35 năm trước: Ngày 19-4-1975 Phan Thiết mất
MƯỜNG GIANG & CAO HOÀI SƠN
http://www.trachnhiemonline.com/dien-dan-285-GIANGSON.htm
Ngày 7-4-1975 sau khi Lâm Ðồng bỏ ngõ, quân Bắc Việt từ Di Linh về tấn công Chi Khu Thiện Giáo và Trung Ðội Nghĩa Quân bảo vệ Cầu Ngựa tại Xóm Gọ, đồng thời pháo kích vào Tiểu Ðoàn 230 DPQ, để chận đường tiếp viện. Trận chiến thật ác liệt., VC mở nhiều đợt tấn công nhưng đều bị chận tại hàng rào phòng thủ bởi mìn Claymore, lựu đạn và những khẩu đại liên ở các lô cốt. Trận này, có sự tham dự của hai Ðại Ðội thuộc TD230 do Ðại Uý Tập và Trung Úy Sanh chỉ huy, thêm vào yểm trợ của Pháo Bi nh và Trực Thăng võ trang. Sáng ngày 8-4-1975 VC chém vè, bỏ lại chiến trường 72 xác chết, bên ta có 14 tử thương và nhiều binh sĩ bị thương nặng.
Ngày 12-4-1975 VC lại pháo 130 ly vào quận Thiện Giáo, đồng thời chiếm Xóm Ðộng Giá Phú Long, làm gián đọan lưu thông trên QL1. Ðại Uý Huỳnh Văn Quý Liên Ðội Trưởng LÐ Bảo Vệ Nông trường Sao Ðỏ, được chỉ định thay thế Thiếu Tá Phan Sang, làm Tiểu Ðoàn Trưởng TD 249/DPQ, tăng cường thêm ÐÐ283/DPQ biệt lập của Ðại Uý Nguyễn Văn Ba, đã tái chiếm lại được Cầu Phú Long và thị trấn, sau những trận đụng độ ác liệt kinh hồn. Ngày 15-4-1975, VC từ khắp nơi, pháo kích dồn dập vào Chi khu Thiện Giáo. Do trên Ðại Tá Nghĩa cho lệnh di tản và điều động TD230 về phòng thủ Phan Thiết.
Ngày 16-4-1975, phòng tuyến Phan Rang vở, trước sự tấn công biển người của mấy sư đoàn và tăng pháo Bắc Việt. Các tướng lãnh Nguyễn Vĩnh Nghi, Phạm Ngọc Sang, Ðại Tá Nguyễn Thu Lương.. cũng như hầu hết các sĩ quan trong Bộ Chỉ Huy/Tiền Phương của QD3, đều sa vào tay giặc tại chiến trường, ngoại trừ Tư Lệnh SD2BB là tướng Trần văn Nhựt đuợc HQ đậu ngoài Vịnh Ninh Chữ cứu thoát. Cũng trong ngày, quân Bắc Việt ào ạt theo quốc lộ 1, qua Cà Ná, tiến vào lãnh thổ Bình Thuận. Giờ thứ 25 đã tới, một số quân cán chính Tuy Phong được tàu HQ vớt tại Cà Na.
Chiều ngày 16-4-1975, Tiền-đồn Ðá Chẹt (Ðơn-vị tuyến đầu của TK Bình-Thuận giáp ranh với Ninh-thuận) do Ðại Ðội 4/248 ÐP của Trung Uý Nguyễn Tấn Hợi, trước sự xuất hiện đoàn xe tăng của CS Bắc Việt, nên đã rút quân về hưởng biển Tuy Phong và được Duyên Ðoàn 27 cứu đem ra chiến hạm trong đêm tối.
