Nguyễn Quang Dy
viet-studies 21-6-2016
Những gì diễn ra tại Côn Minh (Kunming, 14/6) đã biến
Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN-China thành một sự kiện bất bình thường với một
“thông cáo vịt què” (lame duck communique), dù là vịt Bắc Kinh hay vịt ASEAN. Nếu
không muốn gọi hội nghị này là thất bại thì cũng không thể coi là thắng lợi. Dù
Trung Quốc có ngăn cản được một tuyên bố chung ASEAN (như tại Phnom Penh năm
2012) thì cũng không thể ngăn cản được xu hướng “thoát Trung” trong cộng đồng
ASEAN vốn bị phân hóa. Hãy thử giải mã những uẩn khúc tại Côn Minh để làm sáng
tỏ bức tranh ASEAN-China, trong thời điểm nhạy cảm hiện nay.
Bối
cảnh trước hội nghị Côn Minh
Hội nghị Côn Minh diễn ra vào lúc Tòa án Trọng tài
Quốc tế (PCA) sắp ra phán quyết (dự kiến 7/7/2016) theo đơn kiện của
Philippines. Có nhiều khả năng Philippines sẽ thắng kiện, làm Trung Quốc rất lo
ngại, tìm mọi cách đối phó. Bên cạnh việc lăm le xây lắp hạ tầng quân sự tại
Scaborough Shoal thành một cứ điểm mạnh, Trung Quốc ráo riết vận động các nước ủng
hộ. Tuy Trung Quốc ngạo mạn tuyên bố không thừa nhận phán quyết của PCA, nhưng
thực ra họ rất lo ngại bị cộng đồng quốc tế cô lập tại Biển Đông. Theo CSIS,
Trung Quốc tuyên bố có 60 nước ủng hộ lập trường của họ, nhưng thực tế chỉ có 8
nước (Afghanistan, Gambia, Kenya, Niger, Sudan, Togo, Vanuatu, Lesotho), và năm
nước đã thẳng thừng bác bỏ, làm Trung Quốc mất mặt (Poland, Slovenia, Bosnia,
Herzegovania, Cambodia, Fiji).
Chuyến thăm Việt Nam (và Nhật) của Tổng thống Obama
là một sự kiện quan trọng. Tuyên bố Mỹ bỏ hoàn toàn cấm vận vũ khí đánh dấu một
bước ngoặt, hoàn tất quá trình bình thường hóa, đồng thời thúc đẩy quan hệ đối
tác chiến lược Mỹ-Việt. Điều này chắc chắn làm Trung Quốc đau đầu. Sau đó, Thủ
tướng Việt Nam được mời dự họp mở rộng Thượng đỉnh G7 tại Nhật (26-27/5). Đây
là dịp để G7 tăng cường “đoàn kết quốc tế về Biển Đông”, và Việt-Nhật tăng cường
hợp tác quốc phòng và kinh tế, bao gồm sáng kiến “kết nối Mekong với Nhật Bản”.
Tiếp theo Tuyên Bố chung của Hội nghị Ngoại trưởng G7 về an ninh Biển Đông
(4/2016) các nhà lãnh đạo G7 đã ra “Tuyên bố chung Ise-Shima” (27/5) về an ninh
Biển Đông và Biển Hoa Đông, nhằm đảm bảo tự do hàng hải và giải quyết tranh chấp
bằng biện pháp hòa bình theo luật pháp quốc tế, để kiềm chế sự trỗi dậy hung
hăng của Trung Quốc.
Tại Đối thoại An ninh Khu vực “Shangi-La 15”
(Singapore, 3-5/6/2016) Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ash Carter (và TNS John McCain)
đã đến dự và chỉ trích mạnh mẽ hành động quân sự hóa Biển Đông của Trung Quốc.
Mỹ kêu gọi Trung Quốc tôn trọng phán quyết của Tòa án Trọng tài Quốc tế (PCA)
và cảnh báo nếu Trung Quốc tiếp tục quân sự hóa Scaborough Shoal thì có nguy cơ
sẽ bị cô lập như “xây Vạn lý Trường thành tự cô lập mình”. Tiếp
theo, Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Gen Nakatami cũng chỉ trích Trung Quốc
và tuyên bố Nhật sẽ giúp các nước Đông Nam Á tăng cường năng lực an ninh tại
Biển Đông.
Đáng chú ý là tại Shangri-La 15, NATO cũng tuyên bố
sẽ có bước đi cần thiết trước động thái mới của Trung Quốc ở biển Đông. Bộ trưởng
Quốc phòng Pháp Jean-Yves Le Drian kêu gọi lực lượng hải quân châu Âu có sự hiện
diện “thường xuyên và rõ ràng” tại khu vực, để duy trì luật biển và tự do hàng
hải. Le Drian nói “nếu luật biển không được tôn trọng tại các vùng biển gần
Trung Quốc, thì sau này nó sẽ bị đe dọa ở Bắc Cực, ở Địa Trung Hải, hay ở nơi
khác”. Sau Shangri-La 15, Bộ trưởng Quôc phòng Pháp đã đến thăm Việt Nam như để
khẳng định lập trường mới của họ. Thái độ cứng rắn hơn của Mỹ, Nhật, Ấn Độ và
NATO là đối trọng làm chuyển hóa lập trường ASEAN bớt phụ thuộc vào Trung Quốc.
Tuy Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) đã ra đời, nhưng ASEAN vẫn còn bị phân
hóa.
Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ đã tiến hành tập trận quy mô lớn
tại tây thái bình Dương (10-18/6/2016). Đây là cuộc tập trận thường niên
(Malabar) giữa Mỹ với Ấn Độ và Nhật Bản (“Tam cường”), nhằm thiết lập trật tự
an ninh hàng hải mới tại Đông Á để đối phó với các hành động quân sự hóa của
Trung Quốc tại Biển Đông và Biển Hoa Đông. Trong tương lai, nếu Úc tham gia thì
quy mô tập trận sẽ mở rộng thành “Tứ cường”. Ngoài ra, Mỹ đang tăng cường lực
lượng hải quân và không quân cho khu vực này, điều một phần Hạm độ 3 tới Biển
Đông và một phi đội 4 máy bay tác chiến điện tử E/A 18G Growler tới căn cứ
Clark (Philippines), sau khi triển khai các loại máy bay hiện đại nhất tới khu
vực này như Global Hawk và F-35, cùng với 5 máy bay A-10C Thunderbolt, và 3 trực
thăng HH-60G Pave Hawk.
Sự cố
hi hữu tại hội nghị Côn Minh
Các nước ASEAN chưa thật sự tin tưởng lắm vào chiến
lược “xoay trục” (hay tái cân bằng) của chính quyền Obama cũng như chưa biết
chính quyền mới (Hillary Clinton hay Donald Trump) sẽ “xoay trục” thế nào.
Nhưng họ không có nhiều lựa chọn trước thái độ ứng xử ngày càng hung hãn và trịch
thượng của Trung Quốc tại Biển Đông. Sau hội nghị thượng đỉnh Mỹ-ASEAN tại
Sunnylands (15-16/2/2016), hội nghị ngoại trưởng ASEAN-China tại Côn Minh
(14/6/2016) là một cố gắng của Trung Quốc để thao túng các nước ASEAN, trước những
diễn biến trái chiều trong khu vực đang làm Trung Quốc ngày càng cô lập.
Theo Carl Thayer (“The Truth Behind ASEAN’s
Retracted Kunming Statement”, Carl Thayer, the Diplomat, June 19, 2016) sự cố
ngoại giao hi hữu xảy ra tại hội nghị Côn Minh là hệ quả của lối ứng xử thô lỗ
(heavy-handed) của Trung Quốc và cách điều phối và ra quyết sách vụng về của
ASEAN (bureaucratic snafu). Sự cố này như một con vịt què, làm bộc lộ rạn nứt
ngày càng sâu sắc giữa ASEAN và Trung Quốc, cũng như sự đồng thuận lỏng lẻo của
ASEAN dễ bị Trung Quốc thao túng. Hãy thử lý giải những gì đã xảy ra.
Văn bản tài liệu hội nghị khẳng định, “các nước
thành viên ASEAN nhất trí với nội dung của Thông cáo Báo chí do các ngoại trưởng
ASEAN soạn.” Báo Straits Times cũng khẳng định mười ngoại
trưởng ASEAN đã đồng thuận là Thông cáo Báo chí sẽ được ngoại trưởng của
Singapore thay mặt ASEAN công bố tại cuộc họp báo chung ASEAN-China vào cuối hội
nghị. Nhưng vào phút chót, phía Trung Quốc lại đưa ra bản thỏa thuận 10 điểm
(10-point consensus) nhưng ASEAN không thể chấp nhận.
Các Ngoại trưởng ASEAN đã quyết định Ngoại trưởng
Singapore sẽ không dự họp báo chung vì công khai bất đồng với Ngoại trưởng
Trung Quốc trước công chúng là khiếm nhã. Các Ngoại trưởng ASEAN cũng quyết định
ASEAN sẽ ra thông cáo báo chí riêng. Nhưng Trung Quốc lại vận động Lào và
Campuchia ngăn cản việc này. Theo báo Straits Times, cuộc họp báo
chung đó không thành là do “bất đồng không thể hóa giải giữa ASEAN và Trung Quốc
về vấn đề Biển Đông”. Trung Quốc đã gây áp lực rất lớn với phía Lào (là nước chủ
tịch luân phiên) buộc phải yêu cầu “chỉnh sửa khẩn cấp” một số nội dung Trung
Quốc “không hài lòng”. Camphuchia cũng từ chối ký vào bản Thông cáo Chung, giống
như tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN tại Phnom Penh (năm 2012), không ra được
tuyên bố chung vì Trung Quốc gây áp lực với Campuchia (là nước chủ tịch ASEAN)
không nhất trí với tuyên bố đó.
Các Ngoại trưởng ASEAN đành quyết định mỗi nước có
thể ra thông cáo riêng theo cách của mình, nhưng lúng túng không biết nên công
bố bản gốc Thông cáo Chung ASEAN như thế nào. Chính vì vậy Malaysia đã bức xúc
(frustrated) về sức ép quá đáng của Trung Quốc đối với ASEAN và chuyển bản
Thông cáo Chung cho AFP, nhưng sau ba tiếng phải thu hồi lại theo lệnh của Ban
Thư ký ASEAN (để “chỉnh sửa khẩn cấp”). Theo báo Straits Times,
một quan chức ngoại giao ASEAN nói rằng việc “Malaysia công bố bản Thông cáo
Chung là biểu hiện quá bức xúc (extreme frustration) của năm nước thành viên
ban đầu cộng với Việt Nam, trước thái độ thô lỗ và ngạo mạn (crude and
arrogant) của phía Trung Quốc”.
Tuy Côn Minh là một thất bại của ASEAN do thiếu đồng
thuận, nhưng theo báo Diplomat, “Trung Quốc chứ không phải ASEAN mới
thực sự thất bại tại hội nghị Côn Minh”. ASEAN đã bày tỏ quan điểm cứng rắn,
trái với mong muốn của Trung Quốc. Chiến thuật “chia để trị” của Bắc Kinh đã
khiến nhiều nước ASEAN phản ứng mạnh hơn. Thông cáo Chung của ASEAN đã làm hỏng
ý đồ của Bắc Kinh muốn xếp tranh chấp biển Đông vào diện giải quyết song phương
với từng nước có tranh chấp (Việt Nam, Philippines, Malaysia
và Brunei). Theo AFP, thái độ cứng rắn của ASEAN như một “cái tát ngoại
giao” vào mặt Trung Quốc.
Nhưng ASEAN có dám đứng lên cùng phản đối hành động
phiêu lưu của Trung Quốc tại Biển Đông hay không? Tuy hầu hết các nước ASEAN phản
ứng Trung Quốc mạnh hơn trước, nhưng chỉ có ASEAN và Trung Quốc thôi thì không
thể hóa giải được vấn đề này. Việc Thông cáo Chung được đưa ra rồi rút lại chứng
tỏ cả Trung Quốc và ASEAN phải chịu trách nhiệm, đặc biệt Lào và Campuchia là
hai nước bị Trung Quốc thao túng, gây bất đồng tại hội nghị Côn Minh. Theo Tổng
thư ký ASEAN Lê Lương Minh, “Tất cả đã đồng ý phát hành bản Thông cáo Chung, trừ
Campuchia. Đã có thỏa thuận nếu không có đồng thuận của cả khối thì từng nước
ASEAN riêng rẽ có thể sử dụng nội dung thông cáo này để thông báo cho báo chí”.
Sau đó, các nước Việt Nam, Philippines, Singapore, Indonesia, đã ra tuyên bố
riêng.
Thực ra, nội dung Thông cáo Chung mà Malaysia đưa
cho hãng AFP phản ánh gần như nguyên văn những tuyên bố gần đây của các ngoại
trưởng ASEAN (mà Campuchia đã đồng ý). Vì vậy, vấn đề là Trung Quốc muốn lợi dụng
cơ hội này để phân hóa và thao túng các nước ASEAN. Với vai trò chủ tịch ASEAN,
phía Lào không ra tuyên bố, mà cũng không trả lời báo chí. Đáng chú ý là chủ tịch
nước Trần Đại Quang đã thăm Lào chính thức và hội đàm với lãnh đạo mới của Lào
cùng ngày diễn ra hội nghị ngoại trưởng tại Côn Minh.
Thông cáo Chung của ASEAN có đoạn nhấn mạnh các ngoại
trưởng (trích) “bày tỏ sự lo ngại sâu sắc trước những diễn biến gần đây đã làm
xói mòn lòng tin, làm gia tăng sự căng thẳng và có khả năng phá hoại hòa bình,
an ninh và ổn định tại Biển Đông… Chúng tôi cũng không thể bỏ qua những gì đang
diễn ra tại Biển Đông vì đó là một vấn đề quan trọng trong quan hệ và hợp tác
giữa ASEAN và Trung Quốc…” (hết trích).
Nhưng tiếp theo, điều còn quan trọng hơn như là một
thử thách lớn đối với các nước ASEAN là phải cố gắng đạt được đồng thuận về một
Tuyên bố Chung của ASEAN sau khi Tòa án Trọng tài Quốc tế về luật biển ra phán
quyết (dự kiến 7/7/2016).
Thử
lý giải một vài nghịch lý
Đoàn kết ASEAN là một huyền thoại (myth). Người ta
hay ví đoàn kết ASEAN như một bó đũa, nếu bị tách ra từng chiếc thì có thể bị bẻ
gẫy. Vì vậy, Trung Quốc tìm mọi cách “chia để trị”. ASEAN vẫn tự hào và duy trì
nguyên tắc “không can thiệp” (non-interference), nhưng nếu bị Trung Quốc bắt nạt,
thì làm sao có thể ứng cứu cho nhau trong một hệ thống an ninh tâp thể? Người
ta hay nói ASEAN “đồng thuận” trong “đa dạng”. Nghe thì rất hay, nhưng nếu “đồng
thuận” không thực chất, trong khi “đa dạng” quá nhiều như “đồng sàng dị mộng”
thì ASEAN không thể mạnh. Cộng đồng ASEAN phải đổi mới thể chế.
COC là một ảo tưởng (illusion). Mấy thập kỷ nay,
ASEAN đàm phán (không thành công) với Trung Quốc về bộ “Quy tắc Ứng xử” (Code
of Conduct) tại Biển Đông. Điều đó dễ hiểu vì Trung Quốc đang trỗi dậy, muốn
thay đổi nguyên trạng tại khu vực, thì tại sao họ lại chịu bị trói bởi luật lệ
của kẻ khác. Chừng nào Trung Quốc còn theo đuổi chủ nghĩa bành trướng bá quyền
để chiếm đoạt Biển Đông, thì họ chỉ đàm phán như một trò chơi để đánh cờ chứ
không phải thỏa thuận thực sự. Dù có thỏa thuận, thì họ cũng xé bỏ nếu cần, vì
ASEAN không đủ mạnh để áp đặt được họ. Đối với Trung Quốc, luật lệ thuộc về kẻ
mạnh. Chỉ có đủ mạnh thì ASEAN mới có thể buộc họ phải theo luật chơi chung. Muốn
vậy, ASEAN phải mở rộng khuôn khổ đối tác chiến lược ra ngoài Đông Nam Á (với
Nhật, Hàn Quốc, Úc, Ấn Độ) và trở thành đồng minh chiến lược với Mỹ. Trước đuổi
Mỹ đi thì bây giờ phải gọi Mỹ lại.
“Ba không một có” là trò chơi chữ (semantic game).
