorothy Fall. Một Dorothy mà Bernard Fall đã âu yếm ghi lên nền địa ngục: «Tặng
Dorothy đã sống ba năm dài cùng những bóng ma Điện Biên.» (À
Dorothy qui vécut trois longues années en compagnie des fantômes de Dien Bien
Phu). Một Dorothy đã hy sinh trong cô độc, trong âm thầm lặng lẽ
nuôi con, cho chồng sang Việt Nam khảo sát chiến tranh rồi cán mìn nổ tan xác.
Lời
cảm ơn chân thành này ra sao?
• Un Coin d’Enfer, trang 207, Bernard
Fall viết: ‘‘Về phía Việt Minh,
họ cũng phải trả giá đắt cho trận đồi « Gabrielle ». Theo ước tính của
các phi công quan sát Pháp, kẻ thù phải thiệt hại trên 1000 tử thương và có thể
từ 2000 đến 3000 bị thương, và các tổn thất này thuộc một số đơn vị thiện chiến
nhất của đối phương. Qua kiểm thính điện đài của địch, Giáp đang phải khẩn
cấp lấp đầy những lỗ hổng binh sĩ trong các đơn vị…’’ (Du côté du Vietminh, la
bataille pour « Gabrielle » a aussi coûté cher. Selon les estimations
des observateurs aériens français, l’ennemi a perdu vraisemblablement plus de
1000 tués et a eu peut être de 2000 à 3000 blessés, et cela dans certaines des
meilleures unités qu’il possède. D’après les écoutes françaises du trafic
radio ennemi, Giap a besoin de combler d’urgence les vides creusés dans ses
rangs…)
Bản
Việt ngữ của Vũ Trấn Thủ, trang 329: ‘‘Về phía Việt Minh,
họ cũng phải trả giá đắt cho trận « Gabrielle ». Qua theo dõi điện đài của địch,
người ta thấy Giáp đang phải gấp rút lấp lại những lỗ hổng trong các đơn vị…’’
Không
dịch: «
Theo ước tính của các phi công quan sát Pháp, kẻ thù phải thiệt hại trên 1000 tử
thương và có thể từ 2000 đến 3000 bị thương, và các tổn thất này thuộc một số
đơn vị thiện chiến nhất của đối phương. »
• Un Coin d’Enfer, trang 244, Bernard
Fall viết: ‘‘Hai chiến xa hư hại
nhẹ vì đạn rốc-kết, nhưng đến 15 giờ khi trận ấu đả kết thúc, lính nhảy dù đứng
trước một cảnh tượng phi thường. Kẻ thù tháo lui trong hỗn loạn và
các đơn vị Pháp làm chủ trận địa. Thêm nữa thi thể của 400 xác Việt
Minh nằm đầy mặt đất. Hai đại bác 57 ly, 5 đại liên cao xạ 12 ly 7, 2 trọng
liên 12 ly 7 khác, 2 súng phóng rốc-kết, 14 trung liên và hơn 1000 vũ khí cá
nhân còn nguyên vẹn rơi vào tay quân nhảy dù.’’(Deux des chars sont
légèrement endommagés par des roquettes, mais à 15 heures, la bagarre terminée,
les parachutistes se trouvent devant un spectacle étonnant. L’ennemi se
repli en désordre et les français sont maitres du champ de bataille.
Par ailleurs les corps de 400 Vietminh jonchent le sol. Deux canons
de 57, 5 mitrailleuses de 12,7 armes antiaériennes, 2 autres mitrailleuses de
12,7, 2 lance-roquettes, 14 FM et plus de 1000 armes individuelles tombent
intacts entre les mains des parachutistes.)
Bản
Việt ngữ của Vũ Trấn Thủ, trang 387: ‘‘Hai chiến xa bị đạn
rocket địch bắn hư hại nhẹ nhưng đến 15 g, khi trận ấu đả đã kết thúc, quân
Pháp đã làm chủ trận địa thu được 2 khẩu pháo cao xạ 57 ly, 5 khẩu trọng liên
cao xạ 12,7 ly, 2 khẩu trọng liên 12,7 ly khác, 2 súng rocket, 14 trung liên và
hơn 1000 vũ khí cá nhân khác.’’
