The Middling Kingdom
Sự thổi phồng và thực chất về sự trỗi dậy của Trung Quốc
Salvatore Babones
FOREIGN AFFAIRS - September/October 2011
18-9-2011
Xét về bất cứ phương diện nào, sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc là không có tiền lệ, thậm chí được xem là thần kỳ. Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế, nền kinh tế Trung Quốc tăng trưởng bình quân 9.6% mỗi năm trong giai đoạn 1990-2010. Vào đầu giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu gần đây, nhiều người e rằng động cơ tăng trưởng của Trung Quốc sẽ dần chững lại. Cuối năm 2008, xuất khẩu của Trung Quốc suy sụp, gây ra những lo sợ về bất ổn chính trị và bạo loạn trên khắp đất nước. Tuy nhiên, vào giai đoạn cuối, tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu trở nên không đáng kể, không tạo thành ổ gà trên con đường tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc. Hiện giờ, áp lực lạm phát có thể đang nhen nhóm trở lại ở Trung Quốc, và bong bóng bất động sản Trung Quốc đang có nguy cơ bùng nổ, nhưng các nhà kinh tế tiếp tục dự đoán tốc độ tăng trưởng nhanh cho Trung Quốc khi bước vào tương lai. Mặc dù các dự đoán còn nhiều khác biệt, họ dường như cùng chia sẻ quan điểm : Trung Quốc sẽ đạt tốc độ tăng trưởng nhanh – nếu không, cũng nhanh như nó đã từng – và rằng tỷ lệ tăng trưởng này sẽ tiếp tục trong hàng chục năm. Những dự báo này đồng thời cũng thận trọng về tương lai gần (năng lực thực hiện của Trung Quốc sẽ không phi thường như đã từng diễn ra) và lạc quan về tương lai xa (họ không thấy điểm kết thúc trong biểu đồ đi lên của Trung Quốc). Bằng sự trùng hợp ngẫu nhiên hay cố ý, những dự đoán nói trên là những phương pháp ngoại suy có chừng mực dựa trên các xu thế hiện tại.
Chẳng hạn, nhà kinh tế đoạt giải Nobel Robert Fogel tin rằng Trung Quốc sẽ tăng trưởng ở mức bình quân hàng năm là 8% cho đến năm 2040, vào thời điểm đó Trung Quốc sẽ phát triển gấp đôi và giàu có như Châu Âu (tính theo bình quân đầu người), và Trung Quốc sẽ chiếm 40% GDP của toàn cầu (so với Mỹ chiếm 14%, Liên Minh Châu Âu chiếm 5%). Các nhà kinh tế khác thận trọng hơn một chút, Uri Dadush và Bennett Stancil của viện nghiên cứu Carnegie (Carnegie Endowment for International Peace) dự đoán Trung Quốc sẽ tăng trưởng 5.6% mỗi năm cho đến năm 2050.
Giống như nhiều dự báo khác về sự tiếp tục trỗi dậy của Trung Quốc, những dự phóng này dựa trên mô hình kinh tế chính thức đầy thận trọng, nhưng liệu có mang tính thuyết phục ? Ngoại suy dựa trên các xu thế hiện tại có thể có ý nghĩa khi dự đoán mức tăng trưởng của năm sau và năm sau đó, nhưng một khi các năm trở thành các thập niên, các giả định như vậy có vẻ trở nên đáng ngờ. Nếu tổ tiên tôi đầu tư một xu bằng tên của tôi vào năm 1800, với lãi suất kép 6% mỗi năm (lãi suất thực, sau khi trừ yếu tố lạm phát), thì một xu đó sẽ có giá trị hiện tại khoảng 280,000 USD. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa dễ dàng tìm được những suất đầu tư có mức sinh lợi cao, ổn định, kéo dài trong 211 năm như trên. Sự vật thay đổi, lúc đó dự báo sẽ không còn chính xác. Lợi tức kiếm được trong quá khứ không đảm bảo hiệu quả có được trong tương lai.
