Saturday, April 24, 2010

TUÂN NGUYỄN - THÂN PHẬN MỘT NHÀ THƠ

Tuân Nguyễn - thân phận một nhà thơ tài hoa, lận đận, đắng cay

Nhà báo Trần Quang Thành

http://www.doithoaionline.org/baimoitrongthang/2010/0410/baimoi0410_346.html

Tuân Nguyễn tên thật là Nguyễn Tuân sinh tháng 9 năm 1933 ở xã Phú Thượng, huyên Hoà Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Lúc trưởng thành thấy tên mình trùng với nhà văn Nguyễn Tuân, tác giả của Vang bóng một thời, nên anh đảo ngược tên mình là Tuân Nguyễn. Theo một người bạn vong niên là nhà tho Hà Nhật thì quê gốc của Tuân Nguyễn là ở Quảng Bình. Anh theo học trường dòng Pellerin ở Huế, tôt nghiệp Tú tài 2 toán, thông thạo tiếng Pháp, tiếng Anh, lại biết cả chữ Hán, có năng khiếu văn chương, nhưng Tuân Nguyễn lại là người mông mơ,lãng mạn, và vào cái tuổi 16 năm Kỷ Sửu 1949, trong lúc đất nước có loạn ly Tuân Nguyễn thoát ly gia đình tham gia Đoàn học sinh kháng chiến Huế, đến năm 1950 thì vào chiến khu tham gia Vệ quốc đoàn. Sức khoẻ yếu, cận thị năng, thế mà Tuân Nguyễn đã vượt qua tất cả .Hoà bình lập lại Tuân Nguyễn là sinh viên khoa Văn khoá I, Đại học sư phạm Hà Nội. Năm 1957 ra trường làm giáo viên trường phồ thông cấp 3 học sinh miền Nam tại Hà Đông. Tôi là bạn đông nghiệp với Tuân Nguyến khi anh về công tác ỏ Đài Tiếng nói Việt Nam năm 1960. Tôi là phóng viên thời sự ở phòng Tuyên truyền trong nước, còn Tuân Nguyễn là biên tập viên chương trình Tiếng thơ phòng Văn nghệ

Thế hệ độc giả Việt Nam tuổi 60 trở xuống ít người biết Tuân Nguyễn, vì thời trẻ anh chỉ có ít thơ đăng trên báo, phát trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam, chưa có tác phẩm nào được xuất bản Bước vào tuổi 31, buổi chiều ngày 21 tháng 10 năm 1964, nhà báo, nhà thơ Tuân Nguyễn -một trí thức Huế - bị bắt tại Đài Tiếng nói Việt Nam . vì cuốn nhật ký của anh cất trong ngăn kéo bị Phan Trác Hiệu, một đông nghiệp cùng phòng lấy trộm và báo cho tổ chức…Cả khu vưc 58 Quán Sư – Hà Nội (trụ sở Đài Tiếng nói Việt Nam) chiều hôm áy xôn xao, bàn tán, ngỡ ngàng về trường hợp Tuân Nguyến bị băt giam

Suốt 9 năm 7 tháng , Tuân Nguyễn bị lao tù không án, không tội danh ở trại giam Thanh Cầm vùng rừng sâu nước độc Thanh Hóa - Nghệ. An Năm 1973, anh thoát khòi cảnh ngục tù, sống lang thang ở Hà Nội một thời gian. Đến cuối năm 1975, anh vào Sài Gòn cùng vợ là nhà thơ Phương Thuý – con gái Hoài Chân (là đồng tác giả “THI NHÂN VIỆT NAM” với Hoài Thanh).

Giới trí thức Hà Nội những năm 60 của thế kỷ trước nhiều người biết “vụ” Tuân Nguyễn. Vì Tuân Nguyễn là nhà báo, nhà thơ thân thiết với làng văn nghệ, nên việc anh bị bắt làm rung động giới trí thức lúc bấy giờ. Nhà thơ Phùng Quán người đông hương, đồng đội, đông nghêp tri ân, tri kỷ có nhiều bài viết về Tuân Nguyễn. trong đó có bài “Người bạn lính cùng tiểu đội” Bài viêt đã phác thảo chân dung Tuân Nguyễn, một trí thức nhân hậu, trung thực, một tâm hồn thật đẹp, một nhân cách tuyệt vời. Sống gần 10 năm ngục tù không tội danh, không bản án, xơ xác thân mình vẫn đam mê văn chương thơ phú.