Không
dịch:
« Kẻ thù tháo lui trong hỗn loạn », « thi thể của 400 xác Việt Minh nằm đầy mặt
đất » và « còn nguyên vẹn rơi vào tay quân nhảy dù. »
• Un Coin d’Enfer, trang 254, Bernard
Fall viết: ‘‘Vì sư đoàn 312 đã
áp sát quân Pháp, pháo binh Việt Minh không thể yểm trợ. Các lượn sóng tấn công
ngừng lại rồi thối lui. Hai đại liên 4 nòng từ « Épervier » bắt đầu khai hỏa và
làm nên tấm màn 8 vạch lửa tử thần trên sườn cứ điểm. Các lượn sóng bộ binh kẻ
thù chao đảo, rồi tìm chỗ trú ẩn trong lũng đất hẹp dài phía sau « Dominique 6
». Trong kinh hoảng bộ đội nhảy thẳng xuống rãnh mương rộng và sâu mà
Langlais đã cho cài mìn sẵn hai hôm trước. 200 xác bộ đội chồng chất.
Trong lúc « Dominique » chặn đợt tiến công nhắm vào căn cứ, thì « Éliane » phải
đương đầu với cuộc tấn công dữ dội của đại bộ phận sư đoàn 316.’’ (La 312e division
étant au contact, son artillerie ne peut l’appuyer. Les vagues d’assaut
s’arrêtent puis refluent. Les quadruplées d’« Épervier » ouvrent alors le feu
et font pleuvoir huits gerbes étincelantes de balles terriblement meurtrières
sur les pentes du point d’appui. Les vagues d’infanterie ennemie flottent, puis
tentent de trouver un abri dans l’étroite vallée qui s’étend derrière «
Dominique 6 ». Dans leur panique elles se jettent tout droit dans un
large et profond fossé que Langlais a fait miner deux jours plus tôt. 200
cadavres s’y entassent. Tandis que « Dominique » contenait l’assaut lancé
contre lui, « Éliane » avait à soutenir une violente attaque du gros de la 316e division.)
Bản
Việt ngữ của Vũ Trấn Thủ, trang 404: ‘‘Đại đoàn 312 đang
đánh giáp chiến cho nên pháo binh địch không thể yểm trợ được. Các đợt xung
phong của nó dừng lại rồi lùi. Hai khẩu trọng liên bốn nòng ở « Épervier » liền
xả súng bắn như đổ đạn vào các sườn điểm tựa. Các làn sóng bộ binh địch bối rối,
rồi tìm chỗ ẩn dưới cái thung lũng nhỏ đằng sau « Dominique 6 ». Trong khi «
Dominique » cố chặn cuộc xung phong đánh vào mình, thì « Éliane » phải chống đỡ
cuộc tấn công dữ dội của đại bộ phận đại đoàn 316.’’
Không
dịch:
« Trong kinh hoảng bộ đội nhảy thẳng xuống rãnh mương rộng và sâu mà Langlais
đã cho cài mìn sẵn hai hôm trước. 200 xác bộ đội chồng chất ».
• Un Coin d’Enfer, trang 277, Bernard
Fall viết: ‘‘Ngọn đồi nồng nặc
xú uế kinh khủng của hơn 1500 xác Việt Minh và 300 xác lính Pháp đang
thối rữa dưới nắng.’’ (La colline empeste de l’atroce odeur des quelque
1500 cadavres ennemis et des 300 cadavres français qui y pourrissent
au soleil.)
Bản
Việt ngữ của Vũ Trấn Thủ, trang 443: ‘‘Ngọn đồi nồng nặc uế
khí kinh khủng của hơn 1000 xác quân Việt Minh và xác quân Pháp đang tan rữa dưới
ánh mặt trời.’’
Biên
tập:
« 1000 xác quân Việt Minh và xác quân Pháp » thay vì « 1500 xác Việt Minh và
300 xác lính Pháp ».
• Un Coin d’Enfer, trang 280, Bernard
Fall viết: ‘‘Khó hình dung làm
cách nào 160 binh sĩ nhảy dù có thể tấn công 3000 bộ đội mà đối phương ném vào
trận đánh. Thêm nữa, vào lúc 7 giờ, khi quân dù chạm tuyến, Việt Minh tăng cường
thêm một tiểu đoàn thứ tư — tiểu đoàn 14 của trung đoàn 165 — vào trận phản
kích quyết liệt cuối cùng. Nhưng đối phương đã chần chừ quá lâu. Trời
sáng và bộ đội bị pháo binh Pháp dập nát. Lúc 8g30, khi Việt Minh bắt đầu
thối lui, những khu trục cơ oanh kích Pháp xuất hiện… […] Cuối cùng lúc 10g15,
sau tái chiếm Huguette 6, đại úy Clédic và các sĩ quan nhìn chiến trường xung
quanh. 800 xác Việt Minh, mà phần lớn là các thiếu niên 16 tuổi và
nhỏ hơn, chồng chất bên trong các công sự tan hoang của cứ điểm. Các sĩ
quan Pháp đếm được 300 xác khác trên rào kẽm gai và trong bãi mìn vây quanh vị
trí: khi tháo lui, Việt Minh đã phải mang theo số thương vong tương đương. 21
tù binh sống sót, tất cả đều còn rất trẻ và run rẩy vì chấn động, được tìm thấy
giữa các xác chết và đưa về trại tù binh..’’ (On a du mal à les imaginer
attaquant, avec leurs 160 hommes les 3000 bo doi jetés dans la bataille par le
camps adverse. De plus, au moment où elles arrivent à 7 heurs, l’ennemi engage
un quatrième bataillon — 14/165 — dans une dernière et furieuse contre-attaque.
Mais il a trop attendu. Il fait jour et il se fait hacher par les feux
de l’artillerie française. À 8h30, alors que l’ennemi commence à
reculer, les premiers chasseurs bombardiers français font leur apparition […] À
10h15, enfin maître d’Huguette 6, Clédic et les autres officiers
contemplent le champ de bataille autour d’eux. 800 cadavres vietminh,
dont un grand nombre de jeunes gens de seize ans et moins, s’entassent à
l’intérieur des ouvrages dévastés du point d’appui. Ils en comptent 300
autres dans les barbelés et les champs de mines qui entourent la position: en
se retirant, l’ennemi a bien du en enlever autant. Vingt et un
survivant, tous très jeunes et tremblants de saisissement, sont découverts
parmi les cadavres et envoyés au camp de prisoniers…)
Bản
Việt ngữ của Vũ Trấn Thủ, trang 449 và 450: ‘‘Người ta cũng
khó có thể tưởng tượng được làm sao mà 160 người có thể tấn công được 3000 bộ đội
phía địch đã ném vào trận đánh. Thêm vào đó, khi họ tới vào lúc 7 giờ, quân địch
đưa thêm một tiểu đoàn thứ tư — tiểu đoàn 14 trung đoàn 165 — vào một trận
phản kích cuối cùng và quyết liệt. Nhưng quân địch đã chần chừ quá lâu. Trời đã
sáng và vào lúc 8 giờ 30, khi Việt Minh bắt đầu lùi thì những máy bay tiêm kích
ném bom Pháp xuất hiện […] Cuối cùng, đến 10 giờ 15, đã làm chủ « Huguette 6 »,
Clédic và các sĩ quan khác đứng ngắm nhìn chiến trường xung quanh mình: hàng
trăm xác quân Việt Minh, phần lớn là thanh niên khoảng 16 tuổi, chồng chất lên
nhau trong những công sự tan hoang của điểm tựa. 21 người còn sống sót, tất cả
đều rất trẻ và run rẩy vì kinh ngạc, được tìm thấy lẫn trong các xác chết và
đưa về trại tù binh..’’
Không
dịch:
« Trời sáng và bộ đội bị pháo binh Pháp dập nát. [..] Các sĩ quan Pháp đếm được
300 xác khác trên rào kẽm gai và trong bãi mìn vây quanh vị trí: khi tháo lui,
Việt Minh đã phải mang theo số thương vong tương đương. » Biên tập : « 800 xác
Việt Minh » thành « hàng trăm xác quân Việt Minh ».