Khi đi vào dự báo sự tăng trưởng trong tương lai của Trung Quốc, các mô hình kinh tế có thể đưa ra rất nhiều hướng dẫn. Các mô hình dự báo sản lượng kinh tế trong tương lai trên cơ sở các mức độ yếu tố kinh tế đầu vào đã được dự phóng cho tương lai, nhưng các yếu tố kinh tế đầu vào trong tương lai thì không thể dự đoán được. Cuối cùng, không giải quyết được gì nhiều ngoại trừ phương pháp ngoại suy dựa trên những dữ liệu đầu vào hiện tại. Nhưng các dữ liệu đầu vào, cũng như những đặc diểm chủ yếu khác của bất kỳ nên kinh tế nào, mang tính chất thay đổi theo thời gian. Nền kinh tế Trung Quốc đang phát triển nhanh chóng, từ chủ yếu sống nhờ nông nghiệp tiến lên công nghiệp nặng, rồi phát triển các ngành điện tử tân tiến, và chuyển hướng vào kinh tế dịch vụ. Tại một thời điểm nào đó trong tương lai, có lẽ trong tương lai không xa lắm, mức tăng trưởng vượt trội của Trung Quốc sẽ chựng lại, và sự tăng trưởng kinh tế của nước này sẽ giảm tốc, trở về các mức tăng trưởng như đã từng trải qua bởi những nước có thể so sánh được.
KHI TĂNG TRƯỞNG GẶP KHÓ KHĂN
Trong thời điểm năm 2011, có thể không khôn ngoan khi nói thị trường Trung Quốc đã đạt đỉnh cao nhất. Xem xét bằng các mô hình của Fogel và Dadush- Stancil, có vẻ như không có những rào cản trong trung hạn đối với sự tăng trưởng của Trung Quốc. Với điều kiện là lực lượng lao động ở thành thị tiếp tục mở rộng, trình độ giáo dục tiếp tục gia tăng, dòng vốn vẫn tiếp tục đổ vào Trung Quốc.
Nhưng sự việc có đơn giản như vậy? Đơn cử một điều, các mô hình kinh tế có khuynh hướng không lột tả hết bản chất của sự việc, là khi các quốc gia trên đà tăng trưởng, sự tăng trưởng gặp nhiều khó khăn hơn. Khi các nền kinh tế gia nhập vào chuỗi giá trị toàn cầu, từ việc sản xuất những hàng hóa giản đơn tiến lên giai đoạn dựa vào sự sáng tạo của công dân để phát triển các ngành công nghiệp mới, các nền kinh tế này phát triển chậm lại, với tốc độ rất chậm. Hàn Quốc phải mất 30 năm, từ năm 1960 đến năm 1990, để gia tăng GDP bình quân đầu người từ mức chỉ bằng 1/30 lên mức 1/3 so với GDP bình quân đầu người của Mỹ -- nhưng sau đó Hàn Quốc phải mất thêm 20 năm nữa để thúc đẩy quá trình phát triển từ mức 1/3 lên được mức 1/2 so với GDP bình quân đầu người của Mỹ. Và Hàn Quốc ngày nay vẫn còn một con đường dài phía trước để bắt kịp Mỹ. Nhật đã bắt kịp phương Tây (và bởi một số dữ liệu tài khoản được tính vượt trội) vào những năm 1980, nhưng sau đó gặp giai đoạn bùng nổ bong bóng, và từ năm 1990 nền kinh tế Nhật tăng trưởng ở mức bình quân chỉ 1% mỗi năm.
Và điều gì có thể hơn thế khi hai quốc gia này được xem là hai nền kinh tế cực kỳ thành công, hơn hẳn hầu hết các nước khác. Không đất nước nào có diện tích trung bình hoặc diện tích lớn sở hữu nền kinh tế đa dạng, đạt thành tựu phát triển gần bằng Nhật. Trong số “bốn con hổ Châu Á”, hai nền kinh tế giàu có nhất (Hồng Kông và Singapore) chỉ là những thành phố, và hai nền kinh tế còn lại (Hàn Quốc và Đài Loan) cơ bản là những thành phố mở rộng và còn thua xa Nhật về mặt kinh tế. Các quốc gia nghèo khác, nay đã trở nên giàu có, hoặc là những trung tâm tài chính nằm cách xa đất liền, hoặc là những lãnh thổ nhỏ bé nhưng nhiều dầu mỏ, do các lãnh tụ Hồi giáo cai trị. Không quốc gia nào trong số đó là quốc gia có quy mô đầy đủ với nhiều thành phố và khu vực, có dân số nông thôn đông đảo, và có những khu vực bầu cử chính trị đầy tính cạnh tranh. Ngay cả Nhật đại diện cho một mô hình nhà nước có vấn đề, gần đây đang nhanh chóng bắt kịp phương Tây, vì Nhật đã đạt được nhiều tiến bộ trước Thế Chiến II, giá như chỉ có như vậy. Giống như các nước phương Tây hàng đầu, Nhật tiến hành công nghiệp vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, một phần thông qua quá trình khai thác thuộc địa một cách tàn bạo. Trong suốt Thế Chiến II, nền kinh tế Nhật bị bom đạn tàn phá và bị rơi vào lãng quên. Do đó, mức tăng trưởng nhanh của Nhật sau chiến tranh, xét ở mức độ nào đó là trở về với mức tăng trưởng trước khi chiến tranh nổ ra. Nói cách khác, cho đến nay, chưa có tiền lệ nào về một quốc gia có được đồ thị tăng trưởng rất nhanh lên vị trí hàng đầu trong nền kinh tế thế giới, làm dấy lên nghi ngờ liệu Trung Quốc có thể là một ngoại lệ khó có thể xảy ra.
Sự tăng trưởng gần đây của Trung Quốc thường được mô tả như là sự trở về vị trí lịch sử của Trung Quốc một cách tự nhiên và xứng đáng trong nền kinh tế toàn cầu, nhưng luận cứ này nghe thì hay hơn là chính xác. Theo sử gia kinh tế đã quá cố Angus Maddison, Trung Quốc lần cuối đã đạt mức ngang bằng với các nước phương Tây vào thời Marco Polo. Sự suy tàn sau đó của Trung Quốc liên quan đến phương Tây một thời gian dài trước khi xảy ra cuộc Cách mạng Công nghiệp, đó chính là chủ nghĩa thực dân phương Tây, thậm chí trong thế kỷ 16, Trung Quốc quay về hướng nội. Câu chuyện bao quát của năm thế kỷ vừa qua không phải là nói nhiều về sự suy tàn tuyệt đối của Trung Quốc cũng như về sự tiến bộ tương đối của phương Tây. Các nền kinh tế Châu Âu đã tăng trưởng đáng kể trong giai đoạn từ năm 1500 đến năm 1800. Theo Maddison, vào năm 1820 –trước khi xuất hiện đường xe lửa, máy điện báo và kỹ nghệ thép hiện đại, và trước cuộc Chiến tranh nha phiến, cuộc nổi dậy của Phong trào Nghĩa Hòa Đoàn – thu nhập quốc gia tính theo bình quân đầu người của Trung Quốc chưa bằng 50% so với mức bình quân của các nước Châu Âu, vào năm 1870 rớt xuống còn 25%, và vào năm 1970 chỉ còn 7%. Hơn nữa, cần thấy rằng số liệu của Maddison toàn là những ước đoán dựa trên sự ngang giá sức mua. Vị trí của Trung Quốc xét về phương diện đồng tiền mạnh có vẻ còn tồi tệ hơn nhiều. Theo con số thống kê về hệ thống tiền tệ mạnh của Ngân hàng Thế giới, từ năm 1976 đến năm 1994, GDP bình quân đầu người của Trung Quốc thấp hơn 2% so với GDP bình quân đầu người của Mỹ, và ngày nay GDP bình quân đầu người của Trung Quốc vẫn thấp hơn Mỹ 10%.
Nói cách khác, sự tăng trưởng kinh tế ồ ạt của Trung Quốc trong hai thập niên vừa qua không mang lại ý nghĩa gì hơn – và có lẽ sự tăng trưởng này còn thấp hơn nhiều – so với vị trí trước đây của Trung Quốc ở thời điểm năm 1870 (về phương diện ngang giá sức mua). Những người lạc quan sẽ thấy điều này như là bằng chứng thêm nữa về tiềm năng của Trung Quốc: nếu Trung Quốc chỉ ở mức độ như năm 1870 thì vẫn còn nhiều khả năng cho sự tăng trưởng hơn nữa. Nhưng những người bi quan có thể nhận thấy rằng nếu Trung Quốc có thể rớt khỏi vị trí của năm 1870, thì quốc gia này rất có thể rơi vào suy thoái một lần nữa. Xét theo bề ngoài, không có lý do gì để mong đợi một kết quả hay điều gì khác; một dự đoán thận trọng sẽ cho rằng Trung Quốc ở đúng vị trí vốn có của nó.
