12.05.2015
Ở
Việt Nam, từ mấy năm nay, dư luận thường xôn xao trước hiện tượng công an bắt
người trái phép, mang vào đồn và đánh đập đến chết. Thi thể được mang vào bệnh
viện xét nghiệm, người ta thấy người thì giập phổi, người thì toàn bộ nội tạng
đều bị nát nhừ. Có trường hợp công an thừa nhận dùng nhục hình để tra tấn; có
trường hợp chúng chối phăng, cho là nạn nhân hoặc tự tử hoặc bị bệnh từ trước
hoặc lén lút dùng ma tuý quá liều.
Tổ
chức Human Rights Watch ghi nhận được 31 trường hợp bị
đánh chết trong các trại tạm giam của công an trong bốn năm (2011-2014). Con số
này chắc chắn không đầy đủ. Theo một báo cáo của Bộ Công an mới đây, trong khoảng
bốn năm, từ ngày 1/10/2011 đến 30/9/2014, tổng cộng có 226 người bị chết trong
các nhà tạm giam vì nhiều lý do khác nhau, trong đó, có lý do là nhục hình. Điều
cần lưu ý là công an chỉ thừa nhận việc dùng nhục hình khi không thể chối cãi
được nữa nên những lý do vớ vẩn họ đưa ra như tự tử hay bị bệnh đều có thể
không đúng sự thật.
Tuy
nhiên, điều đáng chú ý không phải chỉ việc công an tra tấn nhiều người đến chết
mà còn một khía cạnh khác không kém quan trọng: khi việc tra tấn bị phanh phui,
không thể giấu nhẹm được nữa, phải mang ra toà xét xử, các bản án dành cho công
an phạm tội tra tấn dẫn đến cái chết của những người dân vô tội đều rất nhẹ,
người thì được tha bổng, người thì bị tù treo, chỉ hoạ hoằn mới có một số công
an bị tù giam, nhưng ngay trong trường hợp ấy, án tù cũng chỉ vài ba năm, nói
theo luật sư Võ An Đôn, hoàn toàn không có tác dụng răn đe để công an đừng tái phạm.
Chúng ta có thể đặt câu hỏi: Tại sao
công an lại càng ngày lại càng tra tấn người dân một cách dã man như vậy? và tại
sao các bản án dành cho các công an tra tấn dân chúng đến chết lại nhẹ nhàng đến
như vậy? Trả lời câu hỏi trên, chúng ta tiếp cận một sự thật: chính phủ không hề
đưa ra chủ trương và hình thức kỷ luật nào để hạn chế các hành động tra tấn đến
chết. Trả lời câu hỏi dưới, chúng ta tiếp cận một sự thật: chính phủ cũng không
hề muốn trừng phạt những công an phạm tội dùng nhục hình để bức cung. Hai câu trả
lời ấy lại dẫn đến một sự thật khác: Chính
phủ muốn dùng sự khủng bố để đe doạ mọi người.
Khủng
bố là hành vi bạo động nhằm gây hoang mang, lo lắng và sợ hãi trong dân chúng.
Về phạm vi, có hai hình thức khủng bố chính: Khủng bố thuộc tổ chức (organization
terrorism) và khủng bố thuộc nhà nước (state terrorism).
Tiêu
biểu nhất cho loại khủng bố thuộc tổ chức gần đây là sự khủng bố của các nhóm Hồi
giáo cực đoan: Họ sống rải rác trên nhiều quốc gia khác nhau nhưng có chung một
nỗi hận thù đối với văn hoá và văn minh Tây phương, chung một tham vọng muốn
phát triển nhà nước Hồi giáo khắp nơi trên thế giới và chung một biện pháp: sử
dụng bạo lực để giết càng nhiều người càng tốt, gây tiếng vang càng lớn càng tốt
và càng làm cho càng nhiều người khiếp hãi càng tốt.
Khủng
bố thuộc nhà nước thì có hai mức độ: Một, ủng hộ và tài trợ cho các tổ chức khủng
bố để chúng gieo rắc tội ác ở những nơi khác và hai, bản thân nhà nước đóng vai
trò khủng bố đối với dân chúng trong chính nước của họ. Thuộc loại trên, Tổng
thống Mỹ George W. Bush, vào năm 2002, cho có ba quốc gia chính được gọi là “trục
ma quỷ” (Axis of evil), bao gồm Iraq, Iran và Bắc Triều Tiên. Thuộc loại dưới,
tất cả các quốc gia độc tài, với những mức độ khác nhau, đều là những nhà nước
khủng bố: Họ sử dụng bạo lực để làm dân chúng sợ hãi, từ đó, triệt tiêu mọi ý định
phản kháng, hoặc thậm chí, phản biện.
Trong ý nghĩa đó,
không còn hoài nghi gì nữa, nhà nước Việt Nam hiện nay là một nhà nước khủng bố.
Thật
ra, tính chất khủng bố ấy đã xuất hiện ngay từ khi nhà nước Việt Nam (cộng sản)
vừa mới ra đời. Ngay sau Cách mạng tháng Tám, họ đã có chính sách tiêu diệt những
người đối lập và đối kháng, qua đó, gây khiếp hãi trong quần chúng để không ai
dám chống lại họ nữa. Chính sách này càng trở thành phổ biến trong cuộc chiến
tranh giữa hai miền Nam và Bắc Việt Nam trong giai đoạn 1954-75. Chính sách gọi
là “trừ gian diệt bạo” thực chất là một sự khủng bố. Theo Anthony James Joes,
trong cuốn “The War for South Vietnam 1954-75” (New York: Fraeger, 1989, tr.
46), trong cuộc chiến tranh Nam Bắc, Việt Cộng đã giết khoảng 20% các cán bộ
làng xã ở miền Nam. Chỉ trong năm 1960, họ giết khoảng 1.400 công chức và thường
dân; năm 1965, con số bị họ giết lên đến 25.000 người. Theo Walter Laqueur,
trong cuốn “Guerrilla, a Historical and Critical Study” (London: Weidenfeld and
Nicolson, 1977, tr, 262-271), những sự khủng bố của chính quyền miền Bắc có quy
mô và mức độ tàn độc hơn cả Trung cộng trong cuộc chiến chống lại Tưởng Giới Thạch
trong thập niên 1940.
Đó
là thời chiến tranh. Tại sao bây giờ, thời
bình, chính quyền lại tiếp tục sử dụng các biện pháp khủng bố như vậy đối với
dân chúng?
Câu
trả lời, theo tôi, là vì họ sợ.
Chính
quyền Việt Nam hiện nay thừa biết dân chúng không còn tin họ, không còn phục họ,
và sẵn sàng đứng dậy chống lại họ khi quyền lợi của người dân bị xâm phạm. Bởi
vậy, chính quyền quay mặt làm ngơ, nếu không muốn nói là âm thầm khuyến khích,
việc công an dùng nhục hình đối với dân chúng. Chính quyền không hề có ý định
răn đe công an. Chính quyền chỉ muốn răn đe dân chúng: Chống lại chính quyền
thì chỉ có chết!
Bất
cứ chế độc tài nào cũng xây dựng quyền lực trên hai nền tảng: tuyên truyền và
khủng bố. Công việc tuyên truyền của chính quyền Việt Nam gần đây rõ ràng là đã
thất bại: Họ không còn thuyết phục được dân chúng về tính chính nghĩa của họ, đặc
biệt trước hai vấn nạn: dân chủ và chủ quyền (đặc biệt ở Biển Đông). Thất bại về
tuyên truyền, họ chỉ còn cách duy nhất là gia tăng mức độ khủng bố.
Mục tiêu của khủng bố
là làm cho dân chúng sợ. Nhưng động cơ thực sự của sự khủng bố là sợ dân chúng
nổi dậy chống lại chính quyền.
* Blog của Tiến sĩ
Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng
ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
No comments:
Post a Comment