Trong
chiến tranh Việt-Pháp xuất hiện một thuật ngữ « PIM » mang nghĩa Personnel
Interné Militaire (Nhân công quản thúc của quân đội), nhiều sách viết
Prisonniers d’Intérêt Militaire (Tù binh ích lợi quân sự). Trên thực tế, là những
lính Việt Minh bị bắt tại mặt trận, sau thẩm cung xác nhận không phải đảng viên
Cộng sản nguy hiểm, có thể chọn hoặc về trại giam, hoặc làm lao công chiến trường
để sau một thời gian được xem là quy chánh. Khá đông làm công tác thu lượm đạn
dược, thực phẩm thả dù tại Điện Biên Phủ. Hầu hết đều tận tụy và trung thành,
ngay cả sau khi De Castries đầu hàng. Chi tiết này nói lên cách đối xử của các
sĩ quan Pháp.
• Un Coin d’Enfer, trang 315, Bernard
Fall viết: ‘‘Việt Minh thề sẽ xử
như tội phạm chiến tranh những sĩ quan Pháp đã chỉ huy các đơn vị thân binh
Thái, Chiến đoàn Đặc nhiệm Lưu động (GMI), lực lượng đặc biệt và tất cả những
ai đã trông coi tù binh. Hàng trăm PIM biết mặt trung úy Patrico và khá nhiều
biết tên. Không một ai tố cáo. Giống như trường hợp tiểu đoàn phó của thiếu tá
Clémençon, là thiếu tá Coldeboeuf mà tên trên khai sanh (Cổ Bò) miêu tả hoàn hảo
vóc dáng, cũng đã từng trông coi một liên toán PIM đông đúc. Khi đến phiên
Coldeboeuf, với hai tay bị trói sau lưng bằng giây điện thoại, rời khỏi trung
tâm đề kháng sau trận đánh, sự tình cờ khiến Coldebeuf đi ngang trước hàng PIM
của chính phân đội tù binh mà Coldeboeuf từng cai quản, đang ngồi ven đường chờ
xe vận tải đưa họ đi. Từng người một, các PIM đứng lên chào Coldeboeuf. Một
người trong đám, biết tiếng Pháp, nói: « Mong thiếu tá may mắn. » Họ sẽ bị các
đồng chí giải phóng họ, xô đạp. Không ai biết cách Việt Minh sẽ xử lý các cựu
binh bị Pháp bắt này ra sao. Có thể Việt Minh sẽ xử họ như cách Liên-Xô sau năm
1945 đã xử các lính Nga từng bị Đức bắt, như một lũ hèn mạt đã đào ngũ. Nhưng
vào giữa tháng 4-1954, các PIM còn phải chịu đựng gian nan cùng cực của trận chiến
vào giai đoạn cuối, và phải thực hiện nhiệm vụ gay go tiếp tế cho « Huguette 6
»… ’’ (Le Vietminh a juré de juger comme criminels de guerre les officiers
français qui auront travaillé avec les unités de partisans Thaïs, les
G.M.I, les services spéciaux et aussi tous ceux qui auront fait partie de la
garde du camp de prisonniers. Des centaines de P.I.M connaissent le lieutenant
Patrico de vue et un bon nombre de nom également. Aucun ne le dénoncera. Comme
adjoint du commandant Clémençon, le commandant Coldeboeuf, dont le nom décrit
parfaitement la carrure et la taille, a lui aussi commandé un important
détachement de P.I.M. Lorsque, à son tour, les mains liées derrière le dos avec
des fils téléphoniques, il quittera le camp après la bataille, le hasard fera
qu’il passera devant son propre détachement qui attend sur le bord du chemin
les camions qui l’emporteront. Un par un, les P.I.M se lèveront pour le
saluer. L’un d’eux qui parle le français, lui dira même: « Bonne
chance, mon commandant.» Ils seront écartés à coup de pied par leurs
libérateurs. On ignore presque tout du traitement que réservera le Vietminh à
ces prisonniers à leur retour. Peut-être les traita-t-il comme l’U.R.S.S traita
les siens en 1945, comme des lâches et des déserteurs. Mais, à la mi-avril
