Phạm Hoàng Quân
Thứ Ba, ngày 05 tháng 5 năm 2015
Nhật
ký Đặng Thùy Trâm, Nhà
xuất bản Hội Nhà văn 2005
Ngày
23 tháng 9 năm 2005, báo Thanh Niên đăng một bài được viết vào tháng 10 sắp tới,
sự kiện này có lẽ cũng nên xếp vào kỷ lục trong làng báo. Đó là bài của Đặng
Vương Hưng giới thiệu nhật ký Tài hoa ra trận của liệt sĩ Hoàng Thượng Lân. Cuối
bài ghi “Hà Nội tháng 10.
2005”.
Trong lời giới thiệu quyển nhật ký chưa phát hành này, nhà thơ Đặng Vương Hưng
viết: “Khi biên soạn cuốn sách này, chúng tôi thống nhất giữ nguyên tắc: tôn trọng
tối đa bản thảo gốc (bản chép tay của liệt sĩ Hoàng Thượng Lân)” (Nguyên văn:
trang 14 báo Thanh Niên 23.9.2005). Nghề viết thuê hồi ký thì tôi có nghe từ
lâu, nay lại thấy biết thêm có nghề biên soạn nhật ký (của người khác) thì cái
tương lai của nghề văn ắt là khấm khá.
Trước
đây vài tuần, tôi đọc Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm, đọc và nghiền ngẫm, nghĩ về cái sự
thanh bình mà mình đang được hưởng, tôi thực sự quý trọng từng dòng chữ của chị
được trích in để minh hoạ trong quyển sách ấy. Tôi soi kính lúp để đọc ảnh chụp
bút tích của chị in ở trang bìa, sự xúc động chưa qua thì tôi hơi lấy làm ngờ
vì hình như những dòng chữ này không có trong phần nội dung được in mà tôi đã đọc.
Bút tích ở trang bìa
Tôi
bèn chép lại bút tích ở bìa sách, như sau:
.
.
1.4 Kỷ niệm 10 năm
ngày vào Đoàn, 10 năm qua từ 1 thiếu niên bây giờ Th. đã là 1 cán bộ dày dạn
trong khói lửa, Th. 0 hề tự hào mà chỉ thấy rằng mình đã làm đúng như lời thề
dưới cờ Đoàn trong ngày hôm ấy.
Những
đêm dài suy nghĩ, Th. ơi, hãy nghiêm khắc với bản thân hơn nữa đừng để 1 câu hỏi
làm đau nhói lòng Th. Tại sao mọi người 0 hiểu Th.? mà hãy hỏi tại sao Th. lại
để mọi người 0 hiểu mình? Đành rằng có những người 0 tốt, nhỏ mọn ghen tuông
kèn cựa nhưng dù họ với tính cách như vậy vẫn có một số người họ 0 thể nói được.
Vậy thì hãy làm như những người đó. Đừng khóc Th. ơi, nước mắt hãy giành cho
ngày gặp mặt những người thân yêu. Đêm khuya, nhìn lại những người đồng đội, họ
đã ngủ hơi thở đều đều, ngoài kia từng tràng pháo nổ dậy trời. Ơi những người
đ/c của tôi, ta đang cùng chung hơi thở giữa chiến trường lửa khói, hãy thương
yêu đùm bọc lấy nhau, sống chết kề 1 bên ghen tuông kèn cựa để làm gì?
5.
4 Có
phải vì cô đơn mà cảm thấy nhớ thương đến vô cùng hay o/ hở người anh thân thiết
của em? Chiều nay Các lên đường về cơ quan phục vụ, bỗng nhiên nỗi buồn nhớ như
tăng lên bội phần. Cuộc sống sao mà phức tạp, mà sao mình lại làm 1 con bé sống
với trái tim giàu tình cảm như thế này? Tại sao ư? Vì từ nhỏ đến giờ nó là như
vậy – nghe những ý kiến của chị Hạnh cảm thấy buồn lạ lùng. Con người vẫn có những
khi sống với tầm mắt nhỏ hẹp, họ o/ thể có [bị che bởi hình ngòi bút,
không đọc được 1 chữ] […] những tình cảm trong sáng chân thành như một người[bị
che hai chữ] […] […] khác. Với họ chỉ có vật chất, chỉ có xác thịt!
Ôi ghê tởm làm sao.”
Khi cẩn thận kiểm tra lại điều ngờ vực, tôi thấy mình đã đúng. Những điều đáng để chúng ta lưu ý gồm 3 điểm:
1.
Trong
bút tích ở trang bìa sách này, phần ghi ngày tháng ở lề trái không đề năm,
trong khi các ngày in trong phần nội dung đều có đề ngày tháng năm.
2.
Phần
nội dung đề ngày 30.3.70 được in ở trang 237 dòng thứ 9 đến dòng 17 từ trên xuống
có lẽ là một phần của bút tích đề ngày 1.4 (in ở bìa sách) được sửa đổi lại và
nội dung tiếp theo, tức từ dòng 18 đến 20, lại có ý hơi giống với phần đầu của
bút tích đề ngày 1.4.
Trang 237 bản in
1.
Nếu
theo mạch ngày tháng thì phần bút tích in ở trang bìa thuộc ngày 1.4 và 5.4 năm
1970. Tuy nhiên ở sách in thì từ ngày 30.3.70 và tiếp đến là ngày 9.4.70. Như vậy,
đối với người đọc bình thường, không cần phải phân tích về nội dung cũng dễ
dàng nhận thấy rằng phần
bút tích in ở trang bìa hoàn toàn không có trong sách in. Đầu tiên, tôi
nghĩ là có lẽ do người biên tập bỏ sót, bởi vì phần I, quyển một, năm 1968 được
bắt đầu từ ngày 8.4.68; tuy nhiên, dựa vào câu: “…bây giờ Th. đã là một
cán bộ dày dạn trong khói lửa” và một số ý khác trong nội dung của bút
tích thì thấy rằng những dòng chữ này không thể được viết vào năm đầu tiên va
chạm với chiến trường.
Tóm
lại, phần bút tích này đã bị “biên tập” rất nhiều, bị cắt bỏ hẳn phần viết ngày
5.4, bị làm biến dạng phần viết ngày 1.4 và lồng vào nội dung của ngày 30.3.70.
Chúng ta cần xem lại lời nói đầu của Nhà xuất bản/ Ban biên tập: “Trong
quá trình biên soạn và chỉnh lý, chúng tôi cố gắng tôn trọng nguyên bản câu văn
cũng như những thói quen dùng từ và ngữ pháp của tác giả”!
Điểm
sai lệch nêu trên đã khiến tôi quan sát lại tất cả các bút tích được trích in.
Theo nhận định chủ quan sau khi so sánh và phân tích, tôi xếp các bút tích này
làm ba loại:
1. BT1:
Bút tích ở trang bìa sách, trang 74, trang 187 và trang 289 (bìa quyển vở năm
1970, bản chụp của Fred)
Bút
tích ở trang 74
Bút
tích ở trang 187
2. BT2: Bút
tích ở trang 71
3. BT3: Bút
tích ở trang 32 và trang 204
Bút
tích ở trang 204
Điểm
khác biệt dễ nhận thấy là ở trang bìa quyển vở “Nhật ký 1970 Xuân Canh Tuất”,
trong phần ảnh tư liệu in ở trang 289 (do Fred cung cấp) không có ghi lời Hoàng
Văn Thụ, trong khi cũng bìa quyển vở này in ở trang 204 thì thấy có tên liệt sĩ
“Đặng Thuỳ Trâm” và 8 dòng ghi lời Hoàng Văn Thụ với chú thích của Ban
biên tập: “Ảnh chụp trang nhật ký do Đặng Thuỳ Trâm viết”. Ở bìa quyển vở
“Nhật ký 1970 Xuân Canh Tuất” in ở trang 204 này, chúng ta rất dễ nhận
thấy sự khác biệt giữa hai loại nét chữ, một quá chân chất và một quá bay bướm,
đẹp gần như chữ viết trên các loại văn bằng.
Khi
so sánh 3 loại bút tích đã nêu, ta thấy ở ngay tại một trang in 204 đã có 2 loại
nét chữ của BT1 và BT3, dòng chữ “Đặng Thuỳ Trâm” và dòng chữ ”Xuân
Canh Tuất” gần cạnh nhau là điểm mà ta dễ so sánh nhất. Nhìn tổng thể, ở
BT3 có các điểm đặc biệt dễ thấy là các chữ viết hoa rất cân đối; chữ g thường
có đuôi vút cao; các dấu ngã có điểm dừng theo xu hướng đi xuống; và khoảng
cách các chữ rất đều đặn. Ở BT2 (sách in, trang 71) nét chữ của các chữ viết
hoa cấu tạo theo một kiểu khác; chữ g thường được bỏ lửng; có các chữ được viết
hoa theo nguyên tắc chữ in; các chữ có khoảng cách không đều nhau. Ở BT1 có các
chữ viết hoa không đều; đa số các chữ T hoa ở đầu câu đều viết như chữ in; chữ
g có đá lên nhưng không kéo dài và vút cao mà có xu hướng đi xiên thẳng; dấu
ngã có đuôi đi lên; khoảng cách các chữ không đều.
Sự
so sánh vừa nêu trên đây chỉ là qua quan sát của một người đọc bình thường,
không phải là cách làm việc của một chuyên gia nghiên cứu về bút tích. Tôi rất
mong những điểm mình nêu ra được nhiều người kiểm chứng, bởi dù sao đó chỉ là
cái thấy của cá nhân, chưa hẳn đã chính xác. Tôi rất mong có sự chứng minh rằng,
3 loại bút tích ấy chỉ là một, chẳng qua đó chỉ là sự biến đổi do sự biến đổi của
trạng thái tinh thần mà ra.
Trở
lại việc “biên soạn” nhật kí Tài hoa ra trận của nhà thơ Đặng
Vương Hưng, tôi nhớ có lần Giả Bình Ao nói: “Tản văn là tản văn”. Ông Đặng
Vương Hưng có lẽ cũng nên nương theo đó mà nghĩ rằng: “Nhật ký là nhật ký”; việc
“biên soạn” nhật ký của người khác là một việc thừa, trong một số trường hợp nó
còn là một việc làm tội lỗi. Tôi nghĩ rằng, từng dòng từng chữ của những người
đã xả thân vì lý tưởng ấy linh thiêng và đẹp hơn tất cả mọi ngôn từ. Người đọc
như chúng tôi cần đọc cái tinh thần của thời ấy chứ không màng đến sự dời đổi
trau chuốt của ngưòi thời nay đâu.
Tháng
9. 2005
---------------------------------
Phụ
lục của Tễu Blog:
1-
Về cuốn Nhật ký Đặng Thùy Trâm, xin xem tại đây: http://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BA%ADt_k%C3%BD_%C4%90%E1%BA%B7ng_Th%C3%B9y_Tr%C3%A2m
2.
Nhật ký Đặng Thùy Trâm - Bản
gốc. Quyển 1
3. Nhật
ký Đặng Thùy Trâm - Bản gốc.
Quyển 2
No comments:
Post a Comment