Saturday, July 18, 2009
NHỮNG TIẾNG GỌI LÊN ĐƯỜNG
Những tiếng gọi lên đường
Quỳnh Giao
Tuesday, July 14, 2009
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=97996&z=97
Thấm thoát vậy mà chúng ta lại sắp tới Tháng Tám.
Bước qua Tháng Tám là ta phải bóc tấm lịch ngày 20 Tháng Bảy, ngày ký kết Hiệp Ðịnh Genève chia đôi đất nước. Ngày mà nhiều người chúng ta ở trong Nam đã gọi là “Ngày Quốc Hận”, trước khi có một ngày quốc hận khác vào cuối Tháng Tư.
Sang đến Tháng Tám là biến cố gọi là “Cách Mạng Tháng Tám”, khi nơi nơi đã trỗi lên tiếng gọi lên đường và từ đó là xuống dốc, xuống mãi cho đến Genève 54 hay Tháng Tư 75.
Trong những biến động xa xưa ấy, dân ta đã “khóc cười theo mệnh nước nổi trôi” và đã... hát như thế nào? Bây giờ, giữa hoàn cảnh hiện tại mà đến cỏ cây gỗ đá cũng còn thấy vận nước đang nổi trôi vào nơi buồn thảm bi thương nhất, thì chúng ta đang... hát như thế nào?
Giữa thập niên 30 của thế kỷ trước, khi phong trào Hướng đạo bắt đầu du nhập vào Việt Nam, khuynh hướng ngợi ca thanh niên và tuổi trẻ đã hòa nhập cùng những dòng nhạc đầu tiên của nền tân nhạc cải cách Việt Nam. Những nhạc sĩ tiên phong của nền tân nhạc ấy đã đưa âm nhạc trôi cùng vận nước với những hành khúc hào hùng cho tuổi trẻ và các bài hát ngợi ca lịch sử cho cả dân tộc. Kế tiếp là phong trào kháng chiến chống Pháp cuồn cuộn trào dâng, thanh niên ca trở thành kháng chiến ca và đóng góp một phần không nhỏ cho sự chuyển mình lịch sử.
Ðấy là thời của các nhạc sĩ Hùng Lân, Hoàng Quý, Lê Thương hay Lưu Hữu Phước, mở đường cho các bản chiến trường ca bất hủ của Văn Cao, Văn Giảng, Ðỗ Nhuận, Phạm Duy hay Phan Huỳnh Ðiểu, Phạm Ðình Chương. Thời ấy, chúng ta quả là đã hát lên tiếng đập con tim của cả một dân tộc đang trào dâng bầu máu nóng của tuổi xanh.
Sau đấy mới là những bẽ bàng của lịch sử, của “cách mạng” trong ngoặc kép. Là những đợt thanh trừng các nghệ sĩ đã hiến thân cho cách mạng của dân tộc và nay được lệnh phải kẻ khuông nhạc khác, hát thể điệu khác để ngợi ca những điều hẹp hòi, nghiệt ngã và sắt máu. Cũng vì đấy mà dòng nhạc bị chia hai cùng với đất nước thương yêu.
Trong niềm đau của sự chia ly, nhiều nghệ sĩ đã đắn đo chọn lựa mà sau đành phải rời xa quê hương yêu dấu đi tìm tự do. Nhưng là tự do trên cùng một lãnh thổ của tổ quốc. Phong trào di cư vào Nam đã kéo theo một lớp nhạc sĩ đông đảo của Miền Trung, Miền Bắc.
Ngợi ca Miền Nam tự do với nắng ấm hiền hòa, lớp nghệ sĩ này không quên được đất cũ và viết ra những dòng nhạc hoài hương tuyệt vời. Cả một miền Nam đã vang lừng các ca khúc ấy, của Vũ Thành, Hoàng Trọng, Ðan Thọ, Xuân Tiên, Nguyễn Hiền, Nhật Bằng. Hòa chung trong dòng nhạc luyến nhớ quê hương cũng có các nhạc khúc của Văn Phụng, Châu Kỳ, Lê Trọng Nguyễn lẫn các bài ca hoài niệm của Hoàng Giác hay Tô Vũ, khi ấy vẫn ở tại Miền Bắc.
Bây giờ mà nhớ lại thì trong hai chục năm giữa hai thập niên 30 và 50, chúng ta đã hát tình đoàn kết thiêng liêng của “Hội nghị Diên Hồng” hay “Bắc Nam Trung cùng nhau ta kết đoàn” và ý chí Lam Sơn để rồi nức nở về hận phân ly, về nỗi niềm xa quê hương. Tâm sự ấy của mấy thế hệ đã được phổ vào nhạc, viết thành thơ và đánh dấu một giai đoạn bi hùng của đất nước, cũng là một giai đoạn phong phú của tân nhạc.
Trong nửa thế kỷ kể từ khi nhạc cải cách xuất hiện và giữa những thăng trầm của đất nước, dân ta đã nghe, hát, yêu thích và còn hát lại các ca khúc này, mà giờ đây có khi mình gọi là “nhạc Tiền chiến”.
Nhưng sau đấy và từ nhiều năm qua, nền tân nhạc của Việt Nam đã đổi khác. Ðành rằng người ta hết hát các ca khúc hoài hương vì hầu như ai ai cũng có thể trở về thăm viếng nơi chốn cũ. Tuy nhiên, hình như các sáng tác mới lại không chỉ bị Mỹ hóa, Tây hóa mà có khi bị Hán hóa hoặc Ðại Hàn hóa, Hong Kong hóa... với đề tài mới, giai điệu khác và với lời ca hết được óng chuốt và đậm sâu ý nghĩa như xưa. Xin hãy xem hoặc nghe các nhạc khúc gọi là thời thượng ngày nay thì biết.
Trong khi ấy thì dù có bịt tai hay dõi mắt trông theo chuyện Michael Jackson, chúng ta cũng chẳng là gỗ đá vô tri mà không thấy rằng đất nước thân yêu đang có rất nhiều vấn đề, từ bên trong xã hội ra tới bên ngoài, nhất là với một quốc gia láng giềng đầy hống hách. Chúng ta nghĩ sao và hát gì trước những thảm kịch đó?
Nếu Phạm Ðình Chương mà còn và muốn viết lại “Tiếng dân chài”, ông sẽ viết gì về số phận ngư phủ Việt Nam ngoài biển Ðông?
Nếu Phạm Duy mà có viết một ca khúc lãng mạn như “Tình kỹ nữ”, thì lời ca bây giờ có gợi lên thảm cảnh xã hội của các phụ nữ Việt Nam ngày nay không?
Nếu một người như Lưu Hữu Phước có muốn gióng lên lời hô của “Hội nghị Diên Hồng” trước nhục nước ngày nay đã hết che giấu được thì ông có còn hào khí không?
Mà có được viết không đã?
Nhưng tại sao chúng ta cứ hỏi người xưa?
Các nhạc sĩ đang sáng tác ngày nay có cảm thấy nỗi đau của dân tộc và đất nước không?
Hiện diện ngay tại chỗ, họ có viết nhạc như các thế hệ đi trước để diễn tả nỗi đau trước mắt ấy hầu đánh thức tuổi trẻ hay không?
Hình như là không.
Phải chăng chúng ta đã trở thành vô cảm và âm nhạc của chúng ta đã mất hết khả năng kỳ diệu của nghệ thuật?
--------------------------------------------------------------------------------
70 Năm Tình Ca Trong Tân Nhạc Việt Nam
(1930 - 2000)Trích từ SBS radio (Úc Châu) do Hoài Nam biên soạn
http://www.ngaydochungminh.com/70NamTinhCa/70NamTinhCa.html
Notes: Bạn cần có Windows Media để nghe chương trình này. Download Windows Media
Phần 01: 1930 Nguyễn Văn Tuyên, Đặng Thế Phong
Phần 02 1940 Lê Thương
Phần 03: Văn Cao phần 1
Phần 04: Văn Cao phần 2
Phần 05: Dương Thiệu Tước
Phần 06: 1945-1946
Phần 07: Thẩm Oánh , Canh Thân, Tô Vũ, Nguyễn Thiện Tơ
Phần 08: Thế nào là nhạc tiền chiến
Phần 09: Pham Duy Nhượng, Lê Hoàng Long, Tu Mi, Võ Đức Phấn
Phần 10: Lưu Hữu Phước, Trần Hoàn, Tô Hoài, Tô Vũ
Phần 11: Hoàng Giác, Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Văn Tí
Phần 12: Nguyễn Thiện Tơ, Nguyễn Văn Quỳ, Hoàng Dương
Phần 13: Đoàn Chuẩn - Từ Linh
Phần 14: Phạm Duy, Hoàng Trọng, Ngọc Bích
Phần 15: Văn Giảng, Châu Kỳ
Phần 16: Anh Việt, Lâm Tuyền
Phần 17: Tổng kết giai đoạn 1938-1954
Phần 18: Hoàng Trọng
Phần 19: Ngọc Bích, Xuân Tiên
Phần 20: Vũ Thành, Đan Thọ
Phần 21: Phạm Duy
Phần 22: Lê Trọng Nguyễn
Phần 23: Hoàng Nguyên
Phần 24: Lê Mộng Nguyên, Nguyễn Hiền, Nhật Bằng
Phần 25: Phạm Đình Chương 1
Phần 26: Phạm Đình Chương 2
Phần 27: Văn Phụng
Phần 28: Hoàng Thi Thơ
Phần 29: Nguyễn Văn Đông
Phần 30: Tuấn Khanh
Phần 31: Y Vân
Phần 32: Anh Bằng
Phần 33: Minh Kỳ
Phần 34: Lê Dinh
Phần 35: Phạm Mạnh Cương, Phạm Trọng Cầu
Phần 36: Lam Phương
Phần 37: Trúc Phương
Phần 38: Huỳnh Anh
Phần 39: Khánh Băng
Phần 40: Duy Khánh
Phần 41: Mạnh Phát
Phần 42: Nhật Trường
Phần 43: Hoài Linh
Phần 44: Song Ngọc
Phần 45: Nhật Ngân, Thanh Sơn
Phần 46: Nguyễn Ánh 9
Phần 47: Đỗ Lễ, Bảo Thu
Phần 48: Hoài An, Nguyễn Vũ
Phần 49: Trường Hải, Dzũng Chinh, Hàn Châu
Phần 50: Cung Tiến phần 1
Phần 51: Cung Tiến phần 2
Phần 52: Thanh Trang, Anh Việt Thu
Phần 53: Phạm Thế Mỹ
Phần 54: Trầm Tử Thiêng Phần 1
Phần 55: Trầm Tử Thiêng Phần 2
Phần 56: Trường Sa
Phần 57: Từ Công Phụng
Phần 58: Trịnh Công Sơn Phần 1
Phần 59: Trịnh Công Sơn Phần 2
Phần 60: Lê Uyên Phương Phần 1
Phần 61: Lê Uyên Phương Phần 2
Phần 62: Vũ Thành An
Phần 63: Ngô Thụy Miên Phần 1
Phần 64: Ngô Thụy Miên Phần 2
Phần 65: Ban Nhạc Trẻ Phượng Hoàng_Phần 1
Xuân Kỷ Sửu: Xuân Trong Tân Nhạc Viêt Nam
Phần 66: Ban Nhạc Trẻ Phượng Hoàng_Phần 2
Phần 67: Đức Huy, Nam Lộc, Quốc Dũng, Tùng Giang
Phần 68: Phạm Duy Phần 1
Phần 69: Phạm Duy Phần 2
Phần 70: Phạm Duy Phần 3
Phần 71: Phạm Duy Phần 4
Phần 72: Tổng Kết Thời Kỳ Thứ 2 Trong 70 Năm Tình Ca
Phần 73: Thời Kỳ Sau 1975 Phần 1
Phần 74: Thời Kỳ Sau 1975 Phần 2
Phần 75: Trầm Tử Thiêng
Phần 76: Hoàng Thi Thơ, Phạm Duy, Song Ngọc, Anh Bằng, Đăng Khánh
Phần 77: Tùng Giang, Duy Quang
Phần 78: Đức Huy
Phần 79: Trần Quảng Nam, Vũ Tuấn Đức, Hoàng Quốc Bảo, Margurerite Phạm
Phần 80: Nguyệt Ánh, Việt Dũng, Duy Trác, Trần Ngọc Sơn
Phần 81: Đăng Khánh
Phần 82: Trúc Hồ
Phần 83: Lê Tín Hương, Trịnh Nam Sơn, Hoàng Thanh Tâm, Đỗ Cung La, Anh Tài, Đặng Hiền
Phần 84: Ngô Thụy Miên
Phần 85: Lam Phương
Còn Tiếp.....
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment