Thursday, October 2, 2008

VẤN ĐỀ BẠO LỰC

Vấn đề bạo lực
Nguyễn Đức Cung
Đăng ngày 30/09/2008 lúc 03:48:07 EDT
http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=3142

Sau biến cố ngày 11 tháng 9 năm 2001 với sự kiện Tòa Tháp Đôi (Twin Towers) ở New York (Hoa Kỳ) bị phá hoại qua cái chết thảm khốc của hơn năm nghìn người dân Hoa Kỳ và một số người các nước khác, người ta nói nhiều đến vấn đề bạo lực (violence), lên án và đặt ra các tổ chức an ninh cấp địa phương và quốc gia nhằm ngăn chận bạo lực hoành hành tại nước Mỹ và trên khắp thế giới, thí dụ, Bộ An Ninh Nội Địa (Home Security Department) do Tổng Thống Hoa Kỳ George W. Bush thành lập sau biến cố Sept. 11, 2001. Từ ngữ tiếng Việt có những chữ như bạo lực, bạo quyền, bạo loạn, bạo hành, bạo động, bạo chúa, bạo tàn, bạo bệnh, bạo chính, bạo nghịch, bạo ngược, bạo phát, bạo quân, bạo hổ bằng hà (hành động liều lĩnh, không có suy nghĩ chín chắn) cho người ta nhiều ý niệm phong phú về chữ bạo. Vấn đề bạo lực thật ra không phải là một cái gì mới mẻ nhưng đã có một lịch sử rất xưa cùng với sự xuất hiện của con người trên trái đất. Từ khi có con người là đã có bạo lực, và bạo lực đã được nhìn như một triết lý hành động, được áp dụng dưới nhiều chế độ chính trị qua thời gian cho đến thời đại ngày nay đặc biệt đối với vụ Tòa Khâm Sứ và giáo xứ Thái Hà dưới chế độ Cộng Sản tại Việt Nam thời gian gần đây.

1.- Bạo lực qua lăng kính tôn giáo, triết lý và lịch sử dưới ảnh hưởng nền triết học Á Đông

Ngày xưa Mạnh Tử, một vị á thánh của Trung Quốc có nói “Nhân chi sơ, tính bản thiện” (người thuở ban đầu tính vốn thiện) nhưng một vị môn đồ khác của Khổng giáo là Tuân Tử lại chủ trương “Nhân chi sơ tính bổn ác” (người thuở ban đầu, tính vốn ác). Ở đây chúng ta không tranh luận về vấn đề điều thiện hay cái ác thứ nào có trước nhưng một quan điểm có thể có sự đồng ý chung là bạo lực xuất phát từ tâm thức của con người mà nguyên do chính là vì sự đố kỵ và lòng tham lam.

Sách “Sáng Thế” (4, 1-15) trong Cưụ Ước đã kể lại câu chuyện bạo lực đầu tiên của loài người khi Cain, người con đầu của Ađam (và Eva) giết em mình là Aben chỉ vì Chúa đoái thương Aben và lễ vật y phụng hiến. Sự đố kỵ mặc dù là với em mình đã khiến bàn tay Cain vấy máu và Thiên Chúa rất công bình khi phán quyết cùng Cain: “Vậy nay ngươi phải vô phước trên mặt đất, vì đất đã mở miệng hút máu em ngươi do tay ngươi đổ ra; ngươi cày bừa ruộng đất mà chẳng thu được hoa trái, ngươi sẽ đi dông dài trốn tránh trên mặt đất.” [1]. Sách “Sáng Thế” cho biết khi Cain thưa cùng Đức Chúa về nỗi lo sợ của y sẽ bị người khác gặp mà giết thì Đức Chúa đã trấn an người con đầu của Ađam bằng cách cho y một ám hiệu để biết mỗi khi ai gặp, người ta sẽ không giết y. Nghiệm cho cùng Cain vì gây ra bạo lực (tội ác) nên phải lo sợ bị quả báo bởi vì “thiện ác đáo đầu chung hữu báo, cao phi viễn tẩu giả nan tàng”. Chúng ta không biết rõ Đức Chúa đã cho Cain ám hiệu gì để người ta khi gặp sẽ không giết y, và có lẽ các nhà chú giải Thánh Kinh đã có kiến giải về vấn đề này mà chúng tôi không đủ điều kiện nên chưa đọc tới. Tuy nhiên, cứ theo kinh nghiệm về nhân tướng học Việt Nam rằng “lụa tốt xem biên, người hiền xem tướng”, hoặc “chim khôn kêu tiếng rảnh rang, người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe”, “hiện tượng Cain” hay hiện tượng bạo lực chắc chắn lộ ra từ con người của y (cử chỉ, lời nói, khuôn mặt) và thông qua cái lương tri (bon sens, vốn do Tạo Hóa ban cho) của những kẻ gặp y. Những kẻ làm ác cho dù cố dấu diếm hành tung của mình, và mặc dù cố mai phục dưới biết bao danh từ hoa mỹ chắc chắn không thể nào mà không bị lộ ra. Sách Trung Dung của Khổng Tử đã có nói “ Mạc hiện hồ ẩn, mạc hiển hồ vi” (Không có gì che giấu mà không hiện ra, không có gì nhỏ nhặt mà không hiển hiện) và trong Kinh Tụng Ca của Lễ Cầu Hồn Công Giáo (Requiem) cũng đã có viết : “ Quidquid latet apparebit” (Không có gì che giấu mà không tỏ lộ) dù được viết trong thời khoảng rất xa nhau nhưng cũng chung một quan điểm đó là không có gì che giấu được sự thật.

Kinh nghiệm cho hay người ta có thể bị lầm một lần hoặc hai lần nhưng không thể bị lầm mãi mãi. Goebbels (1897-1945), cựu Bộ trưởng Tuyên Truyền của Hitler đã từng chủ trương từ những năm 30 của thế kỷ XX rằng cứ nói láo, tiếp tục nói láo rồi một ngày kia điều nói láo đó sẽ trở thành sự thật. Luận cứ đó của Goebbels ngày trước cũng có thể lừa bịp được nhân dân Đức trước khi Hitler lên nắm chính quyền (1933) và trong Thế chiến II (1939-1945) nhưng ngày nay đã hoàn toàn bị phá sản vì kỹ thuật thông tin tuyên truyền hiện tại đã quá tiến bộ (mau) và rộng khắp (toàn cầu). Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày nay còn chấp nhận dùng phương pháp cổ lổ sĩ của Goebbels thì chính là tự bóc trần bản chất gian manh của mình trước công luận.

Đối chiếu với lịch sử cận đại Việt Nam, theo Hoàng Văn Chí [2], hai chữ Việt Minh xuất phát từ tổ chức Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội của Hồ Học Lãm lập ra tháng 1 năm 1936 mà Hồ Chí Minh đã cưỡng đoạt lúc còn ở Trung Hoa thường được viết tắt là VM, đọc nhanh là VẸM. Trong tiếng Việt, VẸM có nghĩa con vẹt, nghĩa là nói như con vẹt, tức là nói láo. Lời ví von này có nghĩa là được dạy cho điều gì thì lặp lại điều đó. Cho nên “nói như cán bộ Việt Minh” có nghĩa nói láo như Vẹm, tức giả nhân giả nghĩa như Vẹm. Cụ Hoàng Văn Chí từng là chuyên viên in bạc cho Hồ Chí Minh trong thời gian kháng chiến nhiều năm, đã bỏ về thành nên biết rất rõ chế độ Cộng Sản. Theo cụ Chí cho biết, để tránh bị nhân dân cười cợt hai chữ Việt Minh, là VÊ-EM tức Vẹm, đảng CSVN bèn đổi hai chữ Việt Minh ra Liên Việt nhưng do thái độ ỡm ờ, quờ quạng, phản trắc, không “thiệt nhân thiệt tính” của đảng Cộng Sản Việt Nam và các thành viên trong mặt trận Liên Việt, dân chúng khắp nơi gọi Liên Việt là LỜ VỜ ! Như thế đủ biết quần chúng Việt Nam lúc nào cũng biết cảnh giác, và cảnh giác cao độ chứ không thể để CS lừa bịp dễ dàng.

Sự thật nói ở trên có thể đem đối chiếu với hành động gian ác của bạo quyền Cộng Sản qua vụ Tòa Khâm Sứ và giáo xứ Thái Hà ở Hà Nội trong những tháng ngày qua. Chắc chắn người Công Giáo VN và nhân dân nước Việt đã nhận diện được chân tướng của bọn cầm đầu nhà nước Cộng Sản và không thể lầm mãi với chế độ Cộng Sản được.

Trong triết lý chính trị của Á Đông thời cổ có thể nêu một thí dụ điển hình về việc sử dụng bạo lực là việc nhà Tần (221-206) áp dụng chính sách của Pháp gia trong việc thống nhất Trung Quốc vào thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên. Pháp gia là học phái chủ trương dùng hình phạt, pháp luật, nhất là bạo lực để thôn tính hay thống trị một đất nước.

Theo bản đồ của J. Gernet vẽ nước Trung Hoa vào thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên, nước Tần ở vào một vị trí hẻo lánh lại mang tính chiến lược tại phía tây của quốc gia TH này so với các nước khác thời Chiến Quốc như Ba Thục, Chu, Tống, Lỗ, Tề, Triệu, Yên đa số ở về phía đông, nghĩa là ít bị các nước khác dòm ngó. Nước Tần có cửa ải Hàm Cốc vốn là một vị trí địa lý rất hiểm trở “một người giữ cửa đó thì cự được vạn người”. Tần Thủy Hoàng đã biết khai thác thế địa lý chính trị (geopolitics) của ải quan này mình bằng cách từ phía tây đột nhập tấn kích các nước phía đông rồi sau đó rút lui mà các nước kia không dám mạo hiểm truy kích về phía tây. Chiến lược này về sau đã ảnh hưởng trên chiến lược của Mao Trạch Đông đó là “lấy rừng núi chế ngự nông thôn, lấy nông thôn bao vây thành thị”. Buổi đầu (năm 242) Tần Thủy Hoàng dùng Lã Bất Vi làm Tể tướng, sau đó bãi chức họ Lã và dùng Lý Tư, một môn sinh của Tuân Tử thuộc phái Pháp gia. Trong phái Pháp gia người giỏi hơn cả là Hàn Phi Tử, bạn học của Lý Tư, rất được Tần Thủy Hoàng khâm phục vì nghe tiếng nhưng chưa từng gặp gỡ. Vì đố kỵ tài năng, Lý Tư đã gièm pha Hàn Phi Tử khi ông này tới Tần được ít lâu nên Hàn Phi Tử bị tống giam và bỏ mạng trong ngục. Tuy nhiên điều quan trọng hơn cả trong chính sách của Tần Thủy Hoàng áp dụng sau khi thống nhất được Trung Quốc đó là vua Tần dùng Thương Ưởng hay Vệ Ưởng, cũng là một môn đồ của Pháp gia, và đã dám áp dụng những biện pháp cải cách sắt máu quan trọng trong đó có việc tiêu diệt giai cấp quý tộc mà lập ra một giai cấp mới là giai cấp quân nhân, cũng giống như CS sau này chủ trương “trí, phú, địa, hào đào tận gốc, tróc tận rễ” để theo chính sách chuyên chính vô sản. Theo học giả Nguyễn Hiến Lê, “Tần đã thành công nhờ chính sách độc tài, sự tổ chức chặt chẽ, chiến thuật đại tài, mà cũng nhờ mưu mô xảo quyệt: dùng một bọn do thám cho lẻn vào tất cả các nước, vung tiền ra mua chuộc các đại phu, tướng quân của địch, mua chuộc không được thì ám sát. Những cách đó thành công rồi, lúc đó Tần mới đưa quân vô. Hàn (230), Triệu (228), Ngụy (225), Sở 223, Tề (221) đều vì vậy mà bị diệt.” [3].

Mua chuộc không được thì ám sát, tức là sử dụng bạo lực bởi vì mục đích biện minh cho phương tiện (la fin justifie les moyens). Tuy cùng là học trò của Tuân Tử nhưng hành động của Lý Tư lại khác với Hàn Phi Tử. Bạo lực nói chung là triết lý hành động của những người theo chủ nghĩa Cộng Sản như trường hợp Mao Trạch Đông thủ tiêu Lưu Thiếu Kỳ, Stalin cho giết Trosky tại Mễ Tây Cơ năm 1936, Hồ Chí Minh thanh toán Tạ Thu Thâu, Trương Tử Anh, Huỳnh Phú Sổ, Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi v.v...

2.- Bản chất của bạo lực Cộng Sản qua một số sự kiện lịch sử

Con người hay một tập thể cá nhân quen sử dụng bạo lực xuất phát từ nhiều nguyên nhân trong đó có gia đình, môi trường giáo dục hay xã hội. Nếu là gia đình tốt, có căn bản giáo dục đàng hoàng thì con cái tất nhiên cư xử đúng khuôn phép lễ giáo nhờ đó bạo lực ít khi xảy ra trong đời sống gia đình.

Cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh đã uốn nắn hun đúc ông thành con người của bạo lực vì ảnh hưởng của gia đình, gia tộc của ông, nhưng lại được che dấu dưới rất nhiều lớp son do kỹ thuật sùng bái cá nhân, thần thánh hóa lãnh tụ của guồng máy cai trị thực hiện.

Thân phụ của Hồ Chí Minh là Nguyễn Sinh Sắc đỗ phó bảng năm 1901, làm thừa biện bộ Lễ từ năm 1902 đến 1909 rồi được bổ làm tri huyện Bình Khê (bình Định). Ông Sắc vốn nghiện rượu nên thường hay say. Vào tháng 1-1910, trong một cơn say rượu tri huyện Sắc đã dùng roi mây đánh chết một người tù, tên là Tạ Đức Quang [4]. Vì ông Nguyễn Sinh Sắc có học vị cao nên triều đình cho khỏi bị đánh đòn 100 trượng để giữ thể diện cho ông ta, và ông chỉ bị hạ bốn cấp bậc quan lại và bị sa thải. Theo lời bà Nguyễn Thị Thanh, chị ruột của Hồ Chí Minh cho biết, “bà không thể chịu đựng lâu ngày thái độ cộc cằn thô lỗ của cha bà, nay đã mắc phải tật nghiện rượu và thường hay đánh đập bà.” [5]

Trong bài viết “Lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh của một số nhà trí thức Nho gia” in trong cuốn sách Trong Cõi, (Nxb Trăm Hoa, California, 1993) nhà sử học Trần Quốc Vượng cho biết ông Nguyễn Sinh Sắc thật sự không phải là con của ông Nguyễn Sinh Nhậm mà chính là con của cử nhân Hồ Sĩ Tạo ở làng Quỳnh Đôi huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Bà Hà Thị Hy vốn có thai với ông Hồ Sĩ Tạo, được gia đình gả cho anh dân cày nhưng tương đối có của mà tuổi cao, lại góa vợ là Nguyễn Sinh Nhậm để tránh tai tiếng cho gia đình là có con gái chửa hoang. Sự việc này được nhiều người ở làng Sen biết nhưng ai cũng để bụng nhất là khi ông Hồ đã lên làm chủ tịch nước VNDCCH. Một lai lịch gia đình tai tiếng và bất minh như vậy, một ông cha nghiện ngập đến luôn luôn sử dụng bạo lực, thượng cẳng tay hạ cẳng chân với con cái trong gia đình lại có tiền án đánh chết người như Nguyễn Sinh Sắc, tất nhiên là có ảnh hưởng rất xấu trên con cái trong nhà như Nguyễn Sinh Cung hay Nguyễn Tất Thành hoặc Hồ Chí Minh.

Với chính quyền Cộng Sản tại Việt Nam, từ năm 1945 bạo lực đã được công khai sử dụng như là một phương tiện hữu hiệu để tiêu diệt các thế lực mà họ coi là thù nghịch như các chính đảng quốc gia Việt Quốc, Đại Việt, Duy Dân, Dân Xã, các nhân vật Công Giáo, Phật Giáo có uy tín, v.v... mà rất nhiều tư liệu đã đề cập đến.

Trong nội bộ đảng Cộng sản, bạo lực và thủ đoạn cũng được sử dụng để tranh dành quyền lực, bịt miệng đối thủ, khỏa lấp sự thật mà bản thân những người lãnh đạo như Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp đã từng có những kinh nghiệm cá nhân.

Với Hồ Chí Minh, ngay từ năm 1925, đã từng cấu kết với Lâm Đức Thụ bán cụ Phan Bội Châu cho thực dân Pháp lấy 100.000 quan để cướp quyền lãnh đạo các lực lượng cách mạng Việt Nam ở Trung Hoa như Tâm Tâm Xã, biến các cán bộ của tổ chức này thành cán bộ CS.

Năm 1930, Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai đã từng hứa hôn với nhau khi qua Trung Quốc làm việc tại Đông Phương Bộ Quốc tế Cộng Sản. Năm 1931, Nguyễn Thị Minh Khai bị mật thám Pháp bắt và thả ra năm 1934. Lúc này Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai được chọn làm đại biểu đi dự Đại Hội Quốc Tế Cộng Sản lần thứ 7 tổ chức tại Liên Xô. Lê Hồng Phong lên đường về nước trước còn Nguyễn Thị Minh Khai ở lại thụ huấn với Hồ Chí Minh để tham dự đại hội. Sự gian díu của Hồ Chí Minh với Nguyễn Thị Minh Khai trong thời gian ngắn này đã dẫn đến việc Nguyễn Thị Minh Khai có thai. Khi hai người này đến Liên Xô, tổ chức Đảng CSLX đã có những can thiệp để hai người chính thức thành hôn với nhau. Lê Hồng Phong bị bắt ở Chợ Lớn năm 1938 sau khi chia tay với Hồ Chí Minh tại Hongkong để về nước. Nhà nghiên cứu sử học Minh Võ nêu nhận xét: “Cuộc gặp gỡ giữa Lê Hồng Phong và Hồ Chí Minh diễn ra hết sức bí mật nên việc bị bắt của lê Hồng Phong cũng thành một nghi vấn là có thể do bàn tay hãm hại của ông Hồ vì ông vẫn biết Lê Hồng Phong chưa nguôi thù hận về câu chuyện tình với Minh Khai nên rat ay trừ khử.”[6].

Đối với những người cán bộ CS do Liên Xô huấn luyện, được cử về Việt Nam hoặc Trung Hoa hoạt động bên cạnh Hồ Chí Minh để theo dõi họ Hồ, Hồ Chí Minh cũng tìm cách dùng bạo lực để thanh toán. Cụ thể là ngày 16-8-1945, khối này được gọi là khối Ly Khai đã bị Việt Minh tấn công ở Ô Cầu Giấy khiến cho một số tử nạn và một số thoát được như Hồ Tùng Mậu, Lâm Đức Thụ, Nguyễn Công Tuyền, Tạ Thu Thâu, Đào Tuấn Kiệt, Lê Ngọc Huỳnh, Trần văn Mại...

Tuy nhiên nhóm Đệ Tứ Quốc Tế vẫn là nhóm bị Hồ Chí Minh và đảng CS Đông Dương thù ghét nhất. Trong một chỉ thị nhắc cho Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chúng ta không thể nhượng bộ điều gì cho nhóm Tờ-Rốt-Kít. Chúng ta phải làm tất cả mọi việc có thể được để lộ mặt nạ của chúng là những con chó của Phát Xít và tiêu diệt chúng về chính trị.” (Minh Võ, Sách đã dẫn, tr. 64).

Sau vụ Ô Cầu Giấy, Tạ Thu Thâu trở về Nam bằng hỏa xa. Đến Quảng Ngãi, ông ghé thăm người con của Nguyễn An Ninh vào tháng 9-1945, bị cán bộ Việt Minh phát hiện và bắt giết tại bờ biển Mỹ Khê, Quảng Ngãi. Trong thời gian ở Pháp tham dự hội nghị Fontainebleau, khi trả lời Daniel Guérin, một đảng viên đảng Xã Hội Pháp hỏi về cái chết của Tạ Thu Thâu, Hồ Chí Minh giả bộ buồn rầu trả lời: “Ông Tạ Thu Thâu là một nhà ái quốc; chúng tôi đau buồn khi hay tin ông mất...” Và khi Guérin hỏi tiếp ai là thủ phạm trong vụ ám sát này, Hồ Chí Minh khẳng quyết: “Tất cả những ai đi trái với đường lối của tôi vạch ra đều sẽ bị tiêu diệt...”

Việc Phùng Chí Kiên bị giết cũng do Hồ Chí Minh thực hiện qua Võ Nguyên Giáp. Vì Phùng Chí Kiên vừa biết quá nhiều về dĩ vãng của Hồ Chí Minh vừa được Liên Xô tín nhiệm nên được giao nắm lực lượng vũ trang trên cả Võ nguyên Giáp. Sư có mặt của Phùng Chí Kiên sẽ khiến Hồ Chí Minh khó nắm trọn quyền lực (Minh Võ, Sđd, tr. 248).

Trong tác phẩm Đêm giữa ban ngày, nhà văn Vũ Thư Hiên đã nói đến trường hợp Nông Thị Xuân bị Hồ Chí Minh ra lệnh cho Trần Quốc Hoàn thanh toán sau khi có với Hồ một đứa con trai tên Nguyễn Tất Trung càng chứng tỏ khả năng sử dụng bạo lực của “bác” ngay cả đối với người thiếu nữ nhà quê chơn chất, thật thà từng là đồ chơi của mình.

Từ năm 1954, sau khi chế độ CS chiếm được một nửa VN, đảng CS đã tiến hành thanh toán bằng thủ đoạn và bạo lực các thành phần trí thức Miền Nam theo CS như Bùi Công Trừng, Nguyễn Văn Trấn, mà một số tư liệu đã vạch trần sự thật trước công luận nhân dân. Từ năm 1975 đến nay, hành vi bạo lực vẫn tiếp tục được sử dụng để tranh quyền đoạt chức, thanh toán các tranh chấp nội bộ. Chẳng những thế, bạo lực còn là tiếng nói đè bẹp công lý, ngăn chận các vụ khiếu kiện của dân oan, chà đạp tự do tôn giáo, thủ tiêu các trào lưu đấu tranh cho tự do, dân chủ của người dân Việt Nam. Các cụm từ như “bạo lực cách mạng”, “bạo lực chuyên chính vô sản” vốn được chính quyền CSVN công khai sử dụng như khẩu hiệu thường ngày của họ để kích động thú tính trong lòng người cán bộ CS đồng thời là lực răn đe đối thủ, đối phương.