3 giờ đêm 16 rạng ngày 17 tháng 4, đoàn xe tăng trên đã lọt vào bãi mìn chống chiến xa tại Dốc Bà Chá gần Xóm Nùng trên QL1 gần Lương Dơn, do Ðại Ðội 1. Tiểu Ðoàn 212 , Liên Ðoàn 925 ÐP/Bình Thuận của Ðại Uý Vĩnh. Theo tất cả các nhân chứng hiện còn sống sót tại Hoa Kỳ, có 7 chiến xa gồm T54 và PT76 bị cháy hay hư hại nặng. Sau đó VC kéo đi 4 chiếc, 3 xe cháy còn lại hiện nằm tại Lương Sơn (Bắc Bình- Bình Thuận).
Bắt đầu đêm 17-4-1975, lửa khói đã mịt mù khắp thành phố Phan Thiết. Hải Quân 07 và Hải vận hạm Ninh Giang HQ 403, được lệnh tới bờ biển Phan Thiết yểm trợ hỏa lực và chờ chuyển vận binh sĩ về Nam khi nguy ngập. Lúc 1 giờ chiều ngày 18-4-1975, tăng pháo và đại quân Bắc Việt vào Phú Long, TD249 và DD283 DPQ kể cả Trung Ðoàn 6/SD2BB đều rút ra biển. Ác chiến đã xãy ra khắp thành phố Phan Thiết mãi tới 6 giờ 30 chiều cùng ngày, xe tăng VC mới chỉ vào tới Cầu Trần Hưng Ðạo và đã cố thủ tại các vị trị vừa chiếm được, mà không dám di chuyển tới các nơi khác, vì ở đâu cũng đều có sự hiên diện của người lính VNCH. Ðây là một sự thật lịch sử, một hãnh diện của người miền biển và trên hết là cũng nhờ tinh thần chiến đấu dũng mảnh của quân dân tại địa phương, chỉ chịu bỏ quê hương khi không còn giữ nổi, trong ngấn lệ ngậm ngùi.
Ðại Tá Nghĩa Tình/Tiểu Khu Trưởng BT, người đã gắn bó với sự tồn vong của địa phương trong nhiều năm qua, trước khi rút khỏi Lầu Ông Hoàng đã cho bắn một hoả châu màu xanh, cho phép các đơn vị đang chiến đấu được tuỳ tiện theo hoàn cảnh rút lui để bảo toàn sinh mệnh. Tại Bãi Thương Chánh, trong cảnh lửa đạn mịt mù, phía sau là truy binh của VC, Ðại Tá Nghĩa đã may mắn tránh được cảnh phanh thây, nhờ một chiếc ghe đánh cá đưa ra chiến hạm,và đã té xuống biển, suýt chết đuối nếu không được mọi người cứu kịp.
Cùng lúc, chiếc Thiết Vận Xa M-113 do Ngô Quang Lễ chỉ huy, bên trong có chở nhiều thùng bạc do Bộ Tài Chánh vừa mới cấp cho Tỉnh vào trung tuần tháng 4, nên chưa kịp phát cho một số Ðơn Vị DPQ+NQ, CB/XDNT. Chiếc xe bọc sắt này đã chìm không xa bờ, cách Bãi Thương Chánh, khi lội ra Chiến Hạm và phần lớn tiền bạc đều bị VC tich thu, kể cả số tiền còm của các ngư dân quanh vùng mò tìm được. Chủ ghe đưa Ðại Tá Nghĩa ra chiến hạm, bị tù và chết trong trại giam, hiện còn người em ruột vượt biên đang ở Bắc CA, là một nhân chứng, xác nhận ‘ Trận đánh nào tại BT, cũng đều có đại bàng ‘ và người lính trận nào của BT-PT nếu có chết, cũng chết trên chiến trường hay trong trại giam khổ sai của Cọng Sản tại khắp miền đất nước, như Tỉnh Trưởng Lưu Bá Châm, Nguyễn Khắc Tuân, Vương Ðăng Phong và các sĩ quan Huỳnh Ngọc Ghênh, Trịnh Văn Bình..
Suốt đêm 18-4-1975, các đơn vị DPQ vừa chống cự với VC, vừa rút lui xuống Bến Tàu Kim Hải gần Phi trường. QYV. Ðoàn Mạnh Hoạnh do Y Sĩ Ðại Uý Lê Bá Dũng chỉ huy, trong giờ phút nguy ngập, cũng chuyển được gần hết thương bệnh binh ra chiến hạm.
Sáng ngày 19-4-1975 hai Phản lực cơ A-37, được lệnh Quân Ðoàn III thả bom đánh xập các cây cầu trên sông Mường Mán nhưng thả lạc mục tiêu, làm hư xập nhiều nhà cửa của đồng bào trong khu phố Thương Mai, quanh các đường Gia Long, Nguyễn Tri Phương và Ngô Sĩ Liên. Tại Bến Tàu Kim Hải, các Chiến Hạm Hải Quân và Duyên Ðoàn 28 đã vớt được gần toàn bộ các Ðơn vị DPQ, BDQ, SD2BB và QYV. Doàn Mạnh Hoạch, chở vào Vũng Tàu tối 19-4-1975. Tại Phước Tuy, các đơn vị DPQ + NQ .Bình Thuận tập họp lại thành Trung Ðoàn Bình Thuận
CUỘC LUI BINH CỦA TIỂU ÐOÀN 229/ÐPQ BÌNH THUẬN
Ðầu tháng 4-1975, Tiểu Ðoàn 229 ÐPQ được lệnh di chuyển về Nam để bảo vệ thị xã Phan Thiết. Ngày 18-4-1975 sau khi thanh toán xong các nút chặn của ta tai Thiện Giáo và Bắc Bình Thuận. Từ đó tuyến phòng thủ cuối cùng của ta về hướng đông-bắc là Phú Long do Tiểu Ðoàn 249 ÐPQ của Ðại Uý Huỳnh Văn Quý, ÐÐ 283 ÐPQ Biệt Lập của Ðại Uý Nguyễn Văn Ba, Tiểu Ðoàn 275 ÐPQ của Thiếu Tá Nguyễn Tư (xã Kim Ngọc) và Trung Ðoàn 6/SÐ2BB của Trung Tá Tôn Thất Hổ tại Phước Thiệu Xuân.. trên QL1.
Trên tỉnh lộ 8 về hướng tây, CS Bắc Việt đã bị chặn lại phòng tuyến Tân An do Tiểu Ðoàn 202 ÐPQ của Ðại Uý Huỳnh Văn Hoàng (TDT) và Trần Ðăng Thiệt (TÐP) bảo vệ. Tiểu Ðoàn 229 ÐPQ củaThiếu Tá Nguyễn Hữu Tiến, BCH đóng tại cầu Sở Muối, các đại đội được bố trí như sau : ÐÐ3/229 của Trung Uý Nguyễn Dương Quang đóng tại ruộng muối ngang với ấp Tân Ðiền, ÐÐ4/229 của Trung Uý Cao Hoài Sơn án ngữ mặt phía đông Tân Ðiền tới QL1. Còn ÐÐ 1+2/229 do Ðại uý Lê Viết Duyên và Nguyễn Văn Thứ chỉ huy, phối hợp với DD4/229 của Trung Uý Cao Hoài Sơn án ngữ mặt phía đông nam Ấp Tân Ðiền tiếp giáp với tỉnh lộ 8.
Lực lượng CS Bắc Việt lúc đó có hơn sư đoàn công thêm các trung đoàn biệt lập, pháo, đặc công và chiến xa .. tấn công quân ta theo hai hướng chính trên QL1 và Liên tỉnh lộ 8, hai bên chỉ cách nhau chừng 1km nhưng các phòng tuyến của Tiểu Khu Bình Thuận tại đây vẫn còn đứng vững, nhất là tại phòng tuyến Phú Long do TD249 DPQ + DD283 DPQ biệt lập và Trung Ðoàn 6/SD2/BB ngăn giữ.
Tại chiến tuyến phòng thủ quanh vòng đai sát thị xã Phan Thiết của TD229 DPQ, từ sáng 18-4-1975 CS chỉ pháo kích để gây hoang mang cho dân chúng và các đơn vị trú phòng. Trong lúc đó quân ta vẫn tung quân hoạt động tại các vị trí sát Tân Ðiền do DD1/229 đãm nhận đã bắt được 1 đặc công ẩn núp trong nhà dân đang điều chỉnh tần số để địch pháo kích cho chính xác. Tới 1 giờ trưa DD4/229 qua yểm trợ của DD1+2 mở cuộc tấn công thăm dò vào Ấp Tân Ðiền. Sau khi được pháo binh của Tiểu Khu từ Lầu Ông Hoàng và Súng Cối TD bắn hàng trăm quả mở đường, DD4 vượt qua các thửa ruộng, xung phong tiến vào ấp Tân Ðiền. Lúc hai bên chỉ còn cách nhau 50m, CS Bắc Việt mới nổ súng chống trả bằng hỏa lực dữ dội có B40,41 và đại bác 57 ly không giật, từ những hầm hố giao thông hào đào trước ấp thật kiên cố.
Qua 15 phút giao tranh, DD4 có một chuẩn uý Trung đội trưởng và vài binh sĩ bị thương nhẹ cần cứu chữa nên đơn vị xin rút lui vì lực lượng phòng thủ của VC tại đây quá mạnh. Trước đó khi nhận được lệnh tấn công VC nhiều người tỏ ra bất mãn vì cho là đã tơí giờ thứ 25 rồi nhưng sau 35 năm nghĩ lại mới thấy quyết định của các cấp chỉ huy bấy giờ thật là sáng suốt. Vì có hành động như vậy, mới chứng tỏ được với CS thế mạnh của QLVNCH lúc nào cũng sẳn sản đượng đầu và dập nát chúng, cho dù thế nước đã tới hồi nguy ngập. Với lòng quân nhất là Tiểu Khu Bình Thuận rất là vững tin và luôn trung thành với lý tưởng Quốc Gia. Vì vậy quân số của DD4 lúc đó hơn 120 người, được trang bị thật đầy đủ mà hầu hết đều nhận lảnh thêm lưu đạn và mổi người một khẩu M-72 chống chiến xa.
Ðại Ðội 4 được lệnh rút về vị trí phòng thủ cũ trên QL1, đồng thời còn nhận thêm lệnh trực tiếp từ Thiếu tá Nguyễn Hữu Tiến, TÐT229 DP/BT ‘ Lúc giờ G tối nay, tiểu đoàn sẽ di tản tới Bắc Bình/Tư Tưởng ‘ . Tôi nghĩ ngay đến Bình Tú. Ngoài ra còn có hiệu lệnh lui binh là ‘ Cầu Phú Long bi giựt xập ‘.Sau khi nhận được tin, các đại đội trưởng đã vội thông báo ngay cho binh sĩ dưới quyền. Và điều cảm động đáng nói là hầu hết đơn vị đều tuân lệnh di tản, chỉ có một ít vì bận bịu gia đình nên buông súng rời đồng đội vào giờ thứ 25.
Lúc 8 giờ, trung đội Nghĩa Quân đóng đồn trên QL1 sát DD4/229 đã liên lạc hàng ngang với Trung Uý Cao Hoài Sơn xin được nhập chung vào DD4 để di tản khi được lệnh lui binh. Ðêm đó trời lại tối như mực, sự yên lặng càng làm cho tình hình thêm căng thẳng khi trên bầu trời Phan Thiết hầu như đã vắng bóng hỏa châu và tiếng đại bác yểm trợ như những ngày qua. Sau này mới biết, thời gian đó VC tại Tân Ðiền và Phú Long đang chờ đoàn xe tăng từ bắc Bình Thuận vào mới tấn công ta.
9 giờ tối TD229/DP vẫn chưa thấy được hiệu lệnh lui binh từ hướng cầu Phú Long. Sau này Trung Uý Cao Hoài Sơn cũng như MG có chất vấn Ðại Uý Huỳnh Văn Quý, Tiểu Ðoàn Trưởng TÐ249/ÐP lúc đó cùng với ÐÐ283 ÐPQ biệt lập đang tử chiến với CS Bắc Việt tại đây, về việc giực xập cầu làm ‘ hiệu lệnh ‘ lui binh, thì được trả lời là ông không hề nhận được một lệnh nào từ Ðại Tá Nghĩa cũng như Phòng 3. Do đó khi TD249 DPQ rút khỏi phòng tuyến đã không ra lệnh giựt xập cầu.
Vừa lúc đó bổng tiếng xích sắt xe tăng địch nghiền nát mặt đường vọng lên chát chúa trên QL1 và khi tới Kim Ngọc thì nả súng vào nhà thờ vì bị Trung Ðội Nghĩa Quân ở đó bắn M72 làm cháy chiếc xe dẫn đầu. Lập tức Trung Uý Sơn, DDT/DD4/229 gọi điện báo về Thiếu Tá Tiến tình trạng khẩn cấp và xin lệnh nhưng Thiếu Tá Tiển không tin và bảo đó là xe be kéo vĩ sắt để hù dọa. Ông cho biết sẽ bắn hỏa châu lên soi sáng và ra lệnh cho DD4/229 bắn hạ chiếc xe đi đầu. Một binh sĩ người Thượng trong Ðại Ðội xung phong bò ra quốc lộ 1 với khẩu M72 để bắn xe tăng giặc.
Trong lúc đang phân vân thì xe tăng VC đã tới đồn nghĩa quân và quay nồng bắn vào bên trong nhiều phát đạn, lửa văng tung tóe khắp nơi. Vừa lúc hai trái hỏa châu từ TÐ bắn lên soi sáng, nhờ vậy DD4 /229 mới thấy được đoàn xe tăng VC đang hướng nồng súng về phía quân ta đang ẩn núp sau hệ thống đường mương chỉ cách QL một thửa ruộng.
Lợi dụng hỏa châu tắt, Trung Uý Cao Hoài Sơn ra lênh cho đơn vị rút lui về hướng Tân An cùng với DD1 + 2 . Riêng DD3 đóng ở phía bên kia QL1 băng ruộng muối rút về hướng Hưng Long tìm ghe về Vũng Tàu trong đêm đó. Khi đoàn xe tăng của CS Bắc Việt tới cầu Sở Muối, BCH TÐ cũng rút về hướng Tân An. Có lẽ nhận được tin tình báo nên VC đã cho một số xe tăng T54 rẽ theo đường công hương tiến về phía đường Lương Ngọc Quyến truy sát TD229/DP.
Lúc này TD đã liên lạc được với Ðại Tá Ngô Tấn Nghĩa đang có mặt trên Soái Hạm Trần Khánh Dư của Phó Ðề Ðốc Hoàng Cơ Minh. Nhờ vậy Ông đã liên lạc với QDIII xin được các phi cơ Hỏa Long C47 từ Biên Hòa ra yểm trợ cho TD đang trên đường rút lui về hướng sông Cà Ty. Trong khi đó TD202/DP của Ðại Uý Huỳnh Văn Hoàng đã rút qua sông an toàn. Nhờ vậy Tiểu Ðoàn này đã bố trí quân giữ bải đáp Kim Hải từ đêm 18-4-1975 giúp cho các đơn vị của TK và Quân Y Viện Ðoàn Mạnh Hoạch xuống tàu HQ vào ngày 19-4 để lui quân về Vũng Tàu.
Sau khi đã phối hợp được với bộ đội tại Tân Ðiền, đoàn tăng Bắc Việt mở cuộc tấn công vào TÐ229/ÐP là đơn vị duy nhất còn lại của TK đang có mặt tại Tân An. Nhờ có chiếc Hỏa Long C-47 thả hỏa châu chiếu sáng và yểm trợ hỏa lực nhắm vào VC dưới đất rất dữ dội, nên dơn vị này mới rút lui được an toàn. Trong lúc đó Phan Thiết đang tràn ngâp trong lửa đạn khi xe tăng Bắc Việt đang tiến vào thành phố còn nhiều đơn vị tác chiến VNCH đang cố thủ.
