Hà
Tường Cát/Người Việt (tổng hợp)
Wednesday, June 15, 2016 6:51:36 PM
.
Đức Đạt Lai Lạt Ma. (Hình: Mark Wilson/Getty Images)
Đức Đạt Lai Lạt Ma, 80 tuổi, hiện nay là vị thứ 14 của
Tây Tạng kể từ vị Đạt Lai Lạt Ma thứ nhất hồi thế kỷ 14. Dù đã phải sống lưu
vong từ hơn nửa thế kỷ, ngài vẫn là nhà lãnh đạo tinh thần và chính trị của Tây
Tạng, là biểu tượng của sự đấu tranh giành lại chủ quyền cho đất nước hiện nay
vẫn còn đang bị sát nhập vào Trung Quốc.
Mặc dù nói mình chỉ là một nhà sư Phật Giáo bình thưởng,
Đức Đạt Lai Lạt Ma được nhìn nhận là nhà lãnh đạo có ảnh hưởng nhất trên thế giới.
Dân Tây Tạng coi ngài là vị Phật sống, hiện thân lòng từ của chư Phật, người chọn
con đường tái sinh trở lại kiếp người để cừu giúp chúng sinh. Đối với mọi Phật
tử, ngài là hiện thân của từ bi và trí tuệ, một mẫu mực về tinh thần bảo vệ đức
tin, trí tuệ soi sáng cho trần thế bằng học thuật rất cao thâm với lòng nhân ái
bao la. Dư luận quốc tế coi ngài là một thể hiện cho sự bênh vực và cổ vũ hòa
bình của nhân loại.
Theo đức tin và truyền thuyết Tây Tạng, vị Đạt Lai Lạt
Ma thứ 14 hiện nay, có tên Tenzin Gyatso, là con thứ năm trong 16 người con
trong một gia đình nông dân ở miền Đông-Bắc Tây Tạng, nhưng chỉ còn bảy người sống
sót qua tuổi ấu thơ. Căn cứ theo những tín hiệu thần bí cho rằng vị Đạt Lai Lạt
Ma đã tái sinh, người ta tìm thấy ngài khi mới 2 tuổi và được chính thức công
nhận là Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 lúc 15 tuổi. Bắt đầu được học hành từ lúc 6 tuổi,
tới 23 tuổi, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã lấy bằng tiến sĩ triết lý Phật Giáo.
Vào thời gian Tentzin Gyatso chưa trưởng thành, mối
quan hệ giữa Trung Quốc với Tây Tạng đang dần dần xấu đi. Năm 1949, nhận thấy Cộng
Sản sắp đánh bại Quốc Dân Đảng trên toàn thể lục địa Trung Hoa, chính quyền tự
trị Tây Tạng ra lệnh trục xuất phái đoàn Trung Hoa Dân Quốc, đồng thời gởi văn
thư cho Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ và một bản sao cho Chủ Tịch Mao Trạch Đông, tuyên
bố sẽ tự vệ bằng mọi phương cách chống quân đội Trung Quốc vào Tây Tạng. Cả
Trung Hoa Dân Quốc và Trung Quốc vẫn coi Tây Tạng là một phần của nước Trung
Hoa, sau khi chính quyền Quốc Dân Đảng chạy ra Đài Loan các cuộc thương thuyết
giữa Tây Tạng và Trung Quốc không đem đến kết quả cụ thể.
Năm 1950, Hồng Quân Trung Quốc tiến vào Tây Tạng
đánh bại lực lượng kháng cự nhỏ bé và yếu ớt. Đức Đạt Lai Lạt Ma lúc đó đã trưởng
thành, được đưa lên nắm trọn quyền lực Tây Tạng và cử phái đoàn sang Bắc Kinh
thương lượng. Thỏa hiệp 17 điểm năm 1951 chấp nhận cho quân đội Trung Quốc đóng
ở Tây Tạng, chính quyền nhân dân cầm quyền, nhưng tôn trọng vị trí của vị Đạt
Lai Lạt Ma.
Năm 1959, nhân dân Tây Tạng nổi dậy nhưng lực lượng
yếu không chống nổi sự đàn áp của quân đội Trung Quốc, và vị Đạt Lai Lạt Ma quyết
định rời khỏi Lhasa. Ngài cưỡi ngựa vượt qua dãy núi Hy Mã Lạp Sơn đến Tezpur,
tiểu bang Assam, Ấn Độ. Thủ Tướng Ấn Độ Jaeaharlal Nehru cho phép Đức Đạt Lai Lạt
Ma và chính quyền lưu vong Tây Tạng lưu trú ở Dharamshala, tiểu bang Himachal
Pradesh, ở miền Bắc. Nhiều cơ sở, trường học, chùa được thành lập và nơi đây trở
thành thủ đô tị nạn của Tây Tạng với khoảng 100,000 dân từ hơn nửa thế kỷ.
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã cho lập viện Tây Tạng bao gồm
thư viện và văn khố, cơ sở duy nhất trên thế giới lưu trữ hơn 80,000 văn bản và
nhiều tài liệu liên quan đến lịch sử, văn hóa, chính trị có giá trị giúp cho những
học giả nghiên cứu sâu rộng về xứ sở này.
Đức Đạt Lai Lạt Ma là người đã đi khắp nơi trên thế
giới hơn bất cứ nhà lãnh đạo tinh thần và chính trị nào khác. Ngài gặp gỡ và
trao đổi quan điểm với nhiều nhà lãnh đạo tinh thần và chính trị, cử hành nghi
thức tôn giáo, thuyết giảng và nói chuyện với quảng đại quần chúng, chứ không
chỉ là Phật tử ở khắp quốc gia. Ngài đến Mỹ rất nhiều lần.
Năm 1973, Đức Đạt Lai Lạt Ma tiếp kiến Đức Giáo
Hoàng Paul VI ở Tòa Thánh Vatican. Ngài cũng đã nhiều lần gặp Đức Giáo Hoàng
John Paul II vào những năm 1980, 1982, 1986, 1988, 1990 và 2003.
Ngài cũng đã nhiều lần đối thoại về tín ngưỡng với
dân Do Thái. Phái đoàn Do Thái Giáo đã đến Dharamshala và ngài viếng thăm
Israel ba lần trong đó có lần gặp giáo sĩ trưởng Do Thái Giáo.
Qua những việc làm này, năm 1989, Đức Đạt Lai Lạt Ma
được trao giải Nobel Hòa Bình.
Năm 1996, Đức Đạt Lai Lạt Ma đến Nam Phi gặp Tổng Thống
Nelson Mendela.
Bất chấp sự phản đối của Trung Quốc, các tổng thống
Mỹ từ Bill Clinton (1998) đến Barack Obama (2008) đều mời Đức Đạt Lai Đạt Ma
vào Tòa Bạch Ốc. Năm 2007, ngài được Tổng Thống George W. Bush trao tặng huy
chương vàng Quốc Hội. Năm 2009, bà Chủ Tịch Hạ Viện Nancy Pelosi trao tặng ngài
giải thưởng Nhân Quyền Lantos.
Trong nhiều sinh hoạt quốc tế, năm 1967 Đức Dạt Lai
Lạt Ma đến Washington tham dự và nói chuyện trong một hội nghị nội bộ về nhân
quyền tại Quốc Hội Mỹ. Năm 2007 Đức Đạt Lai Lạt Ma tham dự kỳ họp thứ ba của
các nhà lãnh đạo tôn giáo thế giới ở Amstar, Ấn Độ.
Không thể nào liệt kê đầy đủ hàng trăm hoạt động như
vậy của Đức Đạt Lai Lạt Ma trong hơn bốn thập niên.
Đức Đạt Lai Lạt Ma không chỉ quan tâm đến tôn giáo
và chính trị mà rất chú ý đến các vấn đề xã hội, kinh tế, môi trường, văn hóa
và tinh thần. Ngài là tác giả của nhiều cuốn sách đề cập đến các đề tài này.
Ngài tin tưởng rằng chủ nghĩa Marxism đúng nghĩa là tốt nhưng mạnh mẽ lên án
chính sách của một số nước Cộng Sản.
Khi có dịp tiếp xúc với Đức Đạt Lai Lạt Ma, dù là
trong một sự kiện quy tụ hàng chục ngàn người, mỗi người đều cảm nhận được thái
độ từ bi và nhận thức sâu sắc về lời thuyết giảng khoan hòa tràn đầy trí tuệ
sâu sắc của ngài cho đời sống cá nhân mình.
Nhân loại chưa bao giờ có một Đức Đạt Lai Lạt Ma như
ngài, một tặng phẩm quý báu khó có thể tìm được trong thế giới đầy rẫy phức tạp
này.
--------------------------
No comments:
Post a Comment