Monday, July 13, 2009

ĂN MÀY DĨ VÃNG


Ăn mày dĩ vãng
Thực chất cuộc vận động học tập tư tưởng Hồ Chí Minh
Nhà văn Phạm Đình Trọng
Thứ Hai, 13/07/2009
http://bauxitevietnam.info/3276/an-may-di-vang/

Sáng chủ nhật, tôi vừa mở máy vi tính mới viết được mấy dòng thì có chuông gọi cửa làm đứt mạch suy nghĩ. Xuống cầu thang ra mở cửa, thấy ông hàng xóm là đảng viên cùng sinh hoạt tổ đảng với tôi mà ít ngày trước tôi đã phải mất một buổi tối họp kiểm điểm ông về cái tật lãng nhách, rất không đáng có ở một đảng viên của đảng cách mạng, đảng chính trị là tật tối ngày nhậu nhẹt bét nhè, bê tha, đã kéo dài suốt nhiều năm của ông. Nay một người như thế đến bảo tôi nộp cho ông bản thu hoạch học tập đạo đức Hồ Chí Minh!
Cuộc học tập tư tưởng, làm theo đạo đức Hồ Chí Minh tiến hành rầm rộ suốt mấy năm nay trên cả nước đã bộc lộ rất rõ tính hình thức, phô trương, màu mè, tốn kém, đầy sự áp đặt duy ý chí, đầy tính tôn giáo tụng niệm, thể hiện cung cách làm công tác tư tưởng theo lối mòn xưa cũ, đã quá lạc hậu trong thời công nghệ thông tin đã đi vào từng gia đình, đã đến với từng cá nhân, trong thời kinh tế thị trường quyết liệt, nghiệt ngã, cuộc sống đã trở về với những giá trị thiết thực, con người phải đối mặt với một thực tế phũ phàng của một xã hội tiêu dùng, xã hội bị chi phối, phân hóa quyết liệt bởi vật chất!
Nhìn ông đảng viên nát rượu đến đôn đốc tôi nộp bản thu hoạch học tập đạo đức Hồ Chí Minh, tôi lại nghĩ đến những ông quan tham nhũng có mặt ở khắp nơi, ở mọi cấp, những người đang đôn đáo phát động và thành kính học tập đạo đức Hồ Chí Minh, những diễn viên đang diễn vở kịch học tập đạo đức Hồ Chí Minh.
Không, tôi không thể tham gia vở diễn ấy. Chỉ chứng kiến vở diễn tôi đã bứt rứt không yên làm sao tôi có thể tham gia cùng họ được! Tôi nói với ông đảng viên nát rượu: Nhờ anh báo cáo rằng tôi không làm bản thu hoạch cũng như tôi đã không đi nghe buổi lên lớp về đạo đức Hồ Chí Minh do Đảng ủy phường 15 quận Tân Bình tổ chức.

1. Mỗi người dù vĩ đại đến đâu cũng chỉ có một giai đoạn lịch sử nhất định
Tôi rất kính trọng nhân vật lịch sử Hồ Chí Minh. Tôi đánh giá cao vai trò lịch sử của Hồ Chí Minh cũng như tôi đánh giá cao tư tưởng nhân dân, đạo đức yêu nước, giản dị, khiêm nhường, gần dân của Hồ Chí Minh. Nhưng Hồ Chí Minh gắn liền với phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới, gắn liền với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Thời đại Hồ Chí Minh là thời đại giải phóng dân tộc, thời đại giành độc lập dân tộc. Thời đại cách mạng giải phóng dân tộc đã qua. Việt Nam cũng như cả thế giới thứ ba vừa giành được độc lập đã bước vào thời đại mới, thời đại phát triển kinh tế, chăm lo cuộc sống riêng tư của mỗi người, mỗi nhà, nỗ lực phấn đấu vì sự phồn vinh, giàu mạnh của mỗi dân tộc.
Thời đấu tranh cách mạng giành độc lập, một dân tộc nhỏ bé, nghèo nàn, lạc hậu phải chiến đấu với kẻ thù xâm lược giàu có, hùng mạnh, có vũ khí hiện đại thì vũ khí vô cùng quan trọng tạo nên sức mạnh to lớn cho dân tộc nhỏ bé là ý chí, tinh thần quả cảm, là khối đoàn kết dân tộc muôn người như một xả thân vì nghĩa lớn độc lập dân tộc.
Trong cuộc chiến đấu giành độc lập, cuộc sống riêng tư của mỗi cá nhân phải gác sang một bên, không được quan tâm nhìn nhận. Chỉ có sự sống còn của cả dân tộc mới là nỗi đau đáu của mọi con tim. Cuộc sống cá nhân phải hi sinh. Ý chí của cá nhân cũng là ý chí của cả dân tộc. Để có mặt được trong cuộc sống đó, con người phải sống khác bình thường, sống bằng lí trí, niềm tin. Đó là không gian linh thiêng để những con người huyền thoại xuất hiện. Hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn con người Việt Nam huyền thoại có tên và không tên đã xuất hiện trong cuộc chiến tranh huyền thoại giải phóng dân tộc suốt ba mươi năm qua. Hồ Chi Minh là con người huyền thoại lớn nhất trong những con người Việt Nam huyền thoại đó. Nhưng con người huyền thoại phải đặt trong không gian huyền thoại. Hay nói cách khác, chỉ có không gian huyền thoại mới tạo ra con người huyền thoại.
Trở về cuộc sống đời thường, trở về với cuộc sống cá nhân riêng tư, với lo toan cơm ăn, áo mặc, sinh con đẻ cái, với đố kị, bon chen, không gian huyền thoại không còn nữa. Không gian huyền thoại càng không thể có trong cuộc sống có quá nhiều chụp giựt, lừa lọc, bạo lực, kẻ mạnh quyền mạnh thế ức hiếp người thân cô thế yếu. Đưa con người huyền thoại Hồ Chí Minh vào cuộc sống chụp giựt, lừa đảo, hỗn loạn, nhâng nháo ấy là sự lạc lõng thảm hại!
Một con người bằng xương bằng thịt, một con người thực sự là người dù vĩ đại, kiệt xuất, cao đẹp đến đâu cũng vẫn có những hạn chế, những khiếm khuyết, có cả những mềm yếu, ngã lòng. Lại càng không thể tránh được những ham muốn, đòi hỏi bình thường của con người bình thường. Cuộc chiến đấu cam go của dân tộc nhỏ bé chống lại đội quân xâm lược khổng lồ, dân tộc ấy cần có ý chí, tinh thần quả cảm, lại càng cần có lãnh tụ thiêng liêng tập hợp được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc. Vị lãnh tụ ấy không tự nhiên mà có. Chính khát vọng giải phóng dân tộc của nhân dân đã tô vẽ và tạo dựng lên vị lãnh tụ thiêng liêng ấy. Huy động lịch sử, văn hóa, nhân dân còn huy động cả thần linh để thần thánh hóa lãnh tụ của cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Chấm mỡ viết chữ lên lá cây để kiến gặm theo vết mỡ tạo thành hàng chữ “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần”. Lá cây mang hàng chữ theo suối nhỏ chảy ra sông lớn, phát tán rộng rãi khắp trong nhân dân. Hàng chữ trên lá cây trở thành thần bí thiêng liêng, trở thành lời thần linh mách bảo người dân rằng Lê Lợi, Nguyễn Trãi mang mệnh Trời dựng cờ khởi nghĩa đánh giặc cứu nước. Vị hào trưởng nông dân nơi góc rừng heo hút Lam Sơn được thần thánh hóa đã trở thành trung tâm tập hợp sức mạnh đoàn kết dân tộc đánh đuổi quân Minh giành độc lập.
Ngay sau ngày 2.9.1945, hầu hết người dân Việt Nam vẫn ngơ ngác chưa biết Hồ Chí Minh là ai! Thù trong đe dọa, giặc ngoài lăm le, nền độc lập non trẻ đang ngàn cân treo trên sợi tóc. Tình thế ấy đòi hỏi phải có một lãnh tụ đủ uy tín tập hợp sức mạnh nhân dân bảo vệ độc lập. Hồ Chí Minh liền tự tay viết tập sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch và kí tên người viết là Trần Dân Tiên. Những mẩu chuyện kể tưởng như chân thực nhưng vẫn mang không khí huyền thoại, mang cảm hứng anh hùng ca. Trong tập sách đó cũng chính Hồ Chí Minh tự nhận là Cha già Dân tộc! Từ đó những bài hát Lãnh tụ ca của các nhạc sĩ, những tranh, tượng Cha già Dân tộc Hồ Chí Minh của các họa sĩ, nhà điêu khắc, những chuyện kể về Bác Hồ kính yêu của các nhà văn, các nhà cách mạng, các nhà văn hóa, trí thức, của cả đông đảo quần chúng công nông binh đều với cảm hứng anh hùng ca, với tình cảm thành kính thiêng liêng càng thần thánh hóa Hồ Chí Minh đậm đặc hơn. Những việc làm đó là rất cần thiết khi đang phải chiến đấu gay go với kẻ thù xâm lược. Nếu không có tình cảm thiêng liêng dành cho Hồ Chí Minh thì không có chín phút lẫm liệt đi vào lịch sử của Nguyễn Văn Trỗi. Đứng trên pháp trường, trước họng súng hành quyết, Nguyễn Văn Trỗi giật tấm vải đen bịt mắt, ưỡn ngực hô ba lần Hồ Chí Minh muôn năm trước khi bị loạt đạn xé nát ngực!
Trong đấu tranh cách mạng và trong những cuộc chiến tranh không cân sức vừa qua, đồng bào chiến sĩ ta luôn phải đối mặt với cái chết và mỗi người luôn sẵn sàng nhận lấy cái chết vì sự sống còn của dân tộc, của Tổ quốc. Năm 1944, chiến sĩ du kích Ba Tơ hô: Hi sinh vì Tổ quốc. Năm 1946, chiến sĩ cảm tử Thủ đô ôm bom ba càng lao vào xe tăng giặc Pháp hô: Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Những tiếng hô ấy âm vang trong suốt ba mươi năm chiến tranh giữ nước. Trong sự xả thân cứu nước đó, yếu tố tinh thần là quyết định. Truyền thống dân tộc, không gian huyền thoại của cuộc kháng chiến, gương anh hùng dũng sĩ và nhất là tình cảm thiêng liêng đậm màu tôn giáo giành cho lãnh tụ thần thánh Hồ Chí Minh làm nên tinh thần đó.
Trở về cuộc sống làm ăn đời thường, hàng ngày hàng giờ không còn đối mặt với cái chết nữa mà phải đối mặt với những bài toán kinh tế. Đời sống riêng tư mỗi người, đời sống kinh tế gia đình, đời sống kinh tế quốc gia đều đặt ra những bài toán cụ thể, thiết thực của đời thường. Trước những bài toán ấy, yếu tố tinh thần không còn quyết định nữa mà quyết định là yếu tố thực tế, yếu tố tỉnh táo, trí tuệ, yếu tố nắm bắt đầy đủ, kịp thời thông tin. Chỉ thu hẹp trong cái tình cảm hai nước cùng là cộng sản phải đoàn kết bảo vệ chủ nghĩa xã hội, chỉ biết có tinh thần quốc tế vô sản, không có thực tế của đời sống kinh tế khắc nghiệt, thiếu sự tỉnh táo lạnh lùng của người làm kinh tế, lại càng thiếu trí tuệ của khoa học công nghệ, chúng ta đã kí hợp đồng với Trung Quốc hợp tác khai thác bô-xít ở Tây Nguyên, đẩy đất nước ta vào những thảm họa khủng khiếp và bi thảm. Làm kinh tế chỉ bằng tinh thần và tình cảm nguy hại như vậy đó! Học tập đạo đức Hồ Chí Minh hoàn toàn chỉ là tinh thần và tình cảm!
Hồ Chí Minh có những phẩm chất đáng quí của thời nghèo khổ thắt lưng buộc bụng đánh giặc. Chiếc chiếu cói trải giường ngủ của Hồ Chí Minh trên nhà sàn đã cũ rách nhưng Hồ Chí Minh không cho thay. Nó mới rách một chỗ mà bỏ cả chiếc chiếu thì phí quá! Nói vậy và Hồ Chí Minh lấy kim chỉ tự khâu chỗ rách lại! Nhưng ngày nay ngân sách nhà nước vừa phải đổ ra hàng ngàn tỉ đồng để kích cầu, kích thích tiêu dùng để phát triển sản xuất. Cái chiếu cói cũng như mọi hàng hóa khác đều có giới hạn sử dụng. Giới hạn sử dụng ấy được ngôn ngữ quốc tế hóa là “đát”. Hết đát thì phải bỏ, thay cái khác. Hàng hóa có tiêu thụ được, sản xuất mới phát triển. Một thí dụ để thấy một phẩm chất rất đáng quí của Hồ Chí Minh ngày nào nay cũng không thể “học tập” được nữa!
Nhân vật lịch sử dù vĩ đại đến đâu cũng đều có đát. Hết đát, hết thời đại của mình thì lui về quá vãng, lui về thời của mình để thời đại khác xuất hiện, để nhân vật lịch sử khác thay thế. Ồn ào lôi nhân vật lịch sử từ quá vãng ra hiện tại là việc làm trái tự nhiên, trái qui luật, là phủ nhận hiện tại. Với công tác tư tưởng, đó là sự yếu kém, không biết làm việc, đành lôi bài bản cũ ra xào xáo lại!

2. Sự chối bỏ tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Tư duy phương Tây coi trọng cái lí. Những gì của tự nhiên không phù hợp với con người đều là bất hợp lí, đều cần cải tạo. Phương Tây đặt con người đối mặt với tự nhiên, con người luôn lăm le cải tạo tự nhiên. Tư duy phương Đông hướng vào cái Tâm. “Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài” (Nguyễn Du). Coi tự nhiên cũng như con người, đều là chủ thể thế giới, triết lí phương Đông không đẩy con người đối lập với tự nhiên mà đòi hỏi con người sống hòa thuận với tự nhiên. Ngôi nhà sàn nhỏ bé của Hồ Chí Minh núp trong cây xanh, soi bóng xuống hồ cá trong rừng cây xao xác gió ở Phủ Chủ tịch giữa Hà Nội là cách sống hòa vào thiên nhiên, là tư tưởng triết lí phương Đông của Hồ Chí Minh. Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người. Hồ Chí Minh nhắc lại lời của nhà hiền triết phương Đông như vậy và đi đâu thăm hỏi đồng bào chiến sĩ Hồ Chí Minh cũng nhắc nhở việc trồng cây không phải chỉ vì lợi ích mười năm sau được hái quả, thu hoạch gỗ mà còn vì cây xanh là thiên nhiên, là màu xanh vĩnh hằng của sự sống.
Tư tưởng lớn, xuyên suốt, nhất quán trong suốt cuộc đời Hồ Chí Minh là tư tưởng Nhân dân. Với tư tưởng Nhân dân, Hồ Chí Minh dựng lên nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước với những tiêu chí thiết thực, đáp ứng nỗi khát khao Dân chủ cháy bỏng của Nhân dân. Với tư tưởng Nhân dân, Hồ Chí Minh đã xây dựng lên bản Hiến pháp năm 1946, bản Hiến pháp đưa Nhân dân lên chủ thể xã hội. Với tư tưởng Nhân dân, Hồ Chí Minh đã đổi tên đảng Cộng sản Đông Dương huyễn hoặc mang những tham vọng viển vông thành đảng Lao động Việt Nam bình dị, gần gũi với Dân. Khi buộc phải tiến hành chiến tranh bảo vệ nền độc lập thì cuộc chiến tranh do Hồ Chí Minh phát động cũng là cuộc chiến tranh Nhân dân, dựa vào Nhân dân tiến hành chiến tranh giữ nước.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bình dị vậy thôi. Những người tự nhận là học trò gần gũi của Hồ Chí Minh, luôn ra rả nói học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh nhưng hoàn toàn làm trái với tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, hoàn toàn chối bỏ, phủ nhận tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Với triết lí phương Đông, con người sống chết đều hòa vào thiên nhiên, Hồ Chí Minh viết rõ ràng trong di chúc đưa tro xác Hồ Chí Minh về với đất đai. Với tư tưởng Nhân dân, Hồ Chí Minh không chấp nhận hoang phí tiền bạc của Dân. Khi sống, Hồ Chí Minh cần kiệm, giản dị, sinh hoạt như người dân thường. Cả đời làm Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh chỉ có hai kiểu trang phục, bộ quần áo nâu nông dân và bộ quần áo ka ki cán bộ như mọi cán bộ bình thường. Cơm dưa cà đạm bạc. Chiếc ô tô của Chủ tịch nước chỉ là ô tô thông thường đã chạy hơn mười năm Hồ Chí Minh vẫn không cho đổi xe mới… Khi chết, Hồ Chí Minh chỉ mong muốn tro xác về với đất đai cả ba miền đất nước. Nơi Hồ Chí Minh về với đất chỉ cần mái chòi đơn sơ trên đồi cây mang màu xanh bất tận của thiên nhiên đất nước. Hồ Chí Minh ngăn cấm không cho sử dụng tốn kém tiền bạc của Dân cho cái chết của Hồ Chí Minh. Mong muốn giản dị về với đất đai của Hồ Chí Minh đã không được thực hiện, những người ra rả học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh còn đổ không thương xót số tiền khổng lồ của Dân để xây lăng mộ, duy trì bộ máy đồ sộ, cả một Bộ Tư lệnh lăng để bảo quản thi hài, quản lý lăng mộ Hồ Chí Minh! Cho đến nay, cả đến Quốc hội của Dân cũng không được biết số tiền khổng lồ đó là bao nhiêu!
Điều bất nhẫn với Dân và