Do đó TÐ229 quyết định rút lui theo con đường mà TD202 vừa đi, theo hướng vòng qua phía sau bệnh viện Phan Thiết, tới Phú Hội để vượt sông Cà Ty. Lúc này súng phòng không của địch bắn lên đầy trời Bình An, Tân Ðiền, làm chiếc Hỏa Long bị trúng đạn phòng không, khiến cho đại úy Minh phi công phải bay về Biên Hòa sau 15’ phi pháo dội bom yểm trợ cho các đơn vị còn đang chiến đấu dưới đất.
Lúc đó đã 10 giờ đêm 18-4, TÐ 229 ÐP của Thiếu Tá Tiến đã tới được bờ sông Cà Ty đối diện bên kia là xã Phú Lâm. Sông lúc đó đang trong mùa cạn nên khoảng cách hai bờ chỉ còn 20m và may mắn thêm là chiếc đò ngang vẫn còn neo tại bến, giúp cho đoàn quân qua sông. Máy vẫn liên lạc thường xuyên được với Ðại Tá Nghĩa đang có mặt trên chiến hạm của HQ trực tiếp chỉ huy cuộc lui binh của tất cả các đơn vị Bình Thuận còn đang tử chiến với CS Bắc Việt trong thị xã Phan Thiết.
4 giờ sáng ngày 19-4, trong lúc TD229 đang băng qua QL1 thì bổng có một chiếc xe GMC đang mở hết tốc lực với đèn pha sáng choang từ hướng Phan Thiết chạy tới, khiến cho lính phải nằm xuống hai bên vệ đường để phòng thủ đồng thời nã đạn vào chiếc xe trên nhưng may mắn nó đã chạy thoát được về hướng quận Hàm Thuận. Sau đó đoàn quân tiếp tục tiến về hướng bếu tàu Kim Hải ở đoạn có chiếc cầu gổ nhỏ mà nay gọi là Tiến Lợi, bắc ngang con suối hẹp nhưng rất sâu không thể lội qua được với súng đạn và trang bị nặng nề.
Khi đoàn quân di chuyển tới Bình Tú thì phát hiện mặt nam của phi trường Phan Thiết đã bị CS Bắc Việt chiếm đóng với nhiều xe tăng đang hướng nòng đại bác về hướng quân ta. Tuy nhiên chúng không dám nổ súng vì sợ lộ mục tiêu sẽ bị hải pháo của các chiến hạm VNCH đang đậu đầy ngoài biển để yểm trợ cho cuộc lui quân của Tiểu Khu Bình Thuận.
Tại bãi biển Kim Hải lúc đó đã có mặt hơn 10.000 quân, trong số này Tiểu Ðoàn 202 DP của Ðại Uý Huỳnh Văn Hoàng là đơn vị tới trước nên đã lập một tuyến phòng thủ kéo dài từ Hố Lở chạy dọc theo bải biển tại bến tàu với nhiều súng chống chiến xa M72. Ðây chính là lý do CS đang ở trên Camp nhưng không dám tấn công quân ta tuy khoảng cách hai bên rất gần.
Tới trưa thì hầu hết các đơn vị đều tề tựu đủ, kể cả Tiểu Ðoàn 274 ÐP của Thiếu Tá Trịnh Văn Bình đóng tại Mương Mán, Bầu Da, Phú Hội là vị tri xa nhất cũng về kịp. Riêng các đơn vị DPQ, NQ, XDNT, Cán Bộ Xã Ấp thuộc Chi Khu Hàm Thuận kể cả Pháo Ðội 105 ly và Ðại Ðội 288 DP của Ðại Uý Sáu.. dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Dụng Văn Ðối đã di tản bằng đường bộ tới Bình Tuy vào chiều 18-4. Có một số đơn vị không thuộc TK Bình Thuận nhưng bị kẹt ở đây, trong buổi sáng 19-4 thay vì chờ tàu HQ bốc, họ đã tự động đi dọc theo bãi biển để tới quận Hàm Tân (Bình Tuy) nhưng đã bị VC địa phương phục kích tại Ba Hòn làm một số thương vong. Những người đi sau quay lại chờ tàu bốc.
Khoảng 12 giờ trưa thì đoàn tàu HQ đổ bộ vào bờ bằng loại Ferro-Ciment và các loại ghe thuyền của Duyên Ðoàn 28 Phan Thiết. Ðơn vị đầu tiên lên tàu là Quân Y Viện Ðoàn Mạnh Hoạch với nhiều thương bệnh binh và các quân nhân cơ hửu dưới quyền chỉ huy của Y Sĩ Ðại Uý Lê Bá Dũng. Sau đó các đơn vị còn lại lần lượt được tàu nhỏ chuyển lên 3 chiếc chiến hạm lớn đang đậu ở ngoài tầm pháo của địch. TD229 DP là đơn vị cuối cùng lên tàu vì phải án ngữ tại Hố Lỡ để ngăn ngừa VC tấn công sau lưng..
Tóm lại có hơn 6000 quân được chuyển lên 3 tàu lớn. Cuộc lui quân của TK Bình Thuận được coi như thành công tốt đẹp. Ðang lúc đoàn tàu sắp sửa nhổ neo thì nghe trên loa của tàu Trần Khánh Dư báo động ‘ phi cơ địch xuất hiện ‘ và ra lệnh cho tất cả vào vị trí chiến đấu, còn các pháo thủ lâp tức vào các ổ súng phòng không sẳn sàng. Nhưng giờ chót máy bay địch đã không tấn công. Còn đoàn tàu chở quân cũng được lệnh rời biển Phan Thiết trực chỉ Vũng Tàu.
Trời sắp tối đoàn tàu mới qua mũi Kê Gà và sáng ngày 20-4 thì cặp Bến Ðình, tất cả quân nhân theo lệnh phải giao nạp toàn bộ vũ khí cho quân cảnh quân trấn , trước khi lên xe vào thành phố Vũng Tàu. Ðặc biệt chỉ có Thiếu Tá Tiến là người duy nhất còn giự được vũ khí. Quang cảnh đón tiếp đoàn quân Bình Thuận thật là cảm động , gồm có các đoàn thể tôn giáo và các đơn vị địa phương.. đã hân hoan chúc mừng những chiến sĩ từ miền hỏa tuyến về đây. Thức ăn và nước uống được cung cấp đầy đủ cho mọi người. Sau đó quân Bình Thuận được chở về Trung Tam Huấn Luyện Quốc Gia Vạn Kiếp ở Bà Rịa để tái trang bị và tổ chức thành Trung Ðoàn Bình Thuận do Ðại Tá Ngô Tấn Nghĩa chỉ huy nhưng tạm thời do Thiếu Tá Nguyễn Hữu Tiến đãm trách trong lúc Ðại Tá Nghĩa phải về Sài Gòn lo tiền nuôi ăn cùng trang bị lại vũ khí.
Sau đó Trung Ðoàn Bình Thuận được tăng cường bảo vệ vòng đai thành phố Vũng Tàu. Tiểu Ðoàn 229 DP trú đóng trong căn cứ của TQLC, các tiểu đoàn khác dàn thành vòng cung bảo vệ xã Long Hải. Lúc đó phòng tuyến thép Xuân Lộc do Sư Ðoàn 18BB và các đơn vị tăng phái đã được lệnh rút bỏ nên các binh đoàn của CS Bắc Việt đã áp sát gần Biên Hòa, Phước Tuy. Nhưng ở đâu chúng cũng gặp phải sự phản kháng dữ dội của QLVNCH. Do đó đã pháo kích bừa bãi vào các vùng đông dân cư gây nhiều thương vong cho đồng bao vô tội, để trả thù.
Tại Vũng Tàu, sáng ngày 29-4 địch đã bắt đầu pháo vào thành phố nhất là khu phi trường. Chiều cùng ngày, các Tiểu đoàn Bình Thuận từ Long Hải được lệnh rút về cùng với TD 229 phòng thủ căn cứ TQLC. CS Bắc Việt đã pháo hằng trăm quả vào căn cứ và mở cuộc tấn công nhưng gặp phải những con mảnh hổ của Bình Thuận nên địch chém vè và bỏ lại nhiều xác chết quanh căn cứ.
Cuói cùng đơn vị được lệnh rút về phòng thủ thành phố, án ngử ở trên núi gần tượng Chúa tại Bải Trước. Rồi thì trưa 30-4-1975 TT Dương Văn Minh ra lệnh cho QLVNCH buông súng đầu hàng CS Bắc Việt. Mọi người phải chấp hành lệnh theo quân kỷ quân đội, một số sĩ quan Bình Thuận bị tập trung tại doanh trại của Tiểu Ðoan 1/TrD43/SD18BB ở Long Khánh. Số khác trở về Phan Thiêt-Bình Thuận. Nhưng dù ở đâu, tất cả cũng đều vào tù CS để chịu chung số phận của kẻ bại trận.
Tại Phan Thiết , sau ngày 1-5-1975, VC đã sát hại một số lớn Quân, Cán, Chính để trả thù. Ngoài một số anh em bị hạ sát ngay khi kẹt lai, từ 19 tới 30/4/1975, đã có không biết bao nhiêu người khác gục ngã trước đạn súng và lòng thù hận sắt máu cũa giặc sau ngày 1-5-1975. Giờ đây, qua ba mươi lăm năm trầm thống hờn hận, dù đã vật đổi sao dời nhưng những người còn sống, một thời là nạn nhân hay nhân chứng, gia đình hoặc đồng bào địa phương, làm sao có thể quên được những hình ảnh dã man tàn khốc, mà họ đã chứng kiến được, khi VC Bình Thuận đã vô lương vô nhân đạo, bắn giết những kẽ ngả ngựa sa cơ..
Ðời lính là như vậy đó, cho nên đâu cần phải là sử gia, nhà văn lớn, trí thức cao, hay những kẻ một thời nắm quyền hành, mới ghi lại được những thảm kịch của chiến tranh. Tôi, một tên lính quèn tại địa phương, với hơn mười năm quân ngủ, đã xuôi ngược mọi nẻo đường đất nước, khắp các vùng chiến thuật và phục vụ trong nhiều đơn vị. Nhưng điều vinh hạnh nhất của đời người, là đã cùng với quân dân Bình Thuận, sống trọn vẹn trong 18 ngày cuối cùng của tháng tư đen 1975. Bởi vậy với tôi, tháng tư là một khoảng thời gian kỳ diệu, với những trang lịch sử đẳm máu treo lơ lửng trên đầu, luôn cho người lính già sống sót, m?t cảm giác rất xa rất gần, như những người bạn cũ đã nằm xuống hôm qua, giờ chỉ biết nhớ mà không bao giờ gặp lại được. Ðó cũng là lời giải đáp thắc mắc mà tôi đã đeo đẳng suốt 35 năm qua, là đã không hề nuối tiếc cho bản thân mình, trong đó có gia đình luôn nhận phần thua thiệt, đau khổ vì vẫn sống trong vùng địch đóng..
Bây giờ như mới hôm qua, những ngày tháng tư lửa máu tại Phan Thiết, xin kính cẩn tưởng niệm những người đã mất. Bổng thấy tâm hôn như chết khựng, không phải vì men rượu, mà là nổi xót xa khi nghĩ tới những cơ cực của miền biển mặn, như đang úa vỡ ở cuối chân trời, trong đó có mẹ, có em, có quê hương gió cát, đang quằn quại trong thiên đàng Xã Nghĩa, không biết bao giờ mới ngoi lên được, để mà làm người.
Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
19/4/2010
MƯỜNG GIANG & CAO HOÀI SƠN
.
.
.
No comments:
Post a Comment