Những năm ở Đài Tiếng nói Việt Nam là những năm Tuân Nguyễn đọc rất nhiều sách và say sưa với thơ, viết cả trường ca, viết nhiều phóng sự về nông thôn, viết được hai chương gần 100 trang tiểu thuyết Người mơ mộng. Anh đọc sách trực tiếp bằng tiếng Pháp, tiếng Anh. Thời gian này anh cũng đi rất nhiều nơi như đảo Cô Tô, Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình, sang Vân Nam (Trung Quốc), vào tận Vĩnh Linh, Quảng Bình,. Đi nhiều, có đầu óc quan sát, suy nghĩ nên anh biết rõ cuộc sống thực của người dân và những sai lầm khuyết điểm trong xây dựng kinh tế và quản lý xã hội ở miền Bắc. Ở Hà Nội, anh chơi thân với nhiều bạn văn thơ như Băng Sơn, Nguyễn Xuân Thâm, Tạ Vũ, Nguyễn Thị Điều, Vân Long, Hà Nhật, Hoàng Tố Nguyên… Anh làm thơ nhớ Huế, nhớ miền Nam, “Nghe quan họ nhớ mái nhì”.

Tôi viết bài thơ gửi Huế yêu

Giữa trưa Hà Nội nắng vui reo…”,

Tôi thường đợi vần thơ như đợi người yêu dấu /

Lúc đi chơi không muốn đóng cửa phòng”

(Bài thơ “Không đề 1”)

Khi tình yêu đi qua / Một mảnh buồn ở lại

(Bài thơ“Không đề 2”)

… Anh có nhiều câu thơ găm vào trí nhớ bạn bè: như :

Người ta lấy của anh nhiều thứ/

Chỉ còn hai tay và cái mắt hay cười”

Và :;

“Phật nào lấp được bể trầm luân”…

Bạn bè anh hay nhắc bài thơ “Nghe nhạc Johann Strauss” viết trong một đêm cùng bạn thơ đi chơi Hà Nội rồi về nhà Băng Sơn uống rượu:

Sông Hông bỗng xanh màu Đa Nuýp

Nhạc bồng bềnh trôi tới các vì sao

Trời lung linh khẽ chao mình theo nhịp

Những con người nước lại phải lòng nhau/



Nghe bản nhạc “Sông Đa Nuýp xanh” của nhạc sĩ Áo vẳng lên trong đêm Hà Nội mà lẩy ra được ý thơ “Sông Hồng bỗng xanh màu Đa Nuýp” là rất nhạy cảm. Câu thơ “Những con người nước lạ phải lòng nhau” chứng tỏ một tấm lòng rộng mở, một tình cảm nhân loại bao la. Những năm ấy thơ Tuân Nguyễn được đăng nhiều ở báo Văn nghệ, báo Thống nhất, phát trong buổi “Tiếng thơ” Đài Tiếng nói Việt Nam. Anh được coi là một cây bút thơ chỉnh chu, lão luyện. Nhưng như trong bài thơ “Không đề I” anh viết năm 1963:

Có những người

Nếu thêm được mười năm

Sẽ trở thành thi sĩ

Nhưng cuộc sống không mỉm cười đến thế

Đã chết sớm mười năm

Để lại những tuần trăng chưa đến độ rằm”

Nhữmg câu thơ như đã vận vào số phận của anh.