Việt Nam có một nguyên tắc phản ánh mong muốn độc lập và trung lập nghe rất hay
là “Ba không” (không liên minh quân sự với nước khác, không để nước khác đặt
căn cứ quân sự trên lãnh thổ, không dựa vào nước này để chống nước kia). Muốn
duy trì nguyên tắc đó thì quốc gia đó phải đủ mạnh như Thụy Sỹ, môi trường quốc
tế và khu vực phải đủ ổn định. Trong bối cảnh hiện nay, khi Việt Nam suy yếu và
tụt hậu, khi môi trường quốc tế và khu vực đầy bất ổn, với nguy cơ “Bắc thuộc”
và “Hán hóa” ngày càng lớn, thì cố giữ nguyên tắc “ba không” là đồng nghĩa với
tự sát.
Lúc này phải dùng “quẻ biến”. Nhưng biến thế nào? Nếu
biến bằng khẩu hiệu “Ba không Một có” thì chỉ là trò chơi chữ. “Một có” được hiểu
là “những cái gì có thể làm được và làm có mức độ”. Bản chất của “Ba không” là
sợ Trung Quốc và phụ thuộc vào Trung Quốc. “Thoát Trung” thực chất là thoát khỏi
nỗi sợ “thiên triều” và lệ thuộc vào cái bẫy ý thức hệ. Chừng nào không thoát
khỏi cái bẫy này, thì “Một có” hay “Hai có” chỉ là ảo tưởng để tự lừa mình, chẳng
khác gì “xây dựng kinh tế thị trường theo định hướng XHCN”.
Vì vậy, có vũ khí hiện đại chưa chắc đã mạnh. Phải
biết dùng hay dám dùng. Tại sao gần đây tai nạn máy bay quân
sự xảy ra liên tiếp? Do chất lượng khí tài hay là do “lỗi hệ thống” hay là do
“nguyên nhân lạ” nào khác? Ngày 16/4/2015, hai chiếc Su-22 rơi tại vùng biển
Ninh Thuận, không rõ nguyên nhân, làm 2 phi công thiệt mạng (không kịp nhảy
dù). Ngày 14/6/2016, một chiếc Su-30MK2 rơi tại vùng biển gần đảo Hòn Mê (Hà
Tĩnh), một phi công thoát chết, một tử nạn (sau khi nhảy dù xuống biển). Ngày
16/6/2016, chiếc máy bay cứu hộ CASA-212 bị rơi tại vùng biển gần đảo Bạch Long
Vĩ (Hải phòng), trong khi đi tìm kiếm phi công Su-30MK2 vừa bị nạn. Trên máy
bay CASA-212 có 9 quân nhân tử nạn.
Lời
cuối
Hai tai nạn máy bay đáng tiếc liền nhau làm bộc lộ
vài nghịch lý thông thường, cần các viện/trung tâm nghiên cứu chiến lược (hay
chiến thuật) làm rõ:
Tại sao phi công Trần Quang Khải bị nạn trên biển suốt
84 giờ mới tìm thấy, đã chết trước đó 48 giờ, tức còn sống 36 giờ sau khi nhảy
dù (do bị dù cuốn)? Tại sao phi công không bắn pháo sáng (flares) và xịt thuốc
màu (fluorescent) ra nước biển để báo hiệu?
Tại sao cả hai trường hợp phi công bị nạn trên biển
đều do ngư dân tìm thấy trước, chứ không phải do lực lượng tìm kiếm chuyên nghiệp
được trang bị đầy đủ tìm thấy? Các lực lượng cứu hộ đã luyện tập và phối hợp
hành động như thế nào?
Tại sao chiếc máy bay cứu hộ CASA-212 lại nhận được
lệnh bay ra vùng biển gần đảo Bạch Long Vĩ (Hải Phòng) để tìm kiếm phi công
Su-30MK2 bị nạn, trong khi nó bị rơi tại vùng biển gần đảo Hòn Mê (Hà Tĩnh),
cách nhau hơn 200 km?
Tại sao chiếc máy bay cứu hộ CASA-212 lại bị rơi và
tại sao nó bị vỡ thành nhiều mảnh? Phi công Nguyễn Thành Trung cho rằng máy bay
bị “va đập mạnh”, vậy nó bị va đập mạnh bởi cái gì mà vỡ thành nhiều mảnh như vậy?
Tại sao thứ trưởng Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh phải cầu
viện Trung Quốc hỗ trợ tìm kiếm (trong khi họ muốn độc chiếm Biển Đông)? Nếu vì
“nhân đạo”, thì tại sao không chấp nhận lời đề nghị giúp đỡ của phía Mỹ (là đối
tác “hợp tác toàn diện”)?
NQD.
21/6/2016
No comments:
Post a Comment