NHỮNG LỢI ÍCH “MỘT LẦN”
Một lý do nữa, là những mô hình kinh tế dự báo sự tiếp tục phát triển của Trung Quốc có tính chất quá đơn giản, họ có khuynh hướng bỏ qua những yếu tố thúc đẩy “một lần” đã giúp quốc gia này tiến lên phía trước trong quá khứ và cả những trở ngại về cấu trúc, môi trường và chính trị sẽ hạn chế sự tăng trưởng của Trung Quốc trong tương lai. Trong tương quan với phương Tây, Trung Quốc hiện có vị thế quân sự và chính trị mạnh hơn nhiều so với Trung Quốc của năm 1870, và Trung Quốc có vẻ rất khó có khả năng rơi vào sự thử thách lần nữa kéo dài cả thế kỷ lặp lại những thảm họa kinh tế và con người. Nhưng điều đó có nhất thiết mang ý nghĩa rằng Trung Quốc sẽ tăng trưởng để trở thành một quốc gia giàu nhất thế giới?
Sự phát triển đầy ấn tượng của Trung Quốc trong suốt 20 năm qua được thúc đẩy bởi hai món quà được ban thưởng “một lần”: Tỷ lệ sinh sản đang sụt giảm và quá trình thành thị hóa đang gia tăng. Cả hai yếu tố này đã dẫn đến những gia tăng lớn đối với hiệu suất của nền kinh tế, nhưng đó là những quá trình có giới hạn và không thể hy vọng vào chúng trong tương lai. Tỷ lệ sinh của Trung Quốc đã suy giảm rõ trước cả khi lần đầu thực hiện chính sách một con khắc nghiệt năm 1979. Sự đi xuống của tỷ lệ sinh trong những năm 1970 có nghĩa rằng trong suốt những năm 1980 và những năm 1990, nhà nước và gia đình có thể tập trung nguồn lực còn hạn chế của mình cho một số lượng trẻ em tương đối nhỏ. Hiện giờ, những trẻ em này đang ở giữa độ tuổi 30, và đang tích cực đóng góp cho sự phát triển GDP và nguồn vốn con người của Trung Quốc. Các thế hệ tương lai thậm chí có thể được giáo dục tốt hơn, nhưng những lợi ích chính đã được thụ hưởng. Quan trọng hơn, tỷ lệ sinh thấp trong vài thập niên vừa qua đã giải phóng cho người lớn, đặc biệt là phụ nữ, để bước vào thị trường lao động chính thức. Hàng trăm triệu phụ nữ vốn làm việc tại nhà hoặc trên nông trại, hiện đang làm việc trong nền kinh tế hái ra tiền, làm tăng cao những con số GDP của Trung Quốc. Điều này đã mang lại cho Trung Quốc sự thúc đẩy “một lần” -- sản lượng liên tục đạt mức cao hơn – nhưng điều đó sẽ không giúp GDP tiếp tục tăng trưởng. Suất sinh sản có rất ít khả năng xuống thấp hơn nữa; Trung Quốc không thể chuyển sang chính sách không sinh con.
Hơn nữa, số lượng công nhân tương đối lớn ngày nay được sinh ra trong giai đoạn tỷ lệ sinh cao vào những năm 1950, 1960 và đầu những năm 1970 đang rất thành đạt trong công việc. Bởi vì thế hệ của bố mẹ họ qua đời ở tuổi tương đối trẻ, và vì họ có ít con, nên những công nhân này đa số không bị vướng bận bởi nghĩa vụ chăm sóc người già hoặc nuôi dạy con nhỏ. Đối với mọi thế hệ người Trung Quốc trong suốt quá trình lịch sử, đặc điểm này là một lợi thế độc nhất để theo đuổi công việc và làm giàu. Thế hệ công nhân Trung Quốc tương lai sẽ ít hơn, và sẽ phải gánh vác thêm trách nhiệm chăm sóc người thân ngày càng cao tuổi. Hơn nữa, việc tỷ lệ sinh chỉ có thể tăng đang diễn ra, có nghĩa những công nhân này có thể có nhiều con hơn để chăm sóc.
Một món quà nữa được thưởng “một lần” là sự gia tăng quá trình đô thị hóa, đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc trong 20 năm qua. Đô thị hóa làm tăng GDP vì dân thành thị nói chung làm việc có năng suất hơn dân nông thôn, và vì cư dân thành thị có đặc tính là đi ra khỏi nhà để làm những công việc được trả lương, trong khi nhiều người ở thôn quê phải lao vào làm những công việc đồng áng để mưu sinh, dù không được trả lương. Nhưng giống như hiện tượng giảm tỷ lệ sinh, đô thị hóa là một quá trình có những hạn chế tự nhiên. Mức độ đô thị hóa của Trung Quốc rõ ràng vẫn còn thấp so với phương Tây, và sự mở rộng thành thị của Trung Quốc không có dấu hiệu giảm tốc (với mức tăng trưởng hiện nay, quá trình đô thị hóa của Trung Quốc sẽ không bắt kịp phương Tây hoặc Châu Mỹ Latin cho đến những năm 2040). Nhưng sự mở rộng này sẽ đi theo hình thức nào? Những khu ổ chuột khổng lồ đã và đang mọc lên ở những vùng ngoại vi Bắc Kinh, Thượng Hải và những “siêu thành phố” khác của Trung Quốc. Chính phủ Trung Quốc giải tỏa hàng trăm ngàn nhà ổ chuột mỗi năm, nhưng không rõ là liệu nhưng người dân này có được tái định cư đến chổ ở mới, hay bị trở thành những người vô gia cư. Liệu chính quyền Trung Quốc có chiến thắng trong cuộc chiến chống sự lan tràn của nhà ổ chuột hay không, những ngày tháng quá trình đô thị hóa được xem là lực đẩy cho sự tăng trưởng kinh tế đã qua.
NHỮNG HẠN CHẾ VỀ CẤU TRÚC
Ngoài ra, Trung Quốc đang đối mặt với những rào cản về cấu trúc, môi trường và chính trị, vốn sẽ làm hạn chế sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc trong tương lai. Chẳng hạn, nhiều nhà phân tích tin rằng Trung Quốc sẽ không có khả năng tiến lên gia nhập vào chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu trừ phi Trung Quốc mở cửa về chính trị. Luận cứ này cho rằng, các hoạt động tạo thêm giá trị cao như phát triển nhãn hiệu, thiết kế, phát minh và sáng tạo đòi hỏi phải được tự do tư duy, điều này chỉ có thể trong các xã hội dân chủ. Trung Quốc có thể đào tạo hàng trăm ngàn kỹ sư, nhưng nếu Trung Quốc tiếp tục ngăn cản, kiềm chế sự sáng tạo, họ sẽ không bao giờ đạt tới trình độ cao nhất của nền kinh tế toàn cầu. Trung Quốc sẽ không vươn tới được thứ hạng đỉnh cao trong nền kinh tế toàn cầu (về phương diện GDP bình quân đầu người) cho đến khi nào các trường học, các công ty và người dân Trung Quốc học được cách sáng tạo hơn là những gì họ có được trong quá khứ. Điều này đang diễn ra, nhưng nền văn hóa chính trị bóp nghẹt của Trung Quốc đang gây trở ngại cho quá trình này. Thật khó hình dung một nền kinh tế tri thức năng động lại nổi lên trong một quốc gia độc đảng và đàn áp chính trị. Giống như trước đây, điều đó không thể xảy ra.
Những trở ngại về môi trường đối với sự tiếp tục tăng trưởng của Trung Quốc đã được dẫn chứng rõ ràng hơn bằng tài liệu. Tổ chức Y tế Thế giới ước tính hàng năm, ở Trung Quốc có 656,000 người chết do ô nhiễm không khí, cộng thêm 95,600 người chết do ô nhiễm nguồn nước. Riêng Bộ Quản lý Nguồn nước của Trung Quốc ước tính có khoảng 300 triệu dân, chiếm 2/3 dân số ở khu vực nông thôn, sống phụ thuộc vào nguồn nước có chứa “những chất gây hại”. Theo tờ The New York Times, các quan chức từ Hội đồng Nhà nước Trung Quốc cho biết, con đập Tam Hiệp khổng lồ bị đặt câu hỏi trước “những vấn đề khẩn cấp”, theo đó “phải được giải quyết liên quan đến việc tổ chức êm thấm vấn đề tái định cư cho cư dân địa phương, bảo vệ sinh thái, và ngăn chặn thảm họa địa chất.” Trung Quốc hiện giờ cũng là nước thải khí gây hiệu ứng nhà kính nhiều nhất thế giới. Những đợt hạn hán và lụt lội khủng khiếp tấn công Trung Quốc tính cho đến năm nay có thể có liên quan hoặc không liên quan đến hồ sơ môi trường của nước này, nhưng rõ ràng là khả năng Trung Quốc tận dụng nguồn lợi môi trường để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế bất chấp thảm họa sinh thái đang đến hồi kết thúc. Tăng trưởng trong tương lai của Trung Quốc sẽ phải sạch hơn tăng trưởng trong quá khứ; do đó, sẽ gây tốn kém hơn. Vốn là một đất nước đông dân trong thời gian dài, Trung Quốc luôn là một trong số những nước khai thác môi trường với mật độ cao nhất thế giới. Ngày nay, môi trường của Trung Quốc không còn gì nhiều để khai thác.
Tuy nhiên, những rào cản lớn nhất đối với sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và liên tục của Trung Quốc chính là những vấn đề mang tính cấu trúc. Cho đến năm 1980, Trung Quốc vẫn còn là một nước thực sự khép kín với thế giới. Vào năm 1992, gần như toàn bộ khu vực thành thị của Trung Quốc được quy hoạch thành những đặc khu kinh tế, mở cửa cho các doanh nghiệp tư nhân và đầu tư nước ngoài vào làm ăn. Nền kinh tế theo chủ nghĩa Mao, vốn kém hiệu quả đến khó tin, đã lùi vào quá khứ, và được thay thế bởi các doanh nghiệp thuộc trong số những công ty cạnh tranh nhất trên thế giới. Tạo nhiều giá trị hơn những gì ngành công nghiệp nhà nước từng làm trong suốt thời kỳ Cách mạng Văn hóa là không có gì khó lắm. Nhưng tạo nhiều giá trị hơn những gì các công ty làm ăn hiệu quả hiện nay của Trung Quốc làm được sẽ là công việc khó khăn hơn nhiều.
Khó khăn này sẽ thêm trầm trọng bởi những đổi thay cấu trúc quan trọng trong nền kinh tế. Từ năm 1960, tuổi thọ trung bình của Trung Quốc đã tăng từ 47 lên 74 tuổi, nhưng số con của từng gia đình đã giảm từ hơn 5 con/mỗi gia đình xuống còn dưới 2 con/mỗi gia đình. Các “tiểu hoàng đế” ngày nay sẽ phải dành những năm tháng làm việc đạt hiệu suất nhất của mình để chăm sóc cha mẹ. Và nếu như vậy, hoạt động kinh tế của Trung Quốc sẽ phải giã từ những ngành sản xuất có năng suất cao để hướng vào những dịch vụ chăm sóc sức khỏe vốn có năng suất thấp. Sự thay đổi này sẽ làm hạn chế hơn nữa triển vọng tăng trưởng trong tương lai của Trung Quốc bởi vì trong các ngành dịch vụ thì rất khó tăng năng suất so với các ngành sản xuất, khai khoáng hoặc nông nghiệp. Trong quá khứ, để khai thác tối đa lợi thế cạnh tranh, các nhà sản xuất Trung Quốc đã tập trung vào việc sản xuất phục vụ cho thị trường công nghiệp của thế giới. Trong tương lai, các nhà cung cấp dịch vụ Trung Quốc sẽ không có sự lựa chọn ngoài việc tập trung vào thị trường chăm sóc sức khỏe trong nước, cho dù thị trường có bão hòa.
“CÓ THỂ LÀM ĐƯỢC” HAY “ĐÃ LÀM ĐƯỢC” ?
Nhiều nhà bình luận, đáng chú ý nhất là các nhà khoa học chính trị George Gilboy và Eric Heginbotham, gần đây đã cảnh báo tình trạng “Mỹ-Latin hóa” của Trung Quốc, đặc biệt là tình trạng bất bình đẳng thu nhập đang tăng lên. Năm 2003, Trung Quốc chỉ có một tỷ phú (tính theo Đô la Mỹ); vào năm 2011, theo tạp chí Forbes, Trung Quốc có đến 115 tỷ phú. Cho đến nay, Trung Quốc vẫn còn là một nước nghèo: GDP theo bình quân đầu người tính theo đơn vị tiền tệ tiền tệ mạnh (hard-currency), thì Trung Quốc thấp hơn đáng kể (dưới 5,000 USD) so với Brazil, Mexico và Nga (9,000-10,000 USD), ba nước lớn của thế giới có thu nhập trung bình. Nhưng khi Trung Quốc bắt kịp những quốc gia này, mức độ bất bình đẳng của Trung Quốc cũng đang tăng lên, gần với mức độ bất bình đẳng của ba nước nói trên.
Trung Quốc chia sẻ nhiều đặc điểm với Brazil, Mexico và Nga. Các nhà xã hội học nhận dạng bốn quốc gia này thuộc về vùng “bán ngoại biên” của nền kinh tế thế giới, tức là nhóm các quốc gia không giàu mạnh như những nền dân chủ phát triển, nhưng cũng không nghèo như những nước nhỏ của Châu Phi, Trung Mỹ và Đông Nam Á. (Những ví dụ khác bao gồm luôn Indonesia và Thổ Nhĩ Kỳ). Những quốc gia này mang đặc điểm : Nhà nước mạnh, nhưng thể chế lại yếu kém, chính phủ bị chi phối mạnh bởi những công dân giàu sụ, và đa số dân chúng sống trong nghèo khó.
Với mức tăng trưởng như hiện tại, Trung Quốc sẽ có khả năng bắt kịp Brazil, Mexico và Nga vào khoảng năm 2020 tính theo GDP bình quân đầu người. Vào thời điểm đó, cả bốn quốc gia sẽ có mức thu nhập quốc gia bình quân đầu người từ 10,000 đến 15,000 USD (tính theo tỷ giá USD hiện nay). Các nước này cũng sẽ có mức độ bất bình đẳng kinh tế giống nhau -- mức độ cao hơn nhiều so với các quốc gia phát triển. Tại bốn nước nói trên, người dân sẽ không trải qua nạn đói hoặc tình trạng suy dinh dưỡng nghiêm trọng, nhưng họ sẽ nếm trải cảnh nghèo khổ lan rộng. Khoảng 40% dân số của những nước này sẽ sống tại các thành phố lớn, khoảng 20% dân số sẽ sống ở các khu vực nông thôn, và số còn lại sống tại các thành phố và thị trấn nhỏ. Tỷ lệ sinh của họ sẽ giảm xuống mức độ nào đó dưới mức thay thế, và khoảng 2/3 dân số sẽ ở độ tuổi từ 16 đến 65. Xét về mặt dân số đang già đi nhanh chóng, những nước này sẽ cần chuyển đổi nền kinh tế của mình thoát khỏi những ngành tăng trưởng và hướng vào những dịch vụ chăm sóc sức khỏe có mức tăng trưởng thấp.
Những vấn đề nói trên làm phát sinh câu hỏi thế này: Nếu vào n
ăm 2020, Trung Quốc hầu như sẽ chắc chắn đối mặt với những căn bệnh mang tính cấu trúc gần giống hệt với Brazil, Mexico và Nga, vì sao người ta lại kỳ vọng Trung Quốc tăng trưởng nhanh hơn các nước này? Brazil và Mexico đã thuộc về “liên hiệp” các nước thu nhập trung bình kéo dài hàng thế hệ. Nga đã thuộc về nhóm các nước thu nhập trung bình vào đầu thế kỷ thứ 20 và nhanh chóng trở lại nhóm này sau sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản. Trung Quốc đạt mức thu nhập trung bình vào năm 1870, và sau đó nước này trở lại vị trí này một lần nữa. Cứ cho rằng Trung Quốc rộng lớn hơn các quốc gia trên, nhưng không có lý do nào để nghĩ rằng là quốc gia rộng lớn thì tạo được sự khác biệt. Các số liệu thống kê trong lịch sử cho thấy không có sự tương quan nào giữa quy mô diện tích của một quốc gia và tăng trưởng kinh tế của nó.
Vị trí tương đối của Trung Quốc vào năm 2020 có vẻ như là một định mệnh lạ lùng giống như vị thế của Trung Quốc hồi năm 1870, và của Brazil, Mexico và Nga ngày nay. Không có lý do đặc biệt nào để tin rằng Trung Quốc của năm 2020 sẽ thành công hơn nhóm nước còn lại. Có lẽ, quan điểm tiên phong hành động của Trung Quốc đối với vấn đề phát triển sẽ cho phép nước này thế hiện sức mạnh thông qua nhóm các nước có vị trí trung bình trong hệ thống xếp hạng thu nhập toàn cầu, bất chấp hiện trạng của Trung Quốc: xã hội dân sự yếu ớt, dân số đang già đi, và môi trường bị tàn phá. Đã trở lại được vị thế như đã có trong thế kỷ 19 khi so với phương Tây, Trung Quốc sau cùng có thể giành lại được ưu thế của mình với so phương Tây như trong thế kỷ 13. Cấu trúc không phải là số mệnh. Và nếu Trung Quốc vượt qua những giới hạn của mình, thì có thể dẫn đến quá trình tái tổ chức toàn diện hệ thống quốc tế.
Nhưng nên thận trọng hơn khi xem thái độ “có thể làm được” nổi tiếng của Trung Quốc như là bước cao hơn của thái độ “đã làm được”: nghĩa là nên tự hào chính đáng về những thành quả đạt được gần đây hơn là thổi phồng về tín hiệu dự báo thành công trong tương lai của Trung Quốc. Giống như các nước có thu nhập trung bình khác, Trung Quốc sẽ tiếp tục có khả năng tăng trưởng nhanh hơn các nước phương Tây một chút, mặc dù không nhanh bằng giai đoạn 1990-2010, với tính chất bất ổn nhiều hơn. Nhưng dân số Trung Quốc sẽ bắt đầu sụt giảm ngay sau năm 2020, trong khi dân số Mỹ sẽ tiếp tục tăng lên. Do vậy, quy mô tổng thể của nền kinh tế Trung Quốc có thể khó đạt mức độ tương đương với quy mô nền kinh tế Mỹ trong thời gian còn lại của thế kỷ 21. Điều này không phải để nói rằng Trung Quốc sẽ không trở thành một tay chơi quan trọng của thế giới. Thậm chí nếu Trung Quốc chỉ vươn tới mức ngang bằng Mỹ về khía cạnh tổng giá trị GDP và chỉ đạt khoảng 1/4 so với GDP bình quân đầu người của Mỹ, nước này vẫn được xem là một cường quốc. Trung Quốc sẽ trở thành quốc gia quan trọng hàng thứ hai trên thế giới.
Nhưng dựa vào mạng lưới liên minh rộng lớn và vị trí địa-chiến lược của Mỹ, bá quyền của nước Mỹ không bị đe dọa bởi sự trỗi dậy của Trung Quốc. Mỹ được bao quanh bởi những đồng minh lâu đời (Canada và những quốc gia Tây Âu) hoặc các quốc gia không phải là đối thủ, ổn định nhưng không mạnh (Mỹ Latin). Những nước láng giềng của Trung Quốc gồm: Nhật Bản giàu mạnh, Việt Nam và Hàn Quốc đang vươn lên, Ấn Độ và nước Nga khổng lồ, và một loạt các quốc gia yếu kém hoặc đang trên đà suy yếu tại Trung Á và Đông Nam Á. Mỹ đang giữ vị thế thống trị tối cao trên các đại dương, các vùng trời và ngoại tầng không gian; Trung Quốc đang phải hết sức cố gắng duy trì trật tự trong chính lãnh thổ của mình. Trung Quốc sẽ, và một cách hợp pháp, nên đóng một vai trò ngày càng gia tăng trong vũ đài chính trị Châu Á và thế giới, nhưng Trung Quốc không ở vị trí thống trị, ngay cả ở Châu Á, chứ đừng bao giờ nói đến chi phối thế giới.
Các chuyên gia có lẽ thích có cơ hội nghiên cứu về một “tương lai sau thời kỳ của Mỹ”, trong đó cả thế giới phải học tiếng phổ thông Trung Quốc, nhưng hiện thực cho rằng điều này không thể xảy ra trong thế kỷ này. Đã đến lúc bắt đầu cư xử với Trung Quốc như là một đất nước rộng lớn nhưng bình thường. Phần còn lại của thế giới không nên thích thú hoặc sợ hãi về viễn tượng thống trị của Trung Quốc. Để sang một bên sự hoang mang và cường điệu, người ta nên nhìn ở Trung Quốc là một đất nước đã phải chịu đựng tấn bi kịch khủng khiếp qua 200 năm, và quốc gia này sau cùng đang trở lại trạng thái bình thường. Đây là điều tốt – cho Trung Quốc, cho Mỹ, và cho thế giới. Nếu hệ thống quốc tế nhìn nhận lại Trung Quốc, và Trung Quốc nhìn nhận lại bản thân mình như là một nước tham gia quan trọng, nhưng không phải là nắm hết mọi quyền lực trong hệ thống toàn cầu, những nỗi sợ vô lý sẽ giảm bớt ở tất cả các bên, và đúng như vậy. Trung Quốc của ngày mai có nhiều khả năng phải tập trung vào việc đáp ứng nhu cầu của chính người dân Trung Quốc hơn là xây dựng mình thành một tân bá chủ thế giới.
Salvatore Babones là Giảng viên Cao cấp về Chính sách Xã hội và Xã hội học tại Đại học Sydney, Australia.
----------------------------------
Sự cường điệu và thực tế về sự trỗi dậy của Trung Quốc
Salvatore Babones
Nguồn: Foreign Affairs, tháng Chín/tháng Mười 2011
Trần Ngọc Cư dịch
Ngày 18 tháng 9 năm 2011
.
.
.
No comments:
Post a Comment