Tuân Nguyễn có một bài viết rất sâu nói về một công trường thuỷ lợi tại nông trường quốc doanh Rạng Đông, ở tỉnh Nam Định, tố cáo bọn có chức có quyền trong các phòng ban thông đồng với ban chỉ huy công trường nghiệm thu khống khối lượng đào đắp để ăn chặn công quỹ, chia nhau. “Bài viết bị trưởng phòng cho là ‘không có lập trường’, nói xấu cán bộ thuỷ lợi, bôi nhọ chế độ xã hội chủ nghĩa.” Thế là tên Tuân Nguyễn đã nằm trong “sổ đen” rồi. Trong bài “Một kỷ niệm buồn”, nhà văn Đoàn Minh Tuấn kể: “Những sinh hoạt hàng ngày trong gian khó, Tuân Nguyễn đều ghi vào nhật ký, kể cả lên giá một cốc siro một hào thành một hào mốt, cùng với những suy nghĩ về thời cuộc. Tuân Nguyễn bị Hiệu., người cùng Phòng Văn nghệ, lấy được cuốn nhật ký và nộp cho tổ chức. Tổ chức đọc và suy diễn cho rằng nói xấu chế độ, tư tưởng lệch lạc…” Về cuốn nhật ký của Tuân Nguyễn, nhà báo Xuân Đài kể rằng, Tuân Nguyễn đã báo cho bạn bè biết ai đó đã mở ngăn kéo bàn viết của anh, dù đã khoá rất kỹ, lấy mất cuốn nhật ký và một chỉ vàng. Tuân Nguyễn bảo nhật ký của mình ghi cả tiếng Việt lẫn tiếng Pháp, những chuyện riêng tư và một số nhận định của mình về thời cuộc của đất nước và thơ. Thằng đê tiện đã đánh lạc hướng bằng cách ăn cắp thêm chỉ vàng để Tuân Nguyễn nghĩ là kẻ gian lấy trộm. Người biết sự thật là hai nhà văn Phạm Tường Hạnh và Mai Văn Tạo, hai anh đều là đảng viên, đều làm việc ở Đài Tiếng Nói Việt Nam thời ấy cho biết, người nộp quyển nhật ký của Tuân Nguyễn cho chi bộ phòng Văn nghệ chuyển lên lãnh đạo là Hiệu., cùng phòng với Tuân Nguyễn. Trong cuốn nhật ký ấy còn có bài thơ rất cảm động nhưng “gay cấn”, là bài “Khóc thầy”. Thầy đây là ông Dương Bạch Mai, người bị quy tội tham gia mhóm xét lại chống Đảng :

Một tiếng nói chúng tôi chờ đã mất

Tiếng nói của lương tâm

Đau đớn này đau đớn nào hơn

Chân lý không muốn nằm dưới đất

Chúng tôi sống bây giờ

Mỗi khuôn mặt đều có phần bí ẩn

Mỗi trái tim đều có phần im lặng

Mỗi niềm tin đều mất chút ngây thơ…”

Và đây là hai câu kết:

Chúng con đi sau linh cữu của thày

Mhưng không phải đưa thày ra nghĩa địa.

Tuân Nguyễntruyện ngắn Paustovski. anh nhận xét ông ta viết truyện ngắn tuyệt hay, ông ta là một cây bút bậc thầy. Tuy nhiên, điều anh mê nhất nơi nhà văn này chính là lòng tốt của con người. Trong tác phẩm của ông chỉ có cái đẹp, những tình cảm đẹp và những con người tuyệt đẹp, những con người chỉ chắt chiu đi thu nhặt những hạt bụi vàng trong cuộc đời để đúc nên những bông hồng vàng đem dâng tặng người đời, từ văn hào Andersen của nhân loại, đến anh phu quét rác đêm trên đường phố Paris… Tuân Nguyễn yêu những mối tình hư ảo của Paustovski, bởi “chỉ trong tưởng tượng tình yêu mãi mãi là thơ, là mộng

Có một lần Tuân Nguyễn chợt thốt lên thèm viết một cuốn sách mà anh từng ấp ủ. Mọi người hỏi anh bao giờ thì viết? Anh khiêm nhường trả lời: mình sẽ viết! Thế rồi anh nhỏ nhẹ đọc bài thơ “Cánh cò”

Cánh cò cánh cò bay
Trắng mờ ven rặng núi
Sông Mã nặng nề trôi
Em bay sao mà vội.

Em bay về phía đó
Sông chảy ngoặt nẻo này
Riêng anh buồn đứng ngó
Phủi bụi trên bàn tay.

Em bay em cứ bay
In trên nền trời biếc
Khi thóang khi chìm ngay
Như một điều tưởng tiếc.

Giữa buổi chiều gợi nhớ
Bóng lèn trùm hai vai
Tên em thành quá khứ
Cánh em thành tương lai.

Em bay triền núi xa
Sông xuôi đường thành phố
Ôi niềm vui thỏang qua
Đậm thêm ngày gian khổ

Em bay em chẳng đỗ
Như vỗ cánh lòng anh
Đường ổ gà lỗ chỗ
Điệp bài ca viễn hành.
, Bài thơ “Cánh cò” này, Tuân Nguyễn viết lâu rồi. Đó là những ngày khốn khó nhất của cuộc đời anh ở nơi ngục tù đen tối. Trong hoàn cảnh buồn bã và thiếu giấy bút, hầu như anh phải viết bằng trí nhớ.

Hết làm thể thơ năm chữ, anh lại thể hiện tứ thơ ấy theo thể thơ Đường luật bảy chữ.

Cánh cò bay lả ngược miền Tây
Đơn độc như ai lạc đàn bầy
Khi rõ khi mờ bờ vực đá
Lúc chìm lúc nổi cuối ngàn cây

Có tìm hạnh phúc chân trời ấy
Hãy giã đau thương thung lũng này
Cơ khổ thân em còn lận đận
Giữa trời mưa nắng trắng đường bay.

Tôi không bàn luận bài nào hay hơn bài nào. Tôi muốn nói bài thơ nào cũng phản ánh đúng tâm trạng con người Tuân Nguyễn. Bồi hồi nhớ tới Tuân Nguyễn, tôi nhơ tới những kỷ niệm đẹp về anh tuy thời gian gắn bó với nhau rất ngắn ngủi chỉ có 4 năm ở Đài Tiếng nói Việt Nam - Tuân Nguyễn. thân phận một nhà thơ tài hoa, lận đận, đắng cay

Nhà báo Trần Quang Thành

.

.

.

Chợt nhớ ông Tuân Nguyễn

Tưởng Năng Tiến

23/04/2010 7:00 sáng 2 phản hồi

http://www.talawas.org/?p=19220

Tuân Nguyễn (09/1933 – 04/1983)

Việc xảy đến với Tuân… thật đột ngột và bất ngờ. Nó cứ như tai họa từ đâu bỗng giáng xuống gia đình Vương Thúy Kiều vào năm Gia Tĩnh triều Minh… Trong một khoảng thời gian ngắn, tai họa đến với ba người bạn tôi: Tuân Nguyễn, Bùi Ngọc Tấn, Vũ Huy Cương.”

Hà Nhật tâm sự như trên, trong bài viết “Tuân Nguyễn, kẻ mộng mơ,” đọc được ở talawas hôm 22 tháng 2 năm 08. Tôi không quen nhưng biết ba nhân vật này, cùng với những tai hoạ “đính kèm” trong cuộc đời (lao đao) của họ. Câu chuyện hôm nay xin chỉ đề cập đến ông Tuân Nguyễn, như một nén hương lòng – gửi người đã khuất!

Trong một bài viết khác (“Người bạn lính cùng tiểu đội”), Phùng Quán kể lại:

“Hòa bình lập lại, Tuân ra khỏi quân ngũ, đi học tiếp và tốt nghiệp Đại học Sư phạm, làm thầy giáo. Sau đó được điều về Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam… Còn tôi, lâm vào cảnh khổ nạn văn chương Nhân văn-Giai phẩm phải về tá túc bên bờ hồ Tây, nhập phường câu cá trộm…

Trong khi bạn bè thân thích, kể cả máu mủ ruột thịt, người yêu, đều xa lánh tôi, thì Tuân Nguyễn vẫn gắn bó, cưu mang tôi. Mặc dầu lúc này anh là người có chức danh của một cơ quan quan trọng, bắt đầu có tiếng tăm trên thi đàn. Tuân mò tìm được nơi tôi tá túc, thường xuyên mang cho tôi áo quần, tem gạo, phiếu thịt, kẹo, thuốc lá căng tin…

Một lần, tôi hỏi Tuân:

- Cậu hay gặp mình, thế nào cơ quan họ cũng biết. Cậu không ngại à…?

- Có ngại cái con cặc. Đù mạ…!”

(Phùng Quán, “Người bạn lính cùng tiểu đội”. Ba phút sự thực. NXB Văn Nghệ: Sài Gòn 2007, 180-181)

Ở Việt Nam mà quan hệ và nói năng “linh tinh” như thế thì (e) sẽ gặp lắm chuyện lôi thôi. Và rồi Tuân Nguyễn bị lôi thôi thật, lôi thôi lâu,và lôi thôi lớn. Ông bị bắt vào ngày 21 tháng 10 năm 1964, và được thả… mười năm sau đó! Sau đó, vẫn theo lời Phùng Quán:

“Một buổi vào giữa trưa, tôi đang ngồi đun bếp, thì cửa liếp xịch mở. Tôi ngẩng lên, ngồi lặng đi một lúc khá lâu. Tôi bật gọi, cổ nghẹn tắc:

- Trời… Tuân!

Phải, người đang đứng trước mặt tôi là Tuân Nguyễn. Da mặt vàng úa và hơi phù nề. Cặp kính cận vành đồng rỉ xanh và hai gọng được thay bằng hai vòng dây gai xe. Cái miệng vẫn rộng nhưng không còn tươi nữa. Cặp môi nhợt nhạt vì thiếu máu. Như bừng tỉnh, tôi loạng choạng đứng dậy. Và hai chúng tôi ôm chặt lấy nhau lúc nào không biết. Phút chốc hai gương mặt dãi dầu, bầm dập khổ nạn trần gian, đẫm lệ. Tôi thì thầm qua nước mắt:

- Thế mà đã gần mười năm rồi… Mười năm tốt đẹp nhất của một đời người…

Tuân cười buồn:

- Chắc cậu không tin mình còn có ngày trở về?

- Cậu gầy yếu quá… Người của sách vở, của mộng mơ… Cậu đâu được chuẩn bị để nhận một đòn chí mạng như vậy…

Tuân ngồi xuống cạnh bếp lửa, hơ hơ hai bàn tay gầy guộc, nói:

- Sức thích nghi vô tận cũng là một điều bí ẩn của con người, cậu ạ.

Tôi thổi cơm, rán cá, nấu canh chua. Hai đứa ngồi ăn ngay bên bếp.

- Nghĩ cho cùng, không có cái rủi nào lại không chứa sẵn ít nhiều cái may. Có lẽ nhờ vậy mà con người mới có thể tồn tại trong những hoàn cảnh nghiệt ngã nhất.

- Cậu thử nói cái may cậu tìm thấy trong mười năm qua xem nào, tôi hỏi.

- Trước hết, mình có dịp suy gẫm thêm về cuốn tiểu thuyết mình định viết, vì đã viết được hai chương đầu… Nhưng điều may mắn này mới là quan trọng hơn cả: trong mười năm qua, mình đã sống giữa những con người vô cùng phong phú và phức tạp, chất liệu sống vàng ròng cho các nhà văn…”

(Phùng Quán, sđd, tr. 152-153)

Số “vàng ròng” quý báu này, tiếc thay, Tuân Nguyễn không bao giờ có dịp dùng đến. Ông đột ngột qua đời vì một tai nạn lưu thông. Hà Nhật bùi ngùi kể lại:

“Vào bệnh viện Chợ Rẫy thăm Tuân rồi đưa Tuân đến nghĩa địa Gò Dưa bên Thủ Đức, cúng ‘mở cửa mả’ cho Tuân, những chuyện ấy dồn dập xảy ra cứ như là không có thật. Buổi chiều ấy, ngồi nói chuyện với Cao Xuân Hạo về Tuân Nguyễn, Hạo buông một câu nghe mà lạnh người:

- Tuân Nguyễn sinh ra ở đời là để đóng cái vai trò này: khi có ai đó muốn kêu lên ‘Trời ơi, sao mà tôi khổ thế?’, thì nhìn vào Tuân Nguyễn, sẽ thấy mình chưa phải là người khổ.”

Có lẽ vì “xót” bạn nên nhà ngữ học Cao Xuân Hạo đã nói (hơi) quá ra như thế. Chứ những mảnh đời te tua bầm dập, với chung cuộc thê thảm và lãng xẹc (cỡ) như Tuân Nguyễn – hay chỉ hơn thua chút đỉnh – đâu có nhằm nhò hay hiếm hoi gì, ở Việt Nam. Nơi mà Phùng Quán mô tả là “chín người – mười cuộc đời rạn vỡ. Bị ruồng bỏ, và bị lưu đầy.”

Và những kẻ đã bị lưu đầy, theo lời Nguyễn Chí Thiện, không mấy ai trở lại:

Trại lính, trại tù người đi không ngớt…

Người về thưa thớt, dăm ba!

Nghe mà thấy ghê!

Xem chừng, ông Tuân Nguyễn chỉ là một đại diện tiêu biểu – cho hàng chục triệu người “đi không ngớt” vào những “trại lính, trại tù,” và cả chục triệu những “cuộc đời rạn vỡ” khác – ở Việt Nam thôi! Hy vọng là giáo sư Cao Xuân Hạo đủ bao dung, cho phép kẻ hậu sinh này đổi lại vài chữ trong câu nói (“lạnh người”) của ông – như sau: “Người Việt sinh ra ở đời để đóng vai trò này: khi có ai đó muốn kêu lên “Trời ơi sao dân tộc tôi khổ thế này,” khi nhìn vào Việt Nam sẽ thấy nỗi khổ của dân tộc mình chả là cái… đinh gì (xất) cả!”

Khổ như thế, đã đành. Chuyện không đành là ở đất nước này khi đề cập đến những chuyện khốn nạn, tàn ác, bất nhân, vô luân… (đại loại như những chuyện nát lòng đã xảy ra cho Tuân Nguyễn) thì mọi người bỗng dưng nhỏ giọng, thì thào; nếu không, cũng phải vội vàng rào đón hay che chắn trước sau.

Nghe mà phát mệt!

Thử đọc một đoạn trong bài “Tuân Nguyễn phận mỏng cánh cò” ( của nhà thơ Vũ Từ Trang) trên Việt Báo, số phát hành vào 14 tháng 10 năm 2007 xem:

“Giá như anh không va vấp, không gục ngã, thì anh đã thành đạt như bao bạn bè trang lứa mê văn chương chữ nghĩa một thời… Cái chết của anh như một định mệnh. Một tai nạn giao thông với một con người lầm lũi sống và yêu cuộc sống. Một cái chết của một cánh cò trắng đang bay…”

- Ủa, chớ ông Tuân Nguyễn “va vấp” vào cái con cặc gì vậy Trời?

Dù là một người (vô cùng) nho nhã, tôi cũng (suýt) lây tật xấu của ông Tuân Nguyễn mà văng tục chửi thề – như thế – cho nó đỡ (tức). Mà không tức (ứa gan) sao được chớ?

Giúp đỡ bạn bè trong cơn hoạn nạn, thẳng thắn trình bầy quan niệm sống của mình trước mọi người là cách hành xử bị coi là “va vấp”, đáng bị bỏ tù – hay sao? Ra tù, với “da mặt vàng úa hơi phù nề và cặp môi nhợt nhạt vì thiếu máu”, lúc phải ở nhờ, lúc thì sống chui rúc trong một căn phòng chỉ rộng bằng… chiếc chiếu. Xin đi làm việc thì bị khước từ vì có “thành tích là một tên phản động”. Vậy mà khi lìa đời thì được ông thi sĩ đồng nghiệp mô tả đó là “cái chết của một con cò trắng đang bay”.

Đụ mạ, “bay” kiểu chi mà kỳ cục rứa hè?

Nếu không “đãi bôi” như vậy thì mọi người cũng chỉ dám buồn rầu, khe khẽ thở dài, ái ngại đổ thừa cho “số phận” (không may) của Tuân Nguyễn mà thôi. Ông Hà Nhật đã nhắc lại điệp khúc “mất mùa vì tại thiên tai” – theo cung cách đó – để kết luận cho bài viết (thuợng dẫn) như sau:

“Tên thật của Tuân Nguyễn là Nguyễn Tuân, ngẫu nhiên mà trùng tên với nhà văn tài hoa bậc nhất nước ta. Có lẽ khi đặt tên cho con, các vị thân sinh của anh không hề nghĩ gì đến chuyện này, vì phải rất lâu sau khi con trai họ ra đời thì Nguyễn Tuân mới có Vang bóng một thời cho người đời ca tụng. Tránh việc trùng tên cho người ta khỏi ngộ nhận, hóa ra Tuân Nguyễn đã tự nhận mình như một sự đảo ngược của số phận: một người thì có đủ thứ vinh quang, một người thì gặp toàn nghiệt ngã.”

Cái được mệnh danh là “đủ thứ vinh quang” này, theo như chính Nguyễn Tuân xác nhận, ông gìn giữ được suốt đời là nhờ biết… sợ! Mà sợ hãi tới cỡ đó, vào thời buổi đó, nghĩ cho cùng, cũng phải (giá) thôi. Thời phải thế, thế thời phải thế.

Bỉ nhất thời dã.

Thử nhất thời dã.

Hồi đó là một thời. Bây giờ là thời thế khác. Người Việt hôm nay ăn nói và hành xử (đã) khác xưa chăng? Đ… mẹ, không dám (khác) đâu. Đọc thử poster giới thiệu Hoàng Hưng, cách đây chưa lâu, của một “nhà thơ đương đại” là biết liền chớ gì:

“Tên thật Hoàng Thụy Hưng, con một gia đình trí thức Hà Nội, có thơ đăng báo từ năm 11 tuổi… Mười tám thi đỗ vào Khoa Văn Đại học Sư phạm Hà Nội… ông đã bỏ học, tình nguyện lên Tây Bắc…Hai mươi ba tuổi, ông về dạy văn cấp ba tại Hải Phòng… Về Hà Nội … Hoàng Hưng rẽ sang một hướng khác: ông không nhìn đời toàn mầu hồng nữa, ông kết bạn với những thành phần ‘phức tạp’, và đến năm 1982, vì một lý do ‘đáng tiếc’, ông phải bước vào trại cải tạo.”

Nghe cứ y như thể Hoàng Hưng đang là một thanh niên trí thức, lý tưởng, tràn đầy nhiệt huyết (bỗng) đâm ra đổ đốn, giao du toàn với bọn đầu trộm đuôi cướp, rồi đến năm 1982 vì “một lý do đáng tiếc” không tiện nói (kiểu như móc túi hay giựt đồ và bị bắt gặp quả tang) ông phải bước vào trại cải tạo vậy!

Cái được mô tả là “thành phần phức tạp,” và “lý do đáng tiếc” – khiến Hoàng Hưng phải vào tù – được chính ông tường thuật như sau, qua RFA, nghe được hôm 22 tháng 7 năm 2007:

“Cái lý do trực tiếp của nó là khi tôi cầm trong tay tôi bản thảo tập thơ Về Kinh Bắc của nhà thơ Hoàng Cầm vào năm 1982 khi tôi từ Thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội nhà thơ Hoàng Cầm có tặng tôi bản thảo chép tay Về Kinh Bắc…Tôi không nghĩ là nó có vấn đề gì nhưng không ngờ họ lại bắt tôi và họ bảo tôi lưu truyền văn hóa phẩm phản động…”

Chữ “họ” trong đoạn văn thượng dẫn là một đại danh tự, dùng để chỉ (hay ám chỉ) cái tập đoàn cộng sản – những kẻ đã hành xử quyền lực một cách bất nhân và bạo ngược hơn nửa thế kỷ qua – ở Việt Nam. Bao giờ mà người dân Việt còn “kiêng”, chưa chỉ thẳng vào mặt, và đặt thẳng tên cho chúng nó (rõ ràng) như vậy thì “họ” vẫn tưởng mình là những người của “Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm”, và vẫn còn có thể tiếp tục tác yêu tác quái, trên đầu muôn dân trăm họ.

© 2010 Tưởng Năng Tiến

© 2010 talawas

.

.

.

Blogger Người Buôn Gió cũng nhớ ông Tuân Nguyễn :

http://nguoibuongio.multiply.com/journal/item/446/446

.

.

.

No comments: