Luật gia
Trịnh Hữu Long
gửi
cho BBCVietnamese.com
3 tháng 10 một 2014
Xét
trên cả bình diện pháp luật nội địa lẫn quốc tế, việc bắt và giam giữ blogger
Nguyễn Hữu Vinh (Anh Ba Sàm) cùng cộng sự Nguyễn Thị Minh Thúy là hoàn toàn tùy
tiện và trái pháp luật.
Ông Nguyễn Hữu Vinh
bị bắt hồi tháng Năm năm nay
Quy
trình tố tụng sai từ đầu
Vụ
án Anh Ba Sàm mở màn ngày 5/5 với việc bắt khẩn cấp ông Nguyễn Hữu Vinh và sau
đó là bà Nguyễn Thị Minh Thúy.
Theo
Bộ luật Tố tụng Hình sự Việt Nam, quyết định bắt khẩn cấp khác với quyết định
bắt thông thường ở chỗ nó không cần sự phê chuẩn của Viện Kiểm sát nhân dân
cùng cấp trước khi thi hành. Việc phê chuẩn sẽ được tiến hành sau khi bắt
người, trong vòng 12 tiếng kể từ khi Viện Kiểm sát nhận được đề nghị phê chuẩn
từ cơ quan điều tra.
Quy
định này trao cho cơ quan điều tra quyền hành động ngay lập tức, không chịu bất
cứ sự kiểm soát nào, và hạn chế tối đa nguy cơ rò rỉ thông tin.
Tuy
nhiên, quyết định bắt giữ khẩn cấp này của Cơ quan An ninh Điều tra (Bộ Công
an) lại không nằm trong bất cứ trường hợp nào được phép bắt khẩn cấp theo quy
định tại Điều 81, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003.
Theo
đó, việc bắt khẩn cấp chỉ được tiến hành trong trường hợp (i) khi có căn cứ để
cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng; (ii) khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy
ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội
phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn; và (iii) khi thấy có
dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội
phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ.
Cả
ba trường hợp nêu trên đều dễ dàng bị loại bỏ, bởi Điều 258, Bộ luật Hình sự
không thuộc nhóm tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, không có
người bị hại nào hoặc người nào có mặt tại nhà và văn phòng của ông Vinh và bà
Thúy trông thấy họ đang thực hiện tội phạm gì, và cơ quan điều tra không chứng
minh được dấu vết tội phạm gì ở người hoặc chỗ ở của hai người này. Bằng chứng
là theo Bản Kết luận điều tra số 14/KLĐT ngày 30/10, tất cả các đồ vật thu giữ
được tại nhà và văn phòng của họ đều được kết luận là “không liên quan trực
tiếp đến vụ án”.
Việc
sai phạm ngay từ khâu bắt giữ dẫn đến sai phạm của toàn bộ quy trình tố tụng
sau đó.
Vi
phạm quyền bí mật thông tin cá nhân
Bản
Kết luận điều tra còn trực tiếp tiết lộ phương pháp thu thập chứng cứ trái pháp
luật của cơ quan công an, mà những chứng cứ này lại được dùng làm cơ sở để ra
quyết định bắt khẩn cấp đối với ông Vinh và bà Thúy.
Điều
đó được thể hiện rõ ngay trang 1 của bản Kết luận điều tra, trình bày rằng vụ
án đã được bắt đầu từ ngày 01/4 khi Cục Bảo vệ Chính trị 6 – Tổng cục An ninh I
– Bộ Công an gửi Công văn cho Cơ quan An ninh Điều tra, cung cấp dữ liệu theo
dõi hai thuê bao Internet (đăng ký với nhà mạng VDC và FPT) của ông Vinh và bà
Thúy, với kết luận “thường xuyên đăng tải trên Internet các bài viết có dấu
hiệu xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công
dân”.
Điều
này không khỏi khiến những ai quan tâm đặt ra một số câu hỏi: Liệu công an có
được phép theo dõi và sao chép dữ liệu truy xuất Internet của người dùng hay
không? Nếu công an muốn theo dõi và sao chép dữ liệu đó thì nhà mạng có nghĩa
vụ cung cấp hay không? Và nhà mạng có được phép cung cấp dữ liệu của khách hàng
cho công an hay không?
Một
số người khác sẽ liên tưởng đến một chi tiết tuy nhỏ mà không nhỏ trong các vụ
án ở phương Tây: Cảnh sát chỉ được phép nghe trộm điện thoại của công dân khi
được tòa án cho phép.
Đối
với pháp luật Việt Nam, câu trả lời có thể dễ dàng được tìm thấy tại Điều 38,
Bộ luật Dân sự về quyền bí mật đời tư, theo đó, “thư tín, điện thoại, điện tín,
các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí
mật”.
Điều
72 của Luật Công nghệ thông tin cũng nghiêm cấm việc xâm nhập, sửa đổi, xóa bỏ
nội dung thông tin của tổ chức, cá nhân khác trên môi trường mạng.
Tuy
vậy, một số người có thể trích dẫn chính Điều 38, Bộ luật Dân sự để phản bác,
rằng việc kiểm soát thư tín và thông tin điện tử vẫn có thể tiến hành theo quy
định của pháp luật VÀ khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vậy
nhưng quy định đó là quy định nào và quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
đó là quyết định nào thì bản Kết luận điều tra hoàn toàn không nhắc tới.
Nếu
thực sự Bộ Công an được trao thẩm quyền theo dõi dữ liệu thuê bao Internet, và
thực sự có quyết định của một cơ quan nào đó cho phép họ theo dõi thuê bao của
ông Vinh và bà Thúy thì lại phải đặt một dấu hỏi lớn về tính hợp hiến, hợp pháp
và hợp lý của các văn bản đó.
Cần
lưu ý rằng, cho đến nay, hai văn bản trực tiếp quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của Bộ Công an là Nghị định số 77/2009/NĐ-CP và số 21/2014/NĐ-CP đều
không được tìm thấy trên hệ thống công báo cũng như các website tra cứu văn bản
pháp luật. Một số nguồn tin nói rằng chúng được đóng dấu Mật và không được phép
công khai.
Nhà báo công dân. Ảnh: Nguyễn Lân Thắng
Bắt
giữ tùy tiện
Dưới
lăng kính pháp luật quốc tế về nhân quyền, hành vi bắt và giam giữ ông Nguyễn
Hữu Vinh và bà Nguyễn Thị Minh Thúy là sự vi phạm đối với quyền tự do thân thể
của họ và được định nghĩa là hành vi bắt giữ tùy tiện.
Các
Điều 9 của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền năm 1948 và Công ước Quốc tế về các
Quyền dân sự và chính trị năm 1966 đều khẳng định “không ai có thể bị bắt giữ,
giam cầm hay lưu đầy một cách tùy tiện”.
Việt
Nam là thành viên đầy đủ của Liên Hiệp Quốc và đã ký kết, tham gia các văn kiện
mang tính chất nền tảng và trụ cột này của luật nhân quyền quốc tế.
Quy
định khá khái quát của hai văn kiện nêu trên, trong một nền pháp trị bình
thường và với sự độc lập của hệ thống tư pháp, bao giờ cũng được giải thích và
thực thi gần với công lý xã hội nhất, tiệm cận nhất có thể với điểm cân bằng
giữa quyền của các cá nhân và sự an toàn của xã hội.
Vào
năm 2000, Nhóm làm việc về bắt giữ tùy tiện của Liên Hiệp Quốc, một cơ quan bao
gồm các chuyên gia nhân quyền độc lập chuyên điều tra các vụ bắt giữ tùy tiện ở
các quốc gia thành viên, đã đưa ra một bộ ba tiêu chí cơ bản để xác định khi
nào thì một hành vi bắt giữ được coi là tùy tiện.
Trong
số ba tiêu chí đó, việc bắt giữ do thực thi các quyền tự do được quy định trong
các văn kiện về nhân quyền của Liên Hiệp Quốc sẽ được coi là tùy tiện và được
xếp vào Mục II (Category II).
Mặc
dù ông Vinh và bà Thúy không khai nhận 24 bài viết được nêu trong bản Kết luận
điều tra là do họ đăng tải, nhưng việc công an cho rằng họ đã đăng những bài
viết đó và tiến hành bắt giữ họ, không gì khác hơn là sự vi phạm quyền tự do
ngôn luận, và rơi vào Mục II nêu trên.
Bài
viết phản ánh quan điểm và văn phong của tác giả, hiện đang làm việc tại Thái
Lan.
Tin
liên quan :
No comments:
Post a Comment