1954, il reste encore aux P.I.M, à subir le calvaire de la fin de la bataille
et à accomplir la dure tâche du ravitaillement d’ « Hughuette 6 » …)
Bản
Việt ngữ của Vũ Trấn Thủ, trang 504: ‘‘Việt Minh tuyên bố sẽ xử là tội
phạm chiến tranh những sĩ quan Pháp chỉ huy các đơn vị du kích Thái, các đội đặc
nhiệm và cả những người thuộc bộ phận canh gác trại tù binh. Hàng trăm P.I.M biết
mặt trung úy Patrico, và cũng rất nhiều người biết tên. Vậy mà không có ai tố
giác ông ta cả. Là phó của thiếu tá Clémençon, thiếu tá Coldebeuf (nghĩa là Cổ
Bò – N.D.) – tên đó cũng tỏ rõ ông ta là dạng cổ cày vai bừa như thế nào – cũng
chỉ huy một bộ phận quan trọng P.I.M.. Khi đến lượt ông ta rời Điện Biên Phủ
sau trận đánh, hai tay trói giật sau lưng băng dây điện thoại, thì ngẫu nhiên
được dẫn qua chính bộ phận tù binh ông ta đã phụ trách đang ngồi bên lề đường đợi
ô-tô chở đi. Các P.I.M này người nọ sau người kia đứng dậy chào. Nhưng vào giữa
tháng Tư năm 1954 thì P.I.M còn phải chịu đựng gian nan của thời kỳ cuối trận
đánh, thực hiện cái nhiệm vụ gay go tiếp tế cho « Hughuette 6 »…’’.
Không
dịch:
« Một người trong đám, biết tiếng Pháp, nói: « Mong thiếu tá may mắn. » Họ sẽ bị
các đồng chí giải phóng họ, xô đạp. Không ai biết cách Việt Minh sẽ xử lý các cựu
binh bị Pháp bắt này ra sao. Có thể Việt Minh sẽ xử họ như cách Liên-Xô sau năm
1945 đã xử các lính Nga từng bị Đức bắt, như một lũ hèn mạt đã đào ngũ. »
• Un Coin d’Enfer, trang 443, Bernard
Fall viết: ‘‘Chính là « Huguette
4 ». Cứ điểm do đại úy Luciani và một đại đội hỗn hợp gồm 80 lính Lê dương và
Tán binh Marốc phòng thủ, bị tấn công từ hai tiếng đồng hồ qua, và đây có lẽ là
cuộc tấn công ác liệt nhất chưa từng đánh vào một cứ điểm của chiến lũy. Dưới
quyền chỉ huy của tướng Vương Thừa Vũ, tư lệnh sư đoàn 308, toàn bộ trung đoàn
36 của trung tá Mạnh Quân, cùng với ba tiểu đoàn khác của trung đoàn 88 và 102
của cùng sư đoàn này, cộng thêm một tiểu đoàn thứ tư của sư đoàn 312, dưới yểm
trợ của pháo 105 ly của trung đoàn 34 Pháo binh Việt Minh, tổng cộng trên 3000
bộ đội tham gia tấn công một cứ điểm nhỏ. Hỏa tập bắn chận chung
quanh « Huguette 4 » của pháo binh Pháp từ Isabelle bị pháo Việt Minh dập kềm
chế. Hai giờ sau, « Huguette 4 » vẫn đứng vững, nhưng thương vong khá lớn. Tổn
thất phía Việt Minh vô cùng nặng: hàng trăm xác kẻ thù chất đống trên rào kẽm
gai phía Tây cứ điểm. Vào lúc 3g45…’’ (C’est« Huguette 4 ». Le P.A que
tiennent le capitaine Luciani et une compagnie de marche de 80 légionnaires et
tirailleurs marocains est attaqué depuis deux heures et cette attaque est
probablement la plus puissante qui ait jamais été lancée contre un P.A du camp
retranché. Sous le commandement du général Vuong Thua Vu de la division 308, le
régiment 36 du lieutenant-colonel Manh Quan, tout entier, ainsi que trois
autres bataillons des régiments 88 et 102 de la même division et un quatrième
de la division 312, soutenus par les 105 du régiment d’artillerie 34, en tout
plus de 3000 hommes, prennent part à l’attaque du petit P.A. Et
l’artillerie d’ « Isabelle » qui a déclenché des tirs d’arrêt autour d’«
Huguette 4 » est matraquée par les tirs de neutralisation Vietminh. Deux heures
plus tard, « Huguette 4 » tient toujours, mais les pertes sont considérables.
Quant à celles du Vietminh, elles sont très lourdes: des centaines de cadavres
ennemis s’amassent sur les réseaux de barbelés à l’ouest du P.A. A 3h45… )
Bản
Việt ngữ của Vũ Trấn Thủ, trang 702: ‘‘Đó là « Huguette 4
». Điểm tựa này do đại úy Luciani và một đại đội hỗn hợp gồm 80 lính lê dương
và lính bộ binh Maroc trấn giữ. Từ hai tiếng đồng hồ nay, điểm tựa ấy bị địch tấn
công, và đó có lẽ là cuộc tấn công ác liệt nhất từng đánh vào một điểm tựa của
tập đoàn cứ điểm. Trận đánh do tướng Vương Thừa Vũ, đại đoàn trưởng đại đoàn
308 chỉ huy, và lực lượng tham gia gồm có toàn bộ trung đoàn 36 của trung tá Mạnh
Quân, cùng với ba tiểu đoàn khác của các trung đoàn 88 và 102 thuộc cùng đại
đoàn, và một tiểu đoàn thứ tư thuộc đại đoàn 312, tổng cộng là trên 3000 quân
được sự yểm trợ của pháo 105 thuộc trung đoàn pháo binh 34. Vào pháo binh «
Isabelle » bắn chặn xung quanh « Huguette 4 » thì bị pháo Việt Minh bắn kiềm chế
dữ dội. Hai giờ sau, « Huguette 4 » vẫn đứng vững, nhưng thiệt hại rất lớn. Thiệt
hại của Việt Minh cũng rất nặng nề. Vào lúc 3 giờ 45…’’
Không
dịch:
« tham gia tấn công một cứ điểm nhỏ.» và « hàng trăm xác kẻ thù chất đống trên
rào kẽm gai phía Tây cứ điểm. »
Vì
sao đã liệt kê hết các đơn vị tham chiến mà rồi cuối cùng Vũ Trấn Thủ cắt bỏ mệnh
đề ngắn « tham gia tấn công một cứ điểm nhỏ.» ? Vì sao, một
cách hệ thống, Vũ Trấn Thủ lược hết những thiệt hại phía Việt Minh, như trong
đoạn này cắt bỏ « hàng trăm xác kẻ thù chất đống trên rào kẽm gai phía
Tây cứ điểm », cũng như ở các trang trước, các số xác chết Việt Minh đều bị
tẩy xoá? Vì Quân đội Nhân dân muốn che giấu bộ đội đã chết rất nhiều? Đọc kỹ, mệnh
đề ngắn « tham gia tấn công một cứ điểm nhỏ » trong tường thuật
của Fall mang hàm ý sâu xa: Võ Nguyên Giáp đã đánh biển người. 3 tiểu đoàn của
trung đoàn 36, cộng 3 tiểu đoàn khác của trung đoàn 88 và 102, tăng cường tiểu
đoàn thứ tư của sư đoàn 312, vị chi 7 tiểu đoàn chỉ để đánh 1 đại đội 80 binh
sĩ của đại úy Luciani! Mà vẫn không tràn ngập được vị trí sau 4 giờ tiến công…
Chính mệnh đề ngắn có vẻ như vô thưởng vô phạt này làm nổi bật lên thiên tài của
Võ Nguyên Giáp. Là lý do vì sao Vũ Trấn Thủ hoặc khâu biên tập đã cắt đi.
Những
ai đọc qua bản Pháp văn đều nhận ra vô vàn những đoạn bị cắt cúp, biên tập hoặc
thay chữ, trong mục đích làm lợi cho Việt Minh và thêm hào quang cho Võ Nguyên
Giáp. Nhưng rõ rệt nhất, là chương 11, chương “Kết thúc”(La Fin) dài 40 trang
chữ nhỏ trong bản Pháp văn (từ trang 497 đến 536), sang đến bản tiếng Việt chỉ
còn đúng 5 trang, co chữ to (từ trang 787 đến 791) . Vũ Trấn Thủ chú thích: “Tới
đây là hết diễn biến của trận Điện Biên Phủ. Tiếp sau là vài đoạn nói về những
diễn biến sau trận đánh. Vì khuôn khổ cuốn sách có hạn, chúng tôi mạn phép tác
giả và độc giả không dịch những đoạn này mà tiếp theo ngay vào chương 12: Lời bạt.” (MGĐN,
trang 791, sđd)
Vì
sao không dịch tiếp? Vì các đoạn sau Bernard Fall viết về thương binh, tù binh,
chính sách cải tạo nhồi sọ cùng sự tàn ác trong các trại giam Việt Minh, cũng
như sự phản kháng của một số quân nhân. Như trang 521 Fall ghi lại, từ lời kể của
các tù binh thả về, cảnh các binh sĩ Lê dương gốc Đức bất chấp quản giáo bắt
hát Quốc tế ca và phải vỗ tay khi ban Tuyên giáo chiếu phim, đã đồng loạt đồng
ca “Ich Hatt’einen Kameraden, Einen bess’ren findst du nicht..” (Tôi
có những đồng đội, anh không thể tìm thấy những bạn tốt hơn..). Trang
523, Fall kể lại việc y sĩ trung úy Jean-Louis Rondy, của tiểu đoàn 1 Nhảy dù
Lê dương đã chứng kiến một thương binh cưa hai chân đã phải bò trườn lê lết
trên hai tay và trên hai khúc đùi về đến tận trại giam Tuần Giáo, cách Điện
Biên Phủ 83 cây số, sau đầu hàng. Fall nhấn mạnh: tất cả những thương binh nặng
đều tử vong vì không được chăm sóc. Trên những trang bị kiểm duyệt, Fall đưa ra
số liệu: Khi chiến tranh
chấm dứt, Việt Minh trao trả 10.754 binh sĩ Liên hiệp Pháp trên tổng số 36.979
bị bắt từ 1946, tức 28,5% [2]. Riêng đối với tù binh Điện Biên, trao trả 3.920
trên số 11.721 hàng binh ngày 7 tháng 5-1954, tức 33,5%. Số không trao
trả, chết hoặc không tin tức. Là lý do vì sao Vũ Trấn Thủ ngưng dịch.
Đoạn
cuối của một tác phẩm, bao giờ cũng là đoạn quan trọng nhất làm nên dư âm của
tác phẩm ấy. Trong phần kết luận (L’Épilogue mà Vũ Trấn Thủ dịch là Lời bạt),
21 dòng chữ cuối cùng bị cắt đi, chỉ vì Fall ghi lại sự việc 24 khu trục cơ
F-105 và Skyhawk A-4 đã ném 29 tấn bom xuống Điện Biên 11 năm sau, ngày 2 tháng
7-1965 mà cao xạ Bắc-Việt không bắn trúng một chiếc máy bay Mỹ nào. Vì sao kiểm
duyệt? Vì chạm tự ái?
Những
băm vằm bằng dao phay khiến đánh giá của Hữu Mai “Tôi coi đây là một
công trình trung thực, đầy đủ nhất của phương Tây viết về Điện Biên Phủ’’ trở
nên mâu thuẫn. Làm sao có thể vừa trung thực vừa thái lát sự thật? Càng tương
khắc khi Hữu Mai đã đọc Lời Tác giả của Fall: ‘‘Nếu công thức nổi
tiếng «Tôi thề nói lên sự thật, tất cả sự thật, không sợ hãi và không hận thù»
có một ý nghĩa, thì tôi tin rằng, người ta có thể nói một cách công bình, đó là
điều tôi đã làm trong tác phẩm này.’’ [3] (Et
si la formule bien connue « je jure de dire la vérité, toute la vérité, sans
peur et sans haine » a un sens, je crois qu’en toute justice, on peut dire que
c’est ce que j’ai fait ici.)[Un Coin d’Enfer, Avant-propos, trang 21]. Bernard
Fall đi tìm sự thật và trưng bày sự thật, với những tài liệu tìm thấy, nhưng
Nxb Công an Nhân dân, với đồng tình của Hữu Mai, đánh tráo sự thật ấy.
Hữu
Mai “nghĩ đây cũng là dịp để bày tỏ lòng biết ơn một người đã đứng
bên chúng ta trong suốt cuộc trường chinh giành tự do [...] Tôi
cũng nghĩ đây là lời cảm ơn chân thành gửi tới chị Dorothy Fall, người đã luôn
luôn là trợ thủ đắc lực của chồng…’’ Lời cảm ơn chân thành?
Một món quà phỉ báng người quá cố và tàn độc cho một quả phụ.
Hữu
Mai, giải thưởng Văn học Bộ Quốc phòng, giải A Văn xuôi Hội Nhà văn, Giải A văn
học về đề tài an ninh Bộ Công an – Hội Nhà văn Việt Nam, giải thưởng Nhà nước
cho các tiểu thuyết Cao điểm cuối cùng, Vùng trời, Ông
cố vấn, không cho biết trong Những Điều Chưa Biết Về Bernard
Fall in đầu bản dịch, là Bernard Fall đã chết
vì cán phải mìn “của chúng ta” khi theo Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ hành quân Thừa
Thiên.
Thierry
Bouzard trên tập san Monde et Vie, số tháng 4-2009, trong bài Đối diện Tử thần: Những Trại Tàn
sát của Việt Minh, đưa ra những thống kê: “Tỷ lệ tử vong
tổng quát trong trại giam Việt Minh là 69,04%. Mức tử vong tù binh gốc Pháp là
59,5%, cao hơn tỷ lệ tử vong trong các trại tập trung Đức Quốc xã, như trại
Buchenwald 37%. [...] Tù binh Việt Nam thuộc quân đội Pháp gần
như bị thảm sát, tỷ lệ tử vong lên đến 90% trong những trại giam này. Việt Minh
thả 860 lính Việt trên số 14.060. Riêng đối với 9.404 tù binh thuộc Quân đội Quốc
gia Việt Nam mà Giáp gọi là « Ngụy », duy
nhất 157 tìm lại tự do.’’ (Le taux global de la mortalité
dans les camps Viêt-minh a été de 69,04 %. Celui de prisonniers de guerre
français, de 59,5 %. Ce taux est supérieur à celui des camps de concentration
allemands comme Buchenwald 37 %. […] Ces prisonniers vietnamiens
ont frôlé l’extermination: le taux de mortalité atteignait dans ces camps 90 %.
Sur 14.060 hommes capturés alors qu’ils servaient dans les unités de l’armée
française, 860 seulement sont revenus; et sur les 9.404 prisonniers appartenant
aux forces vietnamiennes, que Giap n’appellera jamais autrement, que les «
fantoches », 157 seulement ont retrouvé la liberté.) [Face à la Mort: Camps
d’Extermination du Viêt-Minh].
Các
danh tướng Nhật Tomoyuki Yamashita và Masaharu Homma từng chiến thắng vinh
quang tại Mã Lai và Phi Luật Tân, đã phải ra toà án quốc tế với tội danh Tội phạm
Chiến tranh và bị treo cổ vì đã để chết quá nhiều tù binh Đồng Minh. Võ Nguyên
Giáp may mắn là chế độ ông phục vụ chưa sụp đổ. Nhưng không chế độ nào vĩnh hằng
và không thiên tài nào chiến thắng thời gian.
Trần
Vũ
Tháng
2-2017
Hình bìa sách “Face À
La Mort”
[1]
Trang bìa trong của Một Góc Địa Ngục, Nxb Công An Nhân dân 2004 ghi rõ dịch từ
bản Pháp văn Un Coin d’Enfer của
Michel Carrière, Nxb Le Cercle du Nouveau Livre d’Histoire mà không dịch từ bản
gốc Hell In A Very Small Place: The
Siege Of Dien Bien Phu của Bernard Fall.
[2]
Sau ký kết Genève, Pháp thả 63.000 tù binh Việt Minh
[3]
Lời Tác giả được Vũ Trấn Thủ dịch trong Một Góc Địa Ngục, trang 33.
[4]
Thierry Bouzard, Những Trại Tàn sát của Việt Minh:
DVD
tài liệu của Bộ Quốc phòng Pháp, với nhân chứng về các trại tử thần của Hồ Chí
Minh.
No comments:
Post a Comment