Thứ
Tư, ngày 27 tháng 4 năm 2016
* Lời giới thiệu của
NNC:
Dưới
đây là nội dung cuộc phỏng vấn của tuần báo “Der Spiegel” (số 50, ngày
10/12/1979, xuất bản tại Hamburg, Đức) với cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu về
cuốn hồi ký của Henry Kissinger. Có thể coi đây là tài liệu lịch sử quan trọng
nhất của TT Thiệu, vì kể từ khi sống lưu vong cho đến ngày qua đời (29/9/2001 tại
Trung tâm Y tế Beth Israel Deaconess Medical Center tại Boston, Massachusetts,
Hoa Kỳ), ông rất ít xuất hiện trên báo chí.
Lý
do ông chọn để báo “Der Spiegel” phỏng vấn vào ngày 1/12/1979 tại Anh quốc vì
đây là tờ báo nổi tiếng của Đức mà nước Đức lại là quê hương của Kissinger. Một
số người Mỹ sau này gán cho Kissinger là một kẻ “Tội phạm Chiến tranh” (War
Criminal). Đối với một số người Việt tại miền Nam, Kissinger chính là một trong
những thủ phạm dẫn đến ngày Sài Gòn sụp đổ, 30/4/1975.
Chỉ
vài tuần sau khi bài phỏng vấn xuất hiện trên tờ “Der Spiegel”, Kissinger đã gửi
cho TT Thiệu một lá thư riêng (không đề ngày) với lời lẽ rất nhã nhặn để trình
bày sự việc trong cuốn hồi ký. Bức thư có đoạn viết:
“Tôi
có thể hiểu được sự cay đắng của ngài… Cuốn sách của tôi không ngớt lời ca tụng
lòng can đảm và tư cách của ngài… Tôi không trông đợi thuyết phục được ngài
nhưng ít nhất tôi có thể tin tưởng rằng lòng hối hận và kính trọng ngài vẫn còn
trong tôi.
“Với
những lời chúc tốt đẹp nhất.
Henry
Kissinger”
* Bản dịch bài phỏng
vấn dưới đây từ tiếng Đức sang tiếng Việt do nhà văn Phạm Thi Hoài thực hiện.
Hình ảnh trong bài được sưu tầm trên mạng. Bạn đọc có thể tham khảo nguyên bản
tiếng Đức tại http://www.spiegel.de/spiegel/print/d-39685817.html
* Tham khảo thêm:
“Tâm tư của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu”, bản dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt
bài phỏng vấn của “Der Spiegel”: https://www.youtube.com/watch?v=f6sSnZQMTwk&list=PLCM0uD_9jBHMmLcpPW0m--gGPjaSBc5Vx
Tuần
báo “Der Spiegel”
Spiegel: “Thưa ông
Thiệu, từ 1968 đến 1973 Hoa Kỳ đã nỗ lực thương lượng hòa bình cho Việt Nam.
Trong cuốn hồi ký của mình, ông Henry Kissinger, trưởng phái đoàn đàm phán Hoa
Kỳ đã dùng nhiều trang để miêu tả việc ông, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, đã chống
lại những nỗ lực nhằm đem lại hòa bình cho một cuộc chiến đã kéo dài nhiều năm,
với hàng triệu nạn nhân và dường như là một cuộc chiến để "bóp nát trái
tim Hoa Kỳ". Vì sao ông lại cản trở như vậy?”
Nguyễn Văn Thiệu: Nói thế là tuyệt đối
vô nghĩa. Nếu tôi cản trở thì đã không có Hiệp định Hòa bình năm 1973 – mặc dù,
như ai cũng biết, đó không phải là một nền hòa bình tốt đẹp; hậu quả của nó ở
Việt Nam là chứng chỉ rõ ràng nhất. Kissinger đại diện cho chính sách và lợi
ích của chính phủ Mỹ. Là Tổng thống Nam Việt Nam, bổn phận của tôi là bảo vệ những
lợi ích sống còn của đất nước tôi.
Tôi
đã nhiều lần chỉ ra cho Tổng thống Nixon và TS Kissinger rằng, đối với một cường
quốc như Hoa Kỳ thì việc từ bỏ một số vị trí không mấy quan trọng ở một quốc
gia bé nhỏ như Nam Việt Nam không có gì đáng kể. Nhưng với chúng tôi, đó là vấn
đề sinh tử của cả một dân tộc.
***
Spiegel: “Kissinger
không phủ nhận rằng cuối cùng ông cũng đồng ý. Nhưng ông ấy cũng nói rằng phải
đàm phán lâu như vậy vì ông cản trở nhiều, rằng ông đồng ý với các đề xuất của
Mỹ chỉ vì ông chắc mẩm rằng đằng nào thì Hà Nội cũng sẽ bác bỏ.”
Nguyễn Văn Thiệu: Không đúng như vậy.
Để chấm dứt một cuộc chiến tranh đã kéo dài gần 30 năm, người ta cần nhiều thời
gian hơn là hai, ba ngày hay hai, ba tháng. Tôi hiểu rõ rằng đối với người Mỹ
đã đến giúp chúng tôi, đây là cuộc chiến dài nhất trong lịch sử của họ. Có lẽ
vì thế mà họ vội vã như vậy. Nhưng điều chúng tôi cần là một nền hòa bình lâu
dài.
***
Spiegel: “Kissinger
có ý cho rằng ông không thực sự muốn ký kết một thỏa thuận về hòa bình, đúng ra
ông ngầm mong phía miền Bắc cũng sẽ cứng đầu như ông. Kissinger viết rằng ông đồng
ý với nhiều đề xuất từ phía Mỹ - trong tinh thần sẵn sàng không tuân thủ, chỉ vì
trong thâm tâm ông không tin rằng hòa bình sẽ được ký kết. Có phải là trong khi
đàm phán, ông đã bịp, với hy vọng là sẽ không bao giờ phải ngửa bài lên?”
Nguyễn Văn Thiệu: Không. Sao lại có thể
nói là một dân tộc đã chịu đựng bao nhiêu đau khổ suốt 30 năm lại muốn kéo dài
cuộc chiến? Kissinger muốn xúc tiến thật nhanh mọi việc để Mỹ có thể rút quân
và tù binh Mỹ được thả. Mà có lẽ mục đích của chính phủ Mỹ cũng là cao chạy xa
bay. Họ thì có thể bỏ chạy. Nhưng chúng tôi thì phải ở lại Nam Việt Nam.
Chúng
tôi có quyền chính đáng để đòi hỏi một hiệp định hòa bình toàn diện. Không phải
là vài ba năm hòa bình, rồi sau đó lại 30 năm chiến tranh.
***
Spiegel: “Vậy tại sao
ông lại đi trước cả người Mỹ và tự đề nghị Hoa Kỳ rút quân trong cuộc họp tại đảo
Midway ở Thái Bình Dương tháng Sáu 1969, theo tường thuật của Kissinger?”
Nguyễn Văn Thiệu: Trước khi họp ở
Midway, việc chính phủ Mỹ dự định rút quân đã không còn là điều bí mật. Cho
phép tôi nhắc để các ông nhớ lại, tin tức về việc Mỹ sẽ rút một số quân đã loan
khắp thế giới, trước cuộc họp ở Midway. Vì sao? Theo tôi, chính phủ Mỹ muốn thả
bóng thăm dò, tiết lộ thông tin trước cho báo chí và đẩy chúng tôi vào sự đã rồi.
***
Spiegel: Tức là ông
đã nắm được tình hình?
Nguyễn Văn Thiệu: Đúng thế. Cuộc họp ở
Midway nhằm hai mục đích. Thứ nhất, cho hai vị tân tổng thống cơ hội làm quen
và bàn về đề tài Việt Nam. Điểm thứ hai đã vạch rất rõ là bàn về việc rút những
toán quân Mỹ đầu tiên. Tôi đã không hình dung sai điều gì và đã làm chủ tình thế.
Không có gì phải lo lắng, và tôi đã rất vững tâm.
***
Spiegel: “Khi đề xuất
Mỹ rút quân, ông có thật sự tin rằng Nam Việt Nam có thể chiến đấu một mình và
cuối cùng sẽ chiến thắng trong một cuộc chiến mà hơn 540.000 lính Mỹ cùng toàn
bộ guồng máy quân sự khổng lồ của Hoa Kỳ không thắng nổi không? Chuyện đó khó
tin lắm.”
Nguyễn Văn Thiệu: Không, đề xuất đó
không phải của tôi. Tôi chỉ chấp thuận. Tôi chấp thuận đợt rút quân đầu tiên của
Mỹ, vì Tổng thống Nixon bảo tôi là ông ấy gặp khó khăn trong đối nội và việc
rút quân chỉ mang tính tượng trưng. Ông ấy cần sự ủng hộ của dư luận và của Quốc
hội. Nhưng tôi cũng bảo ông ấy rằng: Ông phải chắc chắn rằng Hà Nội không coi
việc bắt đầu rút quân đó là dấu hiệu suy yếu của Hoa Kỳ.
***
Spiegel: Và ông không
nghĩ đó là khởi đầu của việc rút quân toàn bộ?
Nguyễn Văn Thiệu: Không. Tôi đã hình
dung được rằng, đó là bước đầu tiên để cắt giảm quân số. Nhưng không bao giờ
tôi có thể nghĩ Mỹ sẽ rút hẳn và bỏ rơi Nam Việt Nam. Tôi đã trình bày với Tổng
thống Nixon rằng việc cắt giảm quân số sẽ phải tiến hành từng bước, như khả
năng chiến đấu và việc tiếp tục củng cố Quân lực Việt Nam Cộng hòa cho phép –
tương ứng với những viện trợ quân sự và kinh tế có thể giúp Nam Việt Nam tự đứng
trên đôi chân của mình.
Quan
trọng hơn, tôi đã bảo ông ấy phải yêu cầu Hà Nội có một hành động tương ứng đáp
lại. Phía Mỹ đồng ý với tôi ở mọi điểm; về một sự rút quân từng bước và của cả
hai phía...
***
Spiegel: “... và
mang tính tượng trưng?”
Nguyễn Văn Thiệu: Tôi hiểu rõ rằng cuộc
chiến ở Việt Nam cũng là một vấn đề đối nội của Hoa Kỳ. Và Tổng thống Nixon giải
thích rằng ông ấy cần một cử chỉ tượng trưng để giải quyết vấn đề đó. Trước đó
một tuần tôi đến Seoul và Đài Loan, tôi đã nói với Tổng thống Park Chung Hee và
Tổng thống Tưởng Giới Thạch rằng tôi hy vọng việc rút quân sắp bàn với Tổng thống
Nixon ở Midway chỉ là một sự cắt giảm quân số mang tính tượng trưng. Song tôi
cũng lưu ý rằng nếu Hoa Kỳ muốn rút hẳn thì chúng tôi cũng không thể ngăn cản.
Vậy thì đề nghị họ rút quân từng bước, đồng thời viện trợ để củng cố một quân đội
Nam Việt Nam hùng mạnh và hiện đại, có thể thay thế người Mỹ, sẽ là hợp lý hơn.
Không bao giờ tôi đặt giả thiết là lính Mỹ sẽ ở lại Việt Nam vĩnh viễn.
***
Spiegel: Mỹ vẫn đóng
quân ở Hàn Quốc và Tây Đức mà.
Nguyễn Văn Thiệu: Nhưng chúng tôi là một
dân tộc rất kiêu hãnh. Chúng tôi bảo họ rằng, chúng tôi cần vũ khí và viện trợ,
nhưng nhiệt huyết và tính mạng thì chúng tôi không thiếu.
***
Spiegel: Ông đánh giá
thế nào về tình thế của ông khi ấy? Vài tháng trước đó, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ
Melvin Laird vừa đưa ra một khái niệm mới: "Việt Nam hóa chiến
tranh". Trước đây người Mỹ chỉ nói đến việc "phi Mỹ hóa" cuộc
chiến. Cái khái niệm mới ấy đã thể hiện rõ dự định rút khá nhanh của người Mỹ rồi,
đúng không?
Nguyễn Văn Thiệu: Khi đến Sài Gòn vào
tháng Bảy 1969, ông Nixon đã nhắc lại rằng ông ấy cần được sự hậu thuẫn của dư
luận trong nước Mỹ. Tôi hiểu ông ấy. Nhưng ông ấy không hề tuyên bố rằng việc
rút quân là một lịch trình mang tính hệ thống do sáng kiến của Mỹ. Ông ấy chỉ
nói với tôi về những khó khăn trong nước, ở Mỹ, và đề nghị tôi giúp. Ông ấy bảo:
"Hãy giúp chúng tôi giúp ông." Tôi đáp: "Tôi giúp ông giúp chúng
tôi." Trong lần họp mặt đó, chúng tôi lại tiếp tục bàn về việc rút quân từng
bước.
***
Spiegel: “Nhưng không
đưa ra một lịch trình cụ thể?”
Nguyễn Văn Thiệu: Không. Và ông Nixon
lại hứa rằng việc rút quân của Mỹ sẽ phải đi đôi với những hành động tương ứng
của Bắc Việt và phải phù hợp với khả năng phòng thủ của Nam Việt Nam cũng như
phải phù hợp với việc Mỹ tiếp tục viện trợ quân sự và kinh tế cho Nam Việt Nam.
***
Spiegel: “Ở thời điểm
đó ông có nhận ra rằng nếu thấy cần thì Mỹ cũng sẽ sẵn sàng đơn phương rút quân
không?”
Nguyễn Văn Thiệu: Có, tôi đã ngờ.
Nhưng lúc đó tôi vẫn rất vững tâm và tin tưởng vào đồng minh lớn của chúng tôi.
***
Spiegel: Có lẽ ông
tin thế là phải. Cuốn hồi ký của Kissinger cho thấy khá rõ rằng chính phủ Nixon
không thể dễ dàng "đình chỉ một dự án liên quan đến hai chính phủ, năm quốc
gia đồng minh và đã khiến 31,000 người Mỹ phải bỏ mạng, như thể ta đơn giản
chuyển sang một kênh TV khác."
Rõ
ràng là người Mỹ muốn thoát khỏi Việt Nam bằng con đường đàm phán. Chỉ trong
trường hợp cần thiết họ mới muốn đơn phương rút quân. Ông có đưa ra yêu sách
nào liên quan đến những cuộc thương lượng giữa Washington và Hà Nội không?
Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi đã chán ngấy
chiến tranh và quyết tâm chấm dứt nó qua đàm phán. Chúng tôi yêu cầu những kẻ
xâm lăng đã tràn vào đất nước của chúng tôi phải rút đi. Tất cả chỉ có vậy.
Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu
Spiegel: “Ông đã oán
trách rằng sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam năm 1975 chủ yếu là do sau Hiệp định
Paris, miền Bắc vẫn được phép đóng quân tại miền Nam. Ông khẳng định rằng mình
chỉ chấp nhận sự hiện diện đó của miền Bắc trong quá trình đàm phán, còn sau
khi ký kết thì Hà Nội phải rút quân.
Nhưng
Kissinger lại khẳng định trong hồi ký rằng ông thừa biết việc Hà Nội sẽ tiếp tục
trụ lại ở miền Nam, và cho đến tận tháng Mười 1972 ông cũng không hề phản đối
những đề xuất của phía Mỹ liên quan đến điểm này.
Nguyễn Văn Thiệu: Đó là một lời nói dối
hết sức vô giáo dục của Kissinger, rằng tôi chấp thuận cho quân đội Bắc Việt ở
lại miền Nam. Nếu ngay từ đầu tôi đã chấp thuận như Kissinger nói thì lúc ông ấy
cho tôi xem bản dự thảo, trong đó không có điều khoản nào về việc rút quân của
Bắc Việt, tôi đã chẳng phản đối quyết liệt như thế.
Điểm
then chốt nhất mà tôi dốc sức bảo vệ, từ đầu cho đến khi kết thúc đàm phán,
chính là yêu cầu Hà Nội phải rút quân. Tôi đã tuyên bố rõ với Kissinger là nếu
không đạt được điều đó thì không có ký kết.
Sau
nhiều ngày tranh luận gay gắt, cuối cùng ông ta bảo: "Thưa Tổng thống, điều
đó là không thể được. Nếu được thì tôi đã làm rồi. Vấn đề này đã đặt ra ba năm
trước, nhưng phía Liên Xô không chấp nhận." Tôi hiểu ra rằng chính phủ Mỹ
đã nhượng bộ trước yêu sách của Liên Xô, và đó là nỗi thất vọng lớn nhất của
tôi.
***
Spiegel: “Có lẽ Liên
Xô không thể làm khác, vì Hà Nội không chấp nhận coi Nam Việt Nam là một quốc
gia khác, và một thời gian dài họ còn phủ nhận việc họ đã đưa quân đội chính
quy vào miền Nam.”
Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi đã chiến
đấu hơn 20 năm và học được rằng, đừng bao giờ tin lời Nga Xô và Hà Nội. Bắc Việt
đóng quân ở cả Lào, Campuchia và Nam Việt Nam, tôi tin rằng một người mù cũng
nhìn ra điều đó. Muốn chấm dứt chiến tranh thì chúng ta phải nhìn vào hiện thực
chứ không thể chỉ nghe lời kẻ địch.
***
Spiegel: “Ông có lập
luận như thế với Kissinger không?”
Nguyễn Văn Thiệu: Tất nhiên, và với cả
Tướng Haig nữa. Tôi bảo ông ấy thế này: "Ông Haig, ông là tướng,
tôi là tướng. Ông có biết một hiệp định hòa bình nào trong lịch sử lại cho phép
kẻ xâm lăng tiếp tục đóng quân tại lãnh thổ mà nó xâm lược không? Ông có cho
phép Liên Xô vào Hoa Kỳ đóng quân rồi tuyên bố rằng ông đã ký kết thành công một
hiệp định hòa bình với Liên Xô không?"
***
Spiegel: “Ông ấy trả
lời sao?”
Nguyễn Văn Thiệu: Ông ấy không trả lời
được. Mà trả lời thế nào cơ chứ, chuyện đó hoàn toàn vô lý. Còn gì mà nói nữa.
***
Spiegel: “Nhưng
Kissinger thì có câu trả lời trong hồi ký. Ông ấy viết rằng khó mà bắt Hà Nội
rút quân, vì họ hoàn toàn không sẵn sàng từ bỏ trên bàn đàm phán những thứ mà họ
không mất trên chiến trường. Nhưng ông ấy cũng nói rằng trong Hiệp định Paris
có một điều khoản không cho phép xâm lấn. Ông ấy đi đến kết luận rằng "lực
lượng miền Bắc sẽ tự nhiên tiêu hao sinh lực và dần dần biến mất."
Nguyễn Văn Thiệu: Tôi thấy chính phủ Mỹ
và đặc biệt là TS Kissinger không hề rút ra được bài học nào khi phải đàm phán
với cộng sản, sau những kinh nghiệm đau thương năm 1954 giữa Pháp và cộng sản Việt
Nam và từ Chiến tranh Triều Tiên. Họ cũng không học được gì từ những cuộc đàm
phán về Lào và Campuchia và cũng không nắm bắt được là nên xử sự thế nào với cộng
sản và cần phải hiểu chiến lược và chiến thuật của cộng sản ra sao.
Tức
là ta lại phải trở về với vấn đề rằng, vì sao TS Kissinger, người đại diện cho
một quốc gia lớn và tự cho mình là nhà thương thuyết giỏi giang nhất, lại có thể
tin rằng quân Bắc Việt đóng tại miền Nam sẽ không xâm lấn. Sao ông ấy có thể
tin như vậy cơ chứ?
Ông
ấy đủ sức kiểm soát từng tấc đất trên biên giới của Campuchia, và của Lào, và của
Nam Việt Nam à? Dù có cả triệu nhân viên quốc tế giám sát, chúng tôi cũng không
bao giờ có thể khẳng định là đã có đủ bằng chứng rằng không có xâm lấn. Sao ông
ấy lại có thể tin những gì Bắc Việt nói. Ông ấy có thể tin lời cộng sản, nhưng
chúng tôi thì không. Vì thế mà tôi đã cương quyết đòi Bắc Việt phải rút quân. Nếu
họ thực sự muốn hòa bình thì họ ở lại miền Nam làm gì?
***
Spiegel: “Vậy
Kissinger nói sao?”
Nguyễn Văn Thiệu: Còn nói gì được nữa?
Ông ấy và chính phủ Mỹ chỉ muốn chính xác có một điều: rút khỏi Việt Nam càng sớm
càng tốt và đảm bảo việc trao trả tù binh Mỹ. Họ bảo chúng tôi là họ mong muốn
một giải pháp trong danh dự, nhưng sự thực thì họ chỉ muốn bỏ của chạy lấy người.
Nhưng họ lại không muốn bị người Việt và cả thế giới kết tội là đã bỏ rơi chúng
tôi. Đó là thế kẹt của họ.
“Bon
Voyage” (1973)
Spiegel: “Kissinger
viết rằng, ngay sau Chiến dịch Xuân-Hè 1972 của Hà Nội, các bên dường như đã đổi
vai. Hà Nội đột nhiên muốn đàm phán trở lại, còn Sài Gòn thì muốn đánh cho đến
khi giành toàn thắng.”
Nguyễn Văn Thiệu: Hoàn toàn vô nghĩa!
Ông TS Kissinger hiểu thế nào là chiến thắng? Bắc Việt đã đem chiến tranh vào
miền Nam. Chúng tôi yêu cầu họ phải rút quân. Thế là chiến thắng hay sao? Tôi
chưa bao giờ yêu cầu Bắc Việt tự coi mình là tù binh của miền Nam. Tôi chưa bao
giờ yêu cầu Bắc Việt bồi thường cho tổn thất chiến tranh. Tôi chưa bao giờ đòi
hỏi Bắc Việt giao nộp lãnh thổ. Tôi chưa bao giờ đòi có chân trong chính phủ ở
Hà Nội. Vậy ông Kissinger hiểu thế nào về chiến thắng và toàn thắng?
***
Spiegel: “Về vấn đề
rút quân của miền Bắc, 31 tháng Năm 1971 là một ngày quan trọng. Kissinger cho
biết là khi đó, trong các cuộc họp kín, Mỹ đã đưa ra yêu cầu hai bên cùng rút
quân. Trong hồi ký, ít nhất ba lần TS Kissinger viết rằng không những ông được
thông báo trước, mà ông còn chấp thuận”.
Nguyễn Văn Thiệu: Tôi không bao giờ
chấp thuận việc rút quân đơn phương. Từ cuộc họp ở Midway, tôi luôn luôn yêu cầu
rút quân từng bước và cả hai bên cùng rút. Hoa Kỳ đã thay đổi lập trường và tìm
cách ép chúng tôi, với những chiến thuật mà họ thường sử dụng, bằng cách huơ
thanh gươm Damocles trên đầu tôi, chẳng hạn họ đem công luận Mỹ ra đe tôi, họ bảo: "Hình
ảnh của ông tại Hoa Kỳ hiện nay rất tồi tệ!" Hoặc: "Quốc
hội muốn cắt giảm viện trợ." Vân vân. Họ áp dụng đúng những chiến
thuật đã biết, tiết lộ thông tin cho báo giới và đặt tôi trước sự đã rồi.
Nếu
tôi từ chối, công luận sẽ quay ra chống tôi: "Ông ta đòi quá nhiều,
ông ta sẽ không bao giờ cho Mỹ được rút, ông ta sẽ không bao giờ cho tù binh Mỹ
được trở về." Thế là tôi luôn phải chấp thuận. Không phải tự nguyện,
mà miễn cưỡng. Tôi phản đối làm sao được, khi lần nào họ cũng bảo rằng: "Ông
mà chống thì sẽ bị cắt viện trợ."
***
Spiegel: “Kissinger
viết rằng trước bất kỳ một quyết định dù dưới hình thức nào, phía Mỹ cũng hỏi ý
kiến ông trước”.
Nguyễn Văn Thiệu: Vâng, họ hỏi ý kiến
tôi, nhưng chắc chắn không phải là để nghe tôi nói "Không", nếu đó là
những quyết định phục vụ cho lợi ích của Hoa Kỳ. Họ ưa gây sức ép hơn, và đạt
được gần như mọi thứ bằng cách đó.
***
Spiegel: “Bây giờ
Kissinger cay đắng chỉ trích về Chiến dịch Hạ Lào năm 1971. Ông ấy viết rằng,
ông đã đồng ý rằng chiến dịch này nhất định phải thực hiện trong mùa khô. Vậy ý
tưởng đó ban đầu là của ai?”
Nguyễn Văn Thiệu: Của người Mỹ. Trước
đó khá lâu, chúng tôi từng có ý định thực hiện, nhưng không đủ khả năng tiến
hành một mình. Đến khi phía Mỹ đề xuất thì chúng tôi sẵn sàng đồng ý, để sớm chấm
dứt chiến tranh. Chiến dịch đó do liên quân Việt-Mỹ thực hiện và được vạch ra rất
rõ ràng: Chúng tôi tác chiến tại Lào, còn phía Mỹ thì hỗ trợ tiếp vận từ Việt
Nam và từ biên giới.
***
Spiegel: “Vì sao? Vì
Quốc hội Mỹ có luật cấm quân đội Mỹ xâm nhập lãnh thổ Lào?”
Nguyễn Văn Thiệu: Vâng, tôi tin là vậy.
Nhưng cũng vì chúng tôi không có đủ phương tiện để tiếp tế cho binh lính, và nhất
là để cứu thương binh ra ngoài. Việc đó chỉ có thề thực hiện bằng trực thăng,
và chỉ phía Mỹ mới có đủ trực thăng. Không có họ thì không đời nào chúng tôi đồng
ý thực hiện chiến dịch tại Lào.
***
Spiegel: “Kissinger
viết rằng quân của ông gặp khó khăn khi yêu cầu không quân hỗ trợ, vì gần như
không có nhân viên truyền tin nói được tiếng Anh”.
Nguyễn Văn Thiệu: Hoàn toàn không có
vấn đề gì với việc hỗ trợ của không quân. Đôi khi không có thì chúng tôi cũng
không lo lắng; chúng tôi có thể dùng pháo binh. Vấn đề là: trong ba ngày mở đầu
chiến dịch, phía Mỹ đã mất rất nhiều phi công trực thăng. Vì thế mà họ chần chừ,
không bay đúng thời điểm và ở quy mô cần thiết. Điều đó thành ra một vấn đề lớn
với quân lực Nam Việt Nam.
***
Spiegel: “Tinh thần
binh lính bị suy sụp?”
Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi không đem
được binh lính tử trận và thương binh ra ngoài. Không phải chỉ tinh thần binh
lính, mà cả tiến độ của chiến dịch cũng bị ảnh hưởng.
***
Spiegel: “Kissinger
nêu ra một lý do khác. Rằng ông đã lệnh cho các sĩ quan chỉ huy phải thận trọng
khi tiến về hướng Tây và ngừng chiến dịch nếu quân số tổn thất lên tới 3000.
Kissinger viết rằng nếu phía Mỹ biết trước điều đó thì không đời nào họ đồng ý
tham gia chiến dịch này”.
Nguyễn Văn Thiệu: Đối với một quân
nhân, định trước một tổn thất về quân số là điều phi lý. Nếu TS Kissinger nói
thế thì ông ấy thật giàu trí tưởng tượng. Chúng tôi chỉ có thể tiến về phía Tây
trong giới hạn mà trực thăng cứu viện có thể bay đến. Kissinger bảo là chúng
tôi đã rút quân mà không báo cho phía Mỹ. Làm sao chúng tôi có thể triệt thoái
trên 10,000 quân mà họ không hay biết gì?
***
Spiegel: “Tức là ông
đã thông báo cho họ?”
Nguyễn Văn Thiệu: Ồ, tất nhiên. Để tôi
kể cho ông nghe một câu chuyện. Hồi đó tờ Time hay tờ Newsweek có đăng bức hình
một người lính Nam Việt Nam đang bám vào càng một chiếc trực thăng cứu viện.
Bên dưới đề: "Nhát như cáy". Tôi chỉ cười. Tôi thấy
nó tệ. Không thể ngăn một người lính lẻ loi hành động như vậy được. Nhưng báo
chí lại kết tội lính Nam Việt Nam là hèn nhát và đồng thời giấu biến sự thật về
tinh thần chiến đấu sút kém của phi công trực thăng Mỹ trong chiến dịch này.
Hạ
Lào 1971 (Chiến dịch Lam Sơn 719)
Spiegel: “Một điểm
gây rất nhiều tranh cãi giữa Hoa Kỳ và Nam Việt Nam là vấn đề ngưng bắn. Theo
cuốn hồi ký của Kissinger thì ngay từ mùa Hè 1970 chính phủ Mỹ đã thống nhất về
việc sẽ đề xuất một thỏa thuận ngưng bắn tại các chiến tuyến hiện có. Kissinger
khẳng định rằng ông không chỉ chấp thuận mà còn ủng hộ đề xuất này”.
Nguyễn Văn Thiệu: Đúng như vậy, tôi
cũng cho rằng ngưng bắn phải là bước đầu tiên để đáp ứng một hiệp định hòa
bình. Nhưng ngưng bắn ngay lập tức – và tôi xin nhắc lại: ngay lập tức – thì
tôi không bao giờ đồng ý với Kissinger. Tôi bảo, chúng ta phải cân nhắc hết sức
kỹ lưỡng việc này. Không thể thực hiện ngưng bắn trước khi tính kỹ việc ai sẽ
giám sát việc ngưng bắn, nếu ai vi phạm thì hậu quả sẽ thế nào, hai bên sẽ đóng
quân ở đâu, vân vân.
***
Spiegel: “Kissinger
viết: "Khi đó chúng tôi vẫn tưởng rằng chúng tôi và Thiệu cùng đồng hành hợp
tác." Phía Mỹ đã không hiểu rằng ông đem những "chiến thuật né
tránh" mà "người Việt thường áp dụng với người ngoại quốc" ra
dùng”.
***
Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi là một nước
nhỏ, gần như mọi thứ đều nhờ ở một đồng minh lớn và vẫn tiếp tục phải xin viện
trợ dài hạn của đồng minh đó, không bao giờ chúng tôi lại cho phép mình dùng những
thủ đoạn nào đó.
***
Spiegel: “Khi Mỹ đã
rút, còn Hà Nội thì được phép tiếp tục đóng quân ở miền Nam, chắc ông phải thấy
là ông đã thua trong cuộc chiến này?”
Nguyễn Văn Thiệu: Không hẳn, nếu
chúng tôi tiếp tục được sự trợ giúp cần thiết từ phía Mỹ, như chính phủ Mỹ đã hứa
khi chúng tôi đặt bút ký hiệp định. Ngay cả khi ký, tôi đã coi đó là một nền
hòa bình tráo trở.
Nhưng
chúng tôi vẫn tin rằng có thể chống lại bất kỳ sự xâm lăng nào của Bắc Việt. Vì
hai lý do: Chúng tôi có lời hứa chắc chắn bằng văn bản của Tổng thống Nixon rằng
Hoa Kỳ sẽ phản ứng quyết liệt, nếu Bắc Việt vi phạm hiệp định.
***
Spiegel: “Mặc dù ông ấy
không hề cho biết sẽ phản ứng bằng cách nào”.
Nguyễn Văn Thiệu: Thứ hai, chúng tôi
được đảm bảo là sẽ có đủ viện trợ quân sự và kinh tế cần thiết để chống Bắc Việt
xâm lược. Nếu chính phủ Mỹ thực lòng giữ lời hứa thì chiến tranh có thể kéo
dài, nhưng miền Nam sẽ không bị Bắc Việt thôn tính.
***
Spiegel: “Về điều này
thì ông và Kissinger ít nhiều đồng quan điểm. Ông ấy viết rằng chiến lược toàn
cục có thể sẽ thành công, nếu Mỹ đủ khả năng hành động trước bất kỳ một vi phạm
nào của Hà Nội và tiếp tục viện trợ đầy đủ cho miền Nam. Nhưng chuyện gì đã xảy
ra? Kissinger quy lỗi cho vụ Watergate, vì sau đó Tổng thống Mỹ không còn đủ uy
tín. Ông có nghĩ rằng vụ Watergate thực sự chịu trách nhiệm, khiến tất cả sụp đổ
không?”
Nguyễn Văn Thiệu: Rất tiếc, nhưng tôi
không phải là người Mỹ. Tôi không muốn quét rác trước cửa nhà người Mỹ. Nhưng nếu
người Mỹ giữ lời hứa thì đó là sự cảnh báo tốt nhất, khiến Bắc Việt không tiếp
tục xâm lăng, và chiến tranh có thể sẽ dần chấm dứt.
***
Spiegel: “Nếu Hoa Kỳ
giữ lời thì theo ông, hiệp định hoàn toàn có thể thành công?”
Nguyễn Văn Thiệu: Tôi cho là như vậy.
***
Spiegel: “Như vậy về
tổng thể, Hiệp định Paris không đến nỗi tồi?”
Nguyễn Văn Thiệu: Đó chắc chắn không
phải là một hiệp định có lợi cho chúng tôi. Nó tráo trở. Nhưng đó là lối thoát
cuối cùng. Ông phải hiểu rằng chúng tôi đã ký kết, vì chúng tôi không chỉ có lời
hứa của chính phủ Mỹ như tôi đã nói, mà hiệp định đó còn được mười hai quốc gia
và Liên Hiệp Quốc đảm bảo.
Cố
vấn Henry Kissinger
Spiegel: “Trong cuốn
hồi ký, TS Kissinger có những bình luận rát mặt về khá nhiều chính khách đầu
đàn. Nhưng riêng ông thì bị ông ấy dành cho những lời hạ nhục nhất. Tuy đánh
giá cao "trí tuệ", "sự can đảm", "nền tảng văn
hóa" của ông, nhưng ông ấy vẫn chú tâm vào "thái độ vô liêm sỉ",
"xấc xược", "tính vị kỷ chà đạp" và "chiến thuật khủng
khiếp, gần như bị ám ảnh điên cuồng" trong cách ứng xử với người Mỹ của
ông. Vì thế, cuối cùng Kissinger nhận ra "sự phẫn nộ bất lực mà người Việt
thường dùng để hành hạ những đối thủ mạnh hơn về thể lực". Ý kiến của ông
về những khắc họa đó thế nào?”
Nguyễn Văn Thiệu: Tôi không muốn đáp lại
ông ấy. Tôi không muốn nhận xét gì về ông ấy. Ông ấy có thể đánh giá tôi, tốt
hay xấu, thế nào cũng được. Tôi muốn nói về những điều đã xảy ra giữa Hoa Kỳ và
Nam Việt Nam hơn.
***
Spiegel: “Hay ông đã
làm gì khiến ông ấy có cái cớ để viết về ông với giọng coi thường như thế?”
Nguyễn Văn Thiệu: Có thể ông ấy đã ngạc
nhiên vì gặp những người quá thông minh và mẫn cán. Có thể cũng do cái phức cảm
tự tôn của một người đàn ông hết sức huênh hoang. Có thể ông ấy không tin nổi
là người Việt đối thoại với ông ta lại địch được một người tự coi mình là vô
cùng quan trọng.
Để
tôi kể thêm một câu chuyện nữa: Ở đảo Midway tôi thấy buồn cười, vì thật chẳng
bao giờ tôi có thể hình dung là những người như vậy lại tệ đến thế. Chúng tôi,
gồm ông Nixon, ông Kissinger, phụ tá của tôi và tôi, gặp nhau ở nhà một sĩ quan
chỉ huy hải quân ở Midway. Ở đó có ba chiếc ghế thấp và một chiếc ghế cao. Ông
Nixon ngồi trên chiếc ghế cao.
***
Spiegel: “Như trong
phim Nhà độc tài vĩ đại của Chaplin? Hitler cũng ngồi trên một chiếc ghế cao để
có thể nhìn xuống Mussolini, ngồi trên một chiếc ghế thấp hơn”.
Nguyễn Văn Thiệu: Nhưng tôi vào góc
phòng lấy một chiếc ghế cao khác, nên tôi ngồi ngang tầm với Nixon. Sau buổi gặp
đó ở Midway, tôi nghe bạn bè người Mỹ kể lại rằng Kissinger đã rất bất ngờ vì Tổng
thống Thiệu là một người như vốn dĩ vẫn vậy.
***
Spiegel: “Trong hồi
ký, Kissinger phàn nàn là đã bị cá nhân ông đối xử rất tệ; ông bỏ hẹn để đi
chơi trượt nước. Nixon còn quá lời hơn. Theo Kissinger thì Nixon đã gọi ông là
"đồ chó đẻ" (son of a bitch) mà Nixon sẽ dạy cho biết "thế nào
là tàn bạo".
Nguyễn Văn Thiệu: Rất tiếc, nhưng tôi
không thể cho phép mình đáp lại những lời khiếm nhã, thô tục đó của Nixon, vì
tôi xuất thân từ một gia đình có nề nếp.
Nếu
tôi không tiếp TS Kissinger và Đại sứ Bunker thì đơn giản chỉ vì chúng tôi chưa
chuẩn bị xong để tiếp tục đàm thoại. Họ đã cần đến 4 năm, vậy vì sao lại bắt
tôi trả lời ngay lập tức trong vòng một tiếng đồng hồ? Có lẽ họ sẽ hài lòng, nếu
chúng tôi chỉ biết vâng dạ. Nhưng tôi không phải là một người chỉ biết vâng dạ,
và nhân dân Nam Việt Nam không phải là một dân tộc chỉ biết vâng dạ, và Quốc hội
của chúng tôi không phải là một Quốc hội chỉ biết vâng dạ. Mà tôi phải hỏi ý kiến
Quốc hội.
TT
Nixon và Kissinger
Spiegel: “TS
Kissinger viết rằng thái độ của ông với ông ấy chủ yếu xuất phát từ "lòng
oán hận độc địa".
Nguyễn Văn Thiệu: Không. Tôi chỉ bảo vệ
lợi ích của đất nước tôi. Dĩ nhiên là đã có những cuộc tranh luận nảy lửa,
nhưng thái độ của tôi xuất phát từ tinh thần yêu nước của tôi.
***
Spiegel: “Kissinger
viết rằng ông ấy hoàn toàn "thông cảm với hoàn cảnh bất khả kháng" của
ông. Ông có thấy dấu hiệu nào của sự thông cảm đó không?”
Nguyễn Văn Thiệu: Không, tôi không thấy.
Tôi chỉ thấy duy nhất một điều, đó là áp lực từ phía chính phủ Mỹ.
***
Spiegel: “Kissinger
viết rằng ông không bao giờ tham gia vào các buổi thảo luận về chủ trương
chung. Ông ấy bảo rằng ông chiến đấu "theo kiểu Việt Nam: gián tiếp, đi đường
vòng và dùng những phương pháp khiến người ta mệt mỏi hơn là làm sáng tỏ vấn đề",
rằng ông "chê bai mọi thứ, nhưng không bao giờ nói đúng vào trọng tâm câu
chuyện".
Nguyễn Văn Thiệu: Hãy thử đặt mình vào
tình thế của tôi: Ngay từ đầu tôi đã chấp nhận để chính phủ Mỹ họp kín với Hà Nội.
Kissinger bảo là đã thường xuyên thông báo cho tôi. Vâng, tôi được thông báo thật
– nhưng chỉ về những gì mà ông ấy muốn thông báo. Nhưng tôi đã tin tưởng rằng đồng
minh của mình sẽ không bao giờ lừa mình, không bao giờ qua mặt tôi để đàm phán
và bí mật bán đứng đất nước tôi.
Các
ông có hình dung được không: vỏn vẹn bốn ngày trước khi lên đường đến Hà Nội
vào tháng Mười 1972, ông ấy mới trao cho tôi bản dự thảo mà sau này sẽ được
chuyển thành văn bản hiệp định ở Paris, bằng tiếng Anh? Chúng tôi phải làm việc
với bản dự thảo tiếng Anh này, từng điểm một.
Và
bản dự thảo đó không phải do Nam Việt Nam cùng Hoa Kỳ soạn ra, mà do Hà Nội
cùng Hoa Kỳ soạn ra. Các ông có thể tưởng tượng được điều đó không? Lẽ ra, trước
hết phía Mỹ nên cùng chúng tôi thống nhất quan điểm về những điều kiện đặt ra
cho hiệp định, và sau đó, nếu Bắc Việt có đề nghị gì khác thì Kissinger phải trở
lại hội ý với chúng tôi. Nhưng ông ấy không hề làm như vậy.
Thay
vào đó, ông ấy cùng Bắc Việt soạn ra các thỏa thuận rồi trình ra cho tôi bằng
tiếng Anh. Các ông có thể hiểu cảm giác của tôi khi cầm văn bản của hiệp định
hòa bình sẽ quyết định số phận của dân tộc tôi mà thậm chí không buồn được viết
bằng ngôn ngữ của chúng tôi không?
***
Spiegel: “Nhưng cuối
cùng ông cũng có bản tiếng Việt?”
Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi cương quyết
đòi bản tiếng Việt, đòi bằng được. Mãi đến phút cuối cùng ông ấy mới miễn cưỡng
chấp nhận. Sau đó chúng tôi phát hiện ra rất nhiều cái bẫy. Tôi hỏi Đại sứ
Bunker và Kissinger, ai đã soạn bản tiếng Việt. Họ bảo: một người Mỹ rất có
năng lực thuộc International Linguistics College tại Hoa Kỳ cùng với phía Hà Nội.
Nhưng làm sao một người Mỹ có thể hiểu và viết tiếng Việt thành thạo hơn người
Việt. Và làm sao một người Mỹ có thể ứng đối bằng tiếng Việt với cộng sản Bắc
Việt giỏi hơn chính chúng tôi? Đồng minh mà như thế thì có chân thành và trung
thực không?
***
Spiegel: “Một số quan
chức cao cấp ở Hoa Kỳ từng nhận định rằng thực ra Kissinger chỉ cố gắng đạt được
một khoảng thời gian khả dĩ giữa việc Mỹ rút quân và sự sụp đổ tất yếu của Nam
Việt Nam. Trong cuốn sách của mình, Kissinger bác bỏ quan niệm đó. Ý kiến của
ông thì thế nào?”
Nguyễn Văn Thiệu: Bất kể người Mỹ nói
gì, tôi tin rằng mục đích cuối cùng của chính phủ Mỹ là một chính phủ liên hiệp
tại Nam Việt Nam.
***
Spiegel: “Nhưng
Kissinger đưa ra cả một loạt điểm để chứng minh rằng không phải như vậy”.
Nguyễn Văn Thiệu: Chính phủ Mỹ tìm
cách ép chúng tôi phải đồng ý. Để họ có thể hãnh diện là đã thoát ra được bằng
một "thỏa thuận danh dự". Để họ có thề tuyên bố ở Hoa Kỳ rằng: "Chúng
ta rút quân về nước, chúng ta đảm bảo việc phóng thích tù binh Mỹ." Và
ở ngoài nước Mỹ thì họ nói rằng: "Chúng tôi đã đạt được hòa bình
cho Nam Việt Nam. Bây giờ mọi chuyện do người dân Nam Việt Nam định đoạt. Nếu
chính phủ liên hiệp biến thành một chính phủ do cộng sản chi phối thì đó là vấn
đề của họ. Chúng tôi đã đạt được một giải pháp danh dự."
***
Spiegel: “Kissinger
viết như sau: "Nguyên tắc mà chúng tôi tuân thủ trong các cuộc đàm phán
là: Hoa Kỳ không phản bội đồng minh."
Nguyễn Văn Thiệu: Ông cứ nhìn miền Nam
Việt Nam, Campuchia và toàn bộ Đông Dương hiện nay thì biết. Khi tranh luận với
các đại diện chính phủ Mỹ về hiệp định hòa bình, chúng tôi thường có ấn tượng rằng
họ không chỉ đóng vai, mà thực tế là đã biện hộ cho ác quỷ.
***
Spiegel: “Có bao giờ
ông thấy một chút gì như là biết ơn đối với những điều mà người Mỹ đã làm để
giúp nước ông không? Trong cuốn sách của mình, Kissinger viết rằng: "Biết
công nhận những cống hiến của người khác không phải là đặc tính của người Việt."
Nguyễn Văn Thiệu (cười): Về những điều
mà Kissinger viết trong cuốn sách của ông ấy thì tôi cho rằng chỉ một người có
đầu óc lộn bậy, chỉ một người có tính khí tởm lợm mới nghĩ ra được những thứ
như vậy. Trong cuốn sách đó ông ấy còn tỏ ý sợ người Việt sẽ đem những người Mỹ
còn sót lại ra trả thù, sau khi Washington bỏ rơi chúng tôi. Không bao giờ
chúng tôi làm những điều như thế, không bây giờ và không bao giờ.
***
Spiegel: “Cá nhân ông
có cảm thấy một chút hàm ơn nào với họ không?”
Nguyễn Văn Thiệu: Hết sức thực lòng: Nếu
chính phủ Mỹ không phản bội, không đâm dao sau lưng chúng tôi thì nhân dân Việt
Nam mãi mãi biết ơn họ. Có lần, sau khi chúng tôi tranh luận rất kịch liệt về một
văn bản trong hiệp định, một số thành viên trong chính phủ của tôi bảo rằng, nếu
Kissinger lập công với miền Nam như ông ta đã lập công với miền Bắc thì may mắn
biết bao. Tôi bảo họ: nếu ông ấy thương lượng được một nền hòa bình thực sự với
Hà Nội thì miền Nam sẽ dựng tượng ông ấy, như MacAthur ở Nam Hàn. Nhưng đáng tiếc
là đã không như vậy. Nhìn vào những hậu quả của nền hòa bình ấy: trại tập trung
cải tạo, nạn đói, nhục hình tra tấn, hàng ngàn thuyền nhân bỏ mạng trên biển,
và một cuộc diệt chủng tàn bạo hơn, hệ thống hơn và hoạch định hơn cả ở
Campuchia, tôi nghĩ tốt nhất là người Mỹ nên tự đánh giá những điều mà ông
Nixon và ông Kissinger đã gây ra cho miền Nam Việt Nam. Kissinger không có gì để
tự hào về nền hòa bình mà ông ấy đã đạt được. Đó là hòa bình của nấm mồ.
Spiegel: “Xin cảm ơn
ông Thiệu đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này”.
"Tội
phạm Chiến tranh" Kissinger và 2 cựu ngoại trưởng Shultz -
Albright
No comments:
Post a Comment