Qua biến cố Tòa Khâm Sứ và giáo xứ Thái Hà, người Công Giáo Việt Nam đã và đang đối diện với bạo lực của chính quyền CS cụ thể là những vụ việc đàn áp đã xảy ra trong các ngày 28 và 31-8-2008 tại Thái Hà mà cao điểm là chính quyền đã dùng bạo lực để biến khu đất Tòa Khâm Sứ ngày 19-9 và Linh địa Đức Bà của Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội trong tuần qua thành công viên cây xanh, một hình thức cưỡng đoạt vật sở hữu của tôn giáo.

3.- Người Công Giáo Việt Nam phải làm gì trước chính sách bạo lực của ngụy quyền Cộng Sản?

Cộng Sản sở dĩ khai thác được sức mạnh của bạo lực vì biết rằng bản tính tâm lý con người là lúc nào cũng sợ, cũng muốn yên ổn trong cuộc sống chứ không muốn bị quấy rầy, phiền phức. Cộng Sản có nhiều kinh nghiệm áp dụng bạo lực đối với các thành phần dân chúng trong đó có cả trí thức, nông dân, đảng phái, tôn giáo. Ngoài ra Cộng Sản còn có cả một kho tri thức về phương cách áp dụng bạo lực học được từ các nước trong khối CS trên thế giới trước đây đặc biệt là Liên Xô, Trung Quốc và các quốc gia theo phe Xã hội Chủ nghĩa. Thêm vào đó, Cộng Sản Việt Nam còn có khả năng sáng chế ra các thủ thuật áp dụng bạo lực cách tinh vi, độc hiểm của riêng mình mà những ai trải qua nhiều năm tháng trong lao tù của chúng đều phần nào hiểu biết. Các phương tiện nhân sự đông đảo, tiền bạc rất dồi dào của đảng CSVN là nguồn hỗ trợ mãnh liệt cho chính sách bạo lực mà trong cuộc đối đầu này giữa bạo quyền với tôn giáo, có người đã ví như trứng chọi đá.

Trước hết người Công Giáo Việt Nam phải chuẩn bị cho mình một tinh thần dứt khoát, đó là không sợ bạo lực. Sau khi Cain giết Aben, y cảm thấy sợ về hành động sát nhân của mình và tìm cách lẩn trốn Thiên Chúa. Tâm lý biết sợ của Cain sở dĩ có là vì y đã biết mình làm việc trái với nhân luân. Người Công Giáo cầu nguyện để đòi công lý và sự thật, không đòi lật đổ chính quyền, không làm việc gì vi phạm luật pháp mà hành động trong khuôn khổ của đức tin. Thật sự, những kẻ manh tâm thi hành bạo lực như bọn công an với chó nghiệp vụ, bọn thanh niên du đảng Hồ Chí Minh, bọn cai nghiện côn đồ, mới chính là những kẻ mang tâm lý sợ sệt vì chúng gây ra tội ác. Cần phải khuếch tán tinh thần “vô úy” (không biết sợ) trong đơn vị gia đình để người chồng hỗ trợ cho người vợ, cha mẹ nâng đỡ khuyến khích con cái, anh chị em yểm trợ cho nhau, người trong giáo xứ khích lệ lẫn nhau. Trên một bình diện rộng hơn, tinh thần vô úy phải được coi là một triết lý sống giữa những người còn có chút thiện tâm đối với một xã hội băng hoại về mọi thứ đạo đức một khi tiền bạc được coi là thước đo giá trị con người. Khi tạo được cho mình một tâm thức “vô úy”, con người sẽ trở nên bình tĩnh hơn để đối phó khôn ngoan với các thực tế chung quanh, nhất là đối phó với các mưu ma chước quỷ của chính quyền CS. Với tinh thần vô úy, con người nhận thức được giá trị thực tại tâm linh của cuộc sống, giá trị của nhân phẩm với các chiều sâu nội tâm mà Thiên Chúa đã đặt để trong từng người. Xã hội Việt Nam hôm nay cần một luồng gió mới thổi từ những tâm hồn công chính, không biết sợ cường quyền và bạo lực, sẽ được thay da đổi thịt ít nhất là về phương diện tinh thần với não trạng mới. Tinh thần hiệp thông qua hình ảnh Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt đi thăm gia đình những người có thân nhân bị chính quyền bắt trong vụ việc Thái Hà và nhất là sự hiệp thông của toàn thể các giáo phận ở trong nước và các giáo xứ, cộng đoàn, đoàn thể khắp nơi trên thế giới đã là yếu tố quan trọng khích lệ tinh thần phấn chấn hy sinh cho mục tiêu đòi công lý của giáo dân tại Tổng giáo phận Hà Nội cũng như tại giáo xứ Thái Hà, không sợ bạo lực và sẵn sàng đương đầu với bạo lực bằng tinh thần cầu nguyện của mình.

Trong nỗ lực tạo cho mình tinh thần “vô úy” đó, người Công Giáo Việt Nam tìm đến nguồn ân sủng khích lệ nhất đó là Các Thánh Tử Đạo Việt Nam bởi vì Các Ngài đã bày tỏ tinh thần “vô úy” đến mức cao điểm nhất với sự hiến dâng mạng sống của mình vì đức tin. Các Ngài đã chịu biết bao hình thức tàn ác của bạo lực như đánh đập, tù ngục, chửi bới, khắc chữ vào mặt, bị gọi là “tả đạo”, “dữu dân” (dữu là một thứ cỏ dại), bị phân sáp, không được làm việc mục vụ như đọc kinh, xem lễ, bị cướp hết mọi tài sản như ruộng đất, tiền bạc, nhà cửa và nhiều hình thức của cái chết như chết rũ tù, bị lăng trì, xử giảo (thắt cổ), chém đầu, chém ngang lưng, voi giầy, ngựa xéo v.v... Chính Các Thánh Tử Đạo VN, tiền nhân của chúng ta, sẽ phù hộ cho con cháu thoát khỏi nỗi sợ hãi thường tình, trở nên cam đảm, vượt thắng bạo lực.

“Đừng sợ...” là lời dạy của Đức Kitô nói với các Tông đồ thuộc Nhóm Mười Hai, cũng là thông điệp mà Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolồ II nói với người Công Giáo Ba Lan năm 1979 khi Ngài về thăm quê hương của mình để từ đó sức mạnh của đức tin tiến lên như ánh sáng đẩy lùi bóng tối. Một khi tinh thần “vô úy” trở thành phổ biến trong xã hội Việt Nam, thái độ “không sợ” đã trở thành bản lĩnh của mọi người dân Việt thì chắc chắn bạo quyền phải lùi bước.

Thứ đến, người Công Giáo Việt Nam phải vững tin vào mục tiêu tranh đấu của mình đó là đòi cho được công lý và sự thật. Xã hội Việt Nam hôm nay thật sự không vắng bóng công lý và sự thật. Vì không có công lý cho nên tham nhũng đã hoành hành từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài. Vì không có công lý cho nên xảy ra biết bao nhiêu vụ khiếu kiện của người dân khắp nơi vốn bị cướp đất, cướp ruộng một cách bất công mà không hề được chính quyền lưu tâm giúp đỡ.

Ngày 26-9-2008, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã công bố bản “Quan điểm của Hội đồng Giám Mục Việt Nam về một số vấn đề trong hoàn cảnh hiện nay” gồm ba điểm nhận xét về tình hình và ba điểm đề nghị cụ thể gọi là quan điểm nhằm giải quyết tình hình hiện nay. Đọc bản quan điểm này, người ta thấy Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nhận định rất sâu sát rõ ràng về tình hình đất nước hiện nay thông qua vụ việc Tòa Khâm Sứ và giáo xứ Thái Hà, đồng thời chỉ ra những hướng đi giải quyết cụ thể nói lên thiện chí đóng góp ý kiến của các vị lãnh đạo Công Giáo tại Việt Nam trong tinh thần ôn hòa, bình tĩnh giải quyết những tranh chấp đầy khó khăn hiện tại. Bản quan điểm của HĐGMVN sẽ là cẩm nang giúp cho chính quyền CS ra khỏi cảnh lúng túng, hạ sách khi họ tưởng rằng dùng bạo lực như công an, chó nghiệp vụ, bọn thanh niên du đảng Hồ Chí Minh, lũ người đầu trâu mặt ngựa cai nghiện tâm thần, súng đạn, roi điện, hơi cay để trấn áp giáo dân là mọi chuyện đều xong... Bạo lực đã lầm!

Qua bản Quan điểm này, người Công Giáo Việt Nam có thể thực hiện các việc làm của mình một cách thích ứng theo tinh thần hòa bình mà Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã vạch ra.Seneca (4 trước C.N-65), một triết gia cổ điển phương Tây có nói một câu nổi tiếng: “Sự tàn bạo tự nó đã thấm một phần lớn nọc độc của nó”(La méchanceté boit ell-même la plus grande partie de son venin). Chính quyền CSVN đã sử dụng bạo lực với tất cả sự tàn ác (méchanceté) cả trong lãnh vực truyền thông, báo chí để vu khống, xuyên tạc, đặt điều, bôi nhọ Đức Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt nhưng việc làm đó đã bị phản tác dụng, trở thành gậy ông đập lưng ông, đúng như triết gia Seneca đã nhận định và như Đức Kitô đã cảnh báo “Ai dùng gươm sẽ chết vì gươm”. (Mát-thêu, 26, 52). Chính quyền CSVN phải nhớ rằng dùng bạo lực đối với nhân dân sẽ chết vì bạo lực. Chính quyền với nhân dân cũng giống như thuyền đi trên nước, thuyền đi trên nước nhưng nước cũng có thể lật nhào và nhận chìm thuyền.
Nguyễn Đức Cung

New Jersey, 29-9-2008

[1] Đ.M. Trần Đức Huân, Kinh Thánh Cựu Tân Ước, Ra Khơi Thánh Kinh Thiện Bản tái bản, Sài Gòn, 1971, trang 8.[2] Hoàng Văn Chí, From Colonialism to Communism, A case history of North Vietnam (Nhà xuất bản Frederick A. Praeger, Second Printing, 1965, trang 70).[3] Nguyễn Hiến Lê, Sử Trung Quốc. Văn Nghệ xb. 2003, tr. 112. [4] Theo Bùi Tín, hồi ký Mặt Thật. Nxb Saigon Press, , California, 1993, tr. 95.[5] Tham khảo: Daniel Hémery, Ho Chi Minh, de l”Indochine au Vietnam, Nxb. Gallimard, Paris, 1990, tr. 133; Trần Gia Phụng, Án tích Cộng sản Việt Nam. Nxb. Non Nước, Canada, 2001, tr. 336.[6] Minh Võ, Hồ Chí Minh, nhận định tổng hợp. Nxb. Tủ sách Tiếng Quê Hương, Virginia, 2006, tr. 62.


TÀI LIỆU LIÊN QUAN

Lời truyền miệng dân gian về một vài số phận bi kịch...
Trần Quốc Vượng

Đăng ngày 19/05/2006 lúc 03:09:40 EDT
http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=805

“Lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh của một số nhà trí thức Nho gia”
Trần Quốc Vượng

… Đến đây tôi sẽ khép (lại) bài kể lể đã khá dài dòng của mình bằng câu chuyện một người tuy có tên tưổi nhưng không lấy gì làm nổi tiếng lắm, hay đúng hơn cả là đã trở nên có tên tuổi nhờ gắn bó máu thịt với một người có tên tuổi (nhưng từ đầu đến cuối câu chuyện của tôi đều nói về các nhà Nho, các vị thái học sinh, tiến sĩ, bảng nhãn hay là phó bảng cả).

Đó là câu chuyện về cụ thân sinh ra Chủ tịch Hồ Chí Minh, cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc hay Nguyễn Sinh Huy. Phó bảng là một học vị dưới tiến sĩ, chĩ mới xuất hiện ở Việt Nam từ đời vua Minh Mạng nhà Nguyễn (1830-31).

Trong một lá đơn bằng tiếng Pháp gởi Bộ Thuộc địa Pháp, Nguyễn Tất Thành (sau là Hồ Chí Minh) đã khéo dịch tên học vị của phụ thân mình là sous docteur [1] như ngày nay ta gọi là phó tiến sĩ.

Quê hương cụ, là làng Kim Liên, tên Nôm là làng Sen huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An. Nhưng đậu phó bảng rồi cụ đã làm Thừa biện Bộ Lễ ở Huế rồi Tri huyện Bình Khê (Bình Định). Rồi bỏ quan (hay bị mất chức quan), cụ phiêu dạt về Sài Gòn, ngồi bắt mạch kê đơn ở tiệm thuốc bắc Hoa kiều, để có chút cơm rượu... Lại phiêu lãng nữa, tới miền Tây Nam bộ, và cuối cùng mất ở Cao Lãnh (Sa Đéc, nay thuộc tỉnh Đồng Tháp). Mộ cụ phó bảng được xây lại cuối năm 1954 sau sự kiện Genève tạm thời chia đôi đất nước Việt Nam.

Người ta làm như thế vì cụ Hồ. Cũng như mộ bà Hoàng Thị Loan vợ cụ phó bảng và là thân mẫu Hồ Chí Minh mới được dời xây lại vài năm nay ở Nam Đàn, Nghệ An. Người ta làm thế cũng vì cụ Hồ. Hai ngôi mộ này, cũng như bản thân Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh giữa lòng Ba Đình, Hà Nội, đều hiện hữu ngoài ý thức của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông Hồ vốn được xem là người giản dị, khiêm nhường...

Cũng đã có dăm cuốn sách nói về gia thế cụ Hồ Chí Minh, nhưng câu chuyện tôi sắp kể dưới đây thì chưa từng ai viết.

Chỉ là lời truyền miệng dân gian, ở Kim Liên, Nam Đàn, ở một số người gốc Nghệ hiện sống tại Hà Nội và nhiều nơi khác trên mảnh đất Việt Nam. Nếu trong Folklore, có hiện tượng mà các nhà nghiên cứu gọi là lan truyền thì từ lâu câu chuyện này cũng đã lan truyền từ làng Kim Liên ra khắp huyện Nam Đàn rồi khắp tỉnh Nghệ Anh rồi rộng ra hơn nữa ... Nhưng phạm vi lan truyền và số người biết câu chuyện này phải nói là hạn hẹp. Vì người ta SỢ.

Sợ động chạm đến cụ Hồ. Một cái sợ vô nghĩa nhưng người ta cứ gán cho nó cái ý nghĩa chính trị giả tạo. Vì như bà Trịnh Khắc Niệm viết trong cuốn truyện bằng tiếng Anh Life and Death in Shanghai, [2] đã được dịch ra tiếng Việt: Ở xã hội xã hội chủ nghĩa, cuộc đời của các lãnh tụ cộng sản được coi là "bí mật quốc gia".

Nhưng đây không phải là chuyện cụ Hồ, tuy cũng có dính dáng đến cụ Hồ. Mà vì đây là chuyện cụ thân sinh ra cụ Hồ, cụ Nguyễn Sinh Huy, mà cũng là chuyện truyền miệng thôi, nghĩa là thuộc phạm trù giai thoại, Folklore, chứ không thuộc phạm trù lịch sử, như tôi đã nói từ đầu bài này.

Người dân Kim Liên đồn rằng Nguyễn Sinh Huy không phải là thuộc dòng máu mủ của dòng họ Nguyễn Sinh làng này. Mà là con của một người khác: ông đồ nho, cử nhân Hồ Sĩ Tạo.

Cử nhân Hồ Sĩ Tạo thuộc dòng họ Hồ nổi tiếng ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An (đây là quê gốc của Hồ Quý Ly, nhân vật lịch sử cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, đây cũng là quê gốc của anh em Tây Sơn thế kỷ XVIII, vốn họ Hồ ở xứ Nghệ, đây cũng là quê hương Hoàng Văn Hoan, người đồng chí thân cận một thời của cụ Hồ Chí Minh, được cụ Hồ giao phụ trách công tác đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thời kháng chiến chống Pháp và là Đại sứ Việt Nam đầu tiên ở Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, hiện sống lưu vong ở Trung Hoa, có viết một tài liệu về lịch sử làng Quỳnh Đôi, quê ông. Bà vợ nhà văn lớn Đặng Thai Mai, người một thời làm Bộ trưởng Giáo dục trong chính phủ của cụ Hồ 45-46 rồi làm Viện trưởng Viện trưởng Viện Văn học, là Hồ Thị Loan, cũng thuộc dòng họ Hồ này ở làng Quỳnh Đôi). Khoảng đầu những năm 60 của thế kỷ trước (thế kỷ XIX) cử nhân Hồ Sĩ Tạo có thời gian ngồi dạy học ở một nhà họ Hà, người làng Sài, cùng một xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, với làng Sen (Kim Liên). Đó là một nhà nghệ nhân dân gian, trong nhà có "phường hát ả đào".

Nhà họ Hà có cô con gái tên là Hà Thị Hy, tài hoa, nhan sắc, đàn ngọt, hát hay, múa khéo, đặc biệt là múa đèn (đội đèn trên đầu, để đèn trên hai cánh tay, vừa hát vừa múa mà dầu trong đĩa không sánh ra ngoài) nên người làng thường gọi là cô Đèn. Người ta thường bảo: má hồng thì mệnh bạc. Như Đặng Trần Côn viết mở đầu khúc ngâm chinh phụ: "Hồng nhan đa truân" (Gái má hồng nhiều nỗi truân chuyên). Hay như Nguyễn Du than thở giùm người đẹp tài hoa trong truyện Kiều: "Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau", "Rằng hồng nhan tự thuở xưa, Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu").

Vả ở thời ấy, dưới chế độ quân chủ nho giáo, lấy tứ dân (Sĩ, Nông, Công, Thương) làm gốc, người ta vẫn xem thường nghề ca xướng và con nhà ca xướng ("xướng ca vô loài").

Cô Đèn, Hà Thị Hy tài hoa nhan sắc là thế mà rồi ba mươi tuổi vẫn chưa lấy được chồng. Mà trong nhà thì lại luôn có bậc văn nhân: ông cử Hồ Sĩ Tạo. "Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén" là lẽ thường theo tâm lý dân gian, huống chi là giữa văn nhân - tài tử - giai nhân. "Trai tài gái sắc" mà! Và cô Hà Thị Hy bỗng dưng "không chồng mà chửa". Mà ông cử Tạo thì đã có vợ, có con rồi! Lệ làng ngày trước phạt vạ rất nặng nề, sỉ nhục hạng gái "chửa hoang", hạng "gian phu dâm phụ". Để tránh nỗi nhục cho con gái mình và cho cả ông cử Tạo đang làm "thầy đồ" được hết sức kính trọng trong nhà mình, họ Hà phải bù đầu suy tính...

Lúc bấy giờ ở làng Sen cùng xã có ông Nguyễn Sinh Nhậm, dân cày, tuổi cao mà góa vợ (bà vợ trước đã có một con trai là Nguyễn Sinh Thuyết, và người con trai này cũng đã có vợ).

Nhà họ Hà bèn cho gọi ông Nguyễn Sinh Nhậm đến điều đình, "cho không" cô Hy làm vợ kế ông này, như một người con gái xướng ca, quá lứa, lỡ thì, lấy ông già góa vợ, mong ém nhém việc cô gái đã "to bụng".

Công việc rồi cũng xong. Cô Hy ôm bụng về nhà chồng, có cưới có cheo cẩn thận. Việc phạt vạ của làng không thể xảy ra. Nhưng cô gái tài hoa nhan sắc thì bao đêm khóc thầm vì bẽ bàng, hờn duyên tủi phận. Và ông lão nông dốt nát tuy được không cô gái đẹp nhưng cũng buồn vì đâu có đẹp đôi, lại cắn răng chịu đựng cái tiếng ăn "của thừa", "người ăn ốc (ông cử Tạo), kẻ đổ vỏ (cụ lão nông Nhậm)". "Miệng tiếng thế gian xì xầm", ai mà bịt miệng nổi dân làng. Mà trước hết là lời "nói ra, nói vào", lời chì chiết của nàng dâu vợ anh Thuyết, vốn nổi tiếng ngoa ngoắt, lắm điều. Ông Nhậm đành cho con trai và vợ anh ta ra ở riêng, và mình ở riêng với bà vợ kế.

Chỉ ít tháng sau, bà vợ kế này đã sinh nở một mụn con trai, được ông đặt tên là Nguyễn Sinh Sắc, lấy họ ông mặc dù ông biết rõ hơn ai hết đó không phải là con ông, con nhà họ Nguyễn Sinh này. Nàng dâu ông càng "tiếng bấc, tiếng chì" hơn trước, vì ngoài việc bố chồng "rước của tội, của nợ", "lấy đĩ làm vợ" thì nay còn nỗi lo": Người con trai này - được ông nhận làm con, lớn lên sẽ được quyền chia xẻ cái gia tài vốn cũng chẳng nhiều nhặn gì của một gia đình nông phu thôn dã. Việc ấy xảy ra vào năm Quý Hợi, đời vua Tự Đức thứ 16 (1863).

Vì trọng tuổi, lại vì lo phiền, vài năm sau cụ Nhậm qua đời và cũng chỉ ít lâu sau đó, bà Hy cũng mất. Nguyễn Sinh Sắc trở thành đứa trẻ mồ côi. Lên bốn, về ở với người anh gọi là "cùng cha khác mẹ" mà thật ra là "khác cả cha lẫn mẹ", cùng với bà chị dâu ngoa ngoắt, khó tính, lúc nào cũng chỉ muốn tống cổ cái thằng "em hờ" của chồng này đi cho "rảnh nợ".

Không cần nói, ta cũng hiểu Nguyễn Sinh Sắc khổ tâm về tinh thần, khổ cực về vật chất như thế nào trong cái cảnh nhà Nguyễn Sinh như vậy. Ta cảm thấy vô cùng thương xót một đứa trẻ mồ côi sớm chịu cảnh ngang trái của cuộc đời. Bên ngoại thì ông bà đều đã mất, họ Hà chẳng còn ai chịu cưu mang đứa trẻ có số kiếp hẩm hiu này.

May có ông tú đồ nho Hoàng Xuân Đường, người làng Chùa (Hoàng Trù) gần đó, xót thương đứa trẻ, dù sao cũng là hòn máu rơi của một nhà nho khác, lại có vẻ sáng dạ, nên đã đón về làm con nuôi, cho ăn học. Và đến khi Nguyễn Sinh Sắc 18 tuổi, ông bà đồ họ Hoàng lại gả cho cô con gái đầu lòng, Hoàng Thị Loan, mới 13 tuổi đầu, cho làm vợ, lại làm cho căn nhà tranh ba gian ở ngay làng Chùa, để vợ chồng Nguyễn Sinh Sắc ăn ở riêng.

Ta dễ hiểu vì sao Nguyễn Sinh Sắc gắn bó với họ hàng làng quê bên vợ, làng Chùa, hơn là với làng Sơn "quê nội", quê cha "hờ". Con cái ông, từ người con gái đầu Nguyễn Thị Thanh, qua người con trai đầu Nguyễn Sinh Khiêm (tục gọi là ông cả Đạt) đến người con trai thứ Nguyễn Sinh Côn (hay Nguyễn Tất Thành, sau này là Nguyễn Ái Quốc rồi Hồ Chí Minh) đều được sinh ra và bước đầu lớn lên ở làng Chùa bên quê mẹ hay là quê ngoại. Khi cụ Tú Hoàng (Hoàng Xuân Đường) mất, vợ chồng con cái Nguyễn Sinh Sắc lại về ăn ở chung với bà đồ Hoàng. Các cháu đều quấn quít quanh bà ngoại.

Qua giỗ đầu cụ Tú Hoàng, Nguyễn Sinh Sắc đi thi Hương khoa Giáp Ngọ và đậu cử nhân (1894). Ông được nhận ruộng "học điền", ruộng công của làng Chùa chia cho những người có học (nhằm khuyến khích việc học) để học thêm - chứ không phải nhận ruộng học của làng Sen. Khoa thi Hội Ất Mùi (1895), ông thi trượt.

Nhờ sự vận động gửi gấm của ông Hồ Sĩ Tạo, người cha thực của Nguyễn Sinh Sắc, với các quan lại đồng liêu quen biết ở triều đình Huế, Nguyễn Sinh Sắc được coi như ấm sinh, để được nhận vào học Quốc Tử Giám ở kinh đô. (Ai cũng biết: để được nhận vào học Quốc Tử Giám và làm giám sinh phải là con cháu của những gia đình có thế lực, gọi là "danh gia tử đệ". Nếu không có sự can thiệp của ông Hồ Sĩ Tạo là bậc khoa bảng cao quan thì làm sao Nguyễn Sinh Sắc được nhận? Thế là dù sao Hồ Sĩ Tạo vẫn còn có một "cử chỉ đẹp" với đứa con mà mình không dám nhận). Nguyễn Sinh Sắc, đổi tên là Nguyễn Sinh Huy, đem vợ và hai con trai vào Huế và đi học Quốc Tử Giám. Khoa thi Hội Mậu Tuất (1898), ông lại trượt.

Ngày 22 tháng Chạp năm Canh Tý (10-2-1901) bà Hoàng Thị Loan ốm mất ở kinh đô Huế, sau khi sinh đứa con trai út (đứa con trai này ít ngày sau cũng chết). Nguyễn Sinh Côn (Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ngày sau) trở thành con trai út.

Nguyễn Sinh Huy đem hai con trai về làng Chùa gửi mẹ vợ nuôi nấng chăm sóc giùm rồi trở vào Kinh thi Hội. Khoa Tân Sửu (1901) này, ông đậu phó bảng và được "vinh quy bái tổ" về làng. Theo thể thức triều đình, lễ vinh quy này phải diễn ra ở quê nội, dù là quê nội danh nghĩa, tức là làng Sen - Kim Liên. Hội đồng hương lý và dân xã đã dựng nhà tranh năm gian (chứ không phải nhà ngói) trên một khoảnh đất vườn làng Sen, để đón quan phó bảng tân khoa Nguyễn Sinh Huy về làng.

Thế là buộc lòng ông phải về "quê nội". Ông cũng đón hai con trai về ở cùng ông. Lần đầu tiên Nguyễn Sinh Côn (Hồ Chí Minh ngày sau) về ở quê nội nhưng thân ông, lòng ông vẫn hướng về quê ngoại là cái gì "đích thực" và gắn bó với tuổi thơ ông. Ông phó bảng có đến thăm cụ Hồ Sĩ Tạo.

Nhưng gia đình ông phó bảng cùng hai con trai cũng không ở lâu tại Kim Liên. Chưa đầy ba năm! Sau khi mẹ vợ mất, ông vào kinh đô nhận chức quan (1904) ở Bộ Lễ, đem theo hai con trai vô Huế học. Năm 1907, ông bị đổi đi Tri huyện Bình Khê ... Rồi sau khi bỏ quan (hay mất quan), khoảng 1910, ông phiêu bạt vô Sài Gòn rồi Lục tỉnh Nam Kỳ. Không bao giờ ông về làng Sen trở lại nữa...

Ở làng Sen sau này, chỉ có bà Thanh và ông Cả Đạt (Khiêm), cả hai đều không lập gia đình riêng.

Người ta bảo lúc sau, khi cụ Hồ Sĩ Tạo đã qua đời, năm nào bà Thanh cũng qua Quỳnh Đôi góp giỗ cụ Hồ Sĩ Tạo. Thế nghĩa là cái "bí mật" về cội nguồn của cụ phó bảng Huy, trong số các con cụ, ít nhất có bà con gái đầu biết. Người ta bảo: ông Cả Đạt cũng biết, tuy không bao giờ ông sang Quỳnh Đôi nhận họ.

Còn Nguyễn Sinh Côn - Nguyễn Tất Thành - có biết không? Từ khoảng 11 đến 14 tuổi, ông ở làng Sen, có nhẽ nào không ai nói cho ông biết? Hay là trước đó nữa, khi ông ở làng Chùa quê ngoại gần gặn làng Sen! Hay là sau đó nữa chả lẽ không khi nào cụ phó bảng Huy hay bà Thanh hay ông Cả Đạt lại không kể với ông về "bí mật" của gốc tích thân phụ mình?

Không có chứng cớ gì về việc ông Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - biết hay không biết chuyện này... Sau này, khi hoạt động cách mạng, ông còn mang nhiều tên khác nữa. Nhưng đến đầu thập kỷ 40 của thế kỷ này, thì người ta thấy ông mang tên Hồ Chí Minh.

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, khi tên tuổi Hồ Chí Minh trở thành công khai thì cũng bắt đầu từ đó dân gian Việt Nam, từ trí thức đến người dân quê, lại âm thầm bàn tán: vì sao Nguyễn Ái Quốc lại đổi tên là Hồ Chí Minh? Và tên này cụ giữ mãi cho tới khi "về với Các Mác, Lê-nin" năm 1969.

Cuộc đời thực của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh - còn quá nhiều dấu hỏi chứ phải đâu riêng gì một cái tên! Và biết làm sao được khi cụ Hồ, tôi nói lại một lần nữa theo cảm thức của người Ấn Độ, đã trở thành "huyền thoại". Huyền thoại Hồ Chí Minh được hình thành trong vô thức dân gian mà Carl Gustav Jung gọi là vô thức tập thể. Nhưng nó cũng có phần được hình thành một cách hữu thức, bởi một số cán bộ gần gụi cụ Hồ. Nghĩa là một phần cuộc đời cụ Hồ đã được huyền thoại hóa.

Ngay sau Cách mạng tháng Tám, người ta còn in cả cuốn sách (mỏng thôi) về sấm Trạng Trình có những câu vận vào cụ Hồ và sự nghiệp Cách mạng tháng Tám. Và sấm Trạng Trình vẫn được vận vào cụ Hồ còn lâu về sau nữa, ở miền Nam Việt Nam và hiện nay ở một số người Việt lưu vong, dù là với hậu ý không ưa gì cụ Hồ... Nhưng đó lại không phải là chủ đề của bài viết này.

Trở lại với cái tên Hồ Chí Minh, lời truyền miệng dân gian bảo rằng: Nguyễn Ái Quốc sau cùng đã lấy lại họ Hồ vì cụ biết ông nội đích thực của mình là cụ Hồ Sĩ Tạo, chứ không phải cụ Nguyễn Sinh Nhậm.

Và dân làng Sen cũng bảo: Thì cứ xem, lần đầu tiên về thăm quê hương, sau cách mạng, sau mấy chục năm xa quê (15-6-1957), từ thị xã Vinh, tỉnh lỵ Nghệ An, cụ Hồ đã về làng Chùa trước, rồi sau mới sang làng Sen "quê nội"! [3]

Riêng tôi nghĩ, thì cũng phải thôi. Vì như ở trên ta đã thấy, cả một thời thơ ấu của cụ Hồ là gắn bó với quê ngoại làng Chùa, nơi cụ sinh ra và bước đầu lớn lên. Chứ đâu phải làng Sen, là nơi cụ chỉ ở có vài năm, lại là khi đã bắt đầu khôn lớn?

Tôi không muốn có bất cứ kết luận "khoa học" gì về bài viết này. Vì nó không phải là một luận văn khoa học. Đây chỉ là việc ghi lại một số lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh hay là cái khổ tâm, hay là cái "mặc cảm" của một số nhà trí thức Nho gia từ đầu thế kỷ XIV (Trương Hán Siêu, Chu Văn An) đến đầu thế kỷ XX (Nguyễn Sinh Huy) đối với làng quê. [4]

Còn viết lách, thì bao giờ chẳng là chuyện: "Thư bất tận ngôn, ngôn bất tận ý". (Viết không [bao giờ] hết lời nói, Lời nói không [bao giờ] hết ý!)

Tháng 1.1991
Trần Quốc Vượng
(trích: Trong cõi. Nxb Trăm Hoa, California, 1993, tr. 252-259)

[1]Xem phụ bản bức thư này công bố trong: G. Boudarel, La Bureaucratie au Vietnam, par L’ Harmattan, 1983
[2]Cheng Nien: Life and Death in Shanghai, Globe Crafton Books, 1986 – (Trịnh Niệm: Sống và chết ở Thượng Hải, Nxb Văn nghệ, TP Hồ Chí Minh, 1989)
[3]Xem “Le Nghe Tinh, province natale de Ho Chi Minh“, Études Vietnamiennes, Hanoi, No 59, 1979
[4]Về những cách nhìn khác, chính thống hơn, lịch sử hơn, xin xem: “Les lettres devant l’histoire”, Études Vietnamiennes, Hanoi, 1979. Riêng về Trương Hán Siêu, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, xin xem: O. W. Wolters, “Two Essays on Đại Việt in the Fourteenth Century”, The Lạc Việt, No 9, 1979; “A Stranger in His Own Land: Nguyễn Trãi’s Sins”; “Vietnamese Poems, Written during the Ming Occupation”, The Vietnam Forum, No 8, 1986




Hội Đồng Giám Mục Công Giáo VN không nhượng bô
Thông Luận
Đăng ngày 29/09/2008 lúc 00:10:00 EDT
http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=3140

Quan điểm của Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Việt Nam về một số vấn đề trong hoàn cảnh hiện nay
Giám mục Nguyễn Văn Nhơn

Thông Luận: Sau đây là thư của giám mục Nguyễn Văn Nhơn, nhân danh chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Việt Nam, trả lời thư của ông Nguyễn Thế Thảo, chủ tịch Uỷ Ban Nhân Dân Hà Nội, trong đó ông Thảo yêu cầu Hội Đồng Giám Mục Việt Nam có biện pháp kỷ luật đối với tổng giám mục Hà Nội Ngô Quang Kiệt.

Như độc giả có thể nhận xét, bằng những lời lẽ trang nhã nhưng minh bạch Hội Đồng Giám Mục đã bác bỏ yêu cầu của Uỷ Ban Nhân Dân Hà Nôi và khẳng định sự ủng hô đối với tổng giám mục Ngô Quang Kiệt.

Tại sao Uỷ Ban Nhân Dân Hà Nội, chắc chắn là được chính quyền CSVN cho phép, lại đòi giáo hội Công Giáo Việt Nam kỷ luật tổng giám mục Ngô Quang Kiệt?

Xin nhắc lại là sau hơn một tháng tranh đấu ôn hòa bằng lời cầu nguyện của giáo dân Thái Hà (quận Đống Đa) để đòi lại khu đất của giáo xứ bị tiếm đoạt, nhà cần quyền Hà Nội đã không những không thỏa mãn yêu cầu này mà còn tiến hành đập phá khu Tòa Khâm Sứ (Quận Hoàn Kiếm). Trước tình trạng này ông Ngô Quang Kiệt, tổng giám mục địa phận Hà Nội, đã gửi một "đơn khiếu nại khẩn cấp" cho Uỷ Ban Nhân Dân Hà Nội và sau đó đã gặp Uỷ ban Nhân Dân Hà Nội. Sau cuộc gặp gỡ không kết quả này các cơ quan truyền thông của nhà nước cộng sản đã xuyên tạc trắng trợn những gì ông Kiệt đã viết và nói để vu cáo và bôi nhọ ông. (Xin xem bài “Thái Hà và Tòa Khâm Sứ: hiệp tới sẽ là hiệp quyết định”, Thông Luận, ngày 23/09/2008). Trắng trợn hơn nữa là Uỷ Ban Nhân Dân Hà Nội đã tự cho phép ra thông báo "cảnh cáo" tổng giám mục Ngô Quang Kiệt. Đây là một hành vi phạm pháp bởi vì, theo chính luật pháp của chế độ công sản, cảnh cáo là một hình thức trừng phạt phải qua những thủ tục pháp lý rõ ràng. Tiếp theo đó ông Nguyễn Thế Thảo, chủ tịch Uỷ Ban Nhân Dân Hà Nội, lại còn gửi thư đòi Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Việt Nam phải kỷ luật tổng giám muc Kiệt. Đây vừa là một hành động phi pháp vừa là một thái độ xấc xược đối với Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Đáng lẽ ra, nếu có một chút văn hoá và biết tôn trọng pháp luật ở mức độ tối thiểu thì chính ông Thảo phải xin lỗi Giáo Hội Công Giáo Việt Nam và tổng giám mục Kiệt về những xuyên tạc của UBND Hà Nội, và chính quyền cộng sản Việt Nam cũng phải có biện pháp kỷ luật đối với ông Thảo.

Trong thư trả lời này, ngoài việc khẳng định sự tín nhiệm đối với tổng giám mục Kiệt, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam còn phiền trách nhà nước cộng sản về luật đất đai rất bất cập, về tệ tham nhũng, về sư dối trá của các cơ quan truyền thông và về sự băng hoại đạo đức trong xã hội.

Người ta chỉ có thể chia sẻ quan điểm của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam; những động thái vừa qua của chính quyền thành phố Hà Nội đã là những bằng chứng hùng hồn.

http://i36.photobucket.com/albums/e21/jaynes125/cg_ThuNgoHDGMVN_1.gif

http://i36.photobucket.com/albums/e21/jaynes125/cg_ThuNgoHDGMVN_2.gif
http://i36.photobucket.com/albums/e21/jaynes125/cg_ThuNgoHDGMVN_3.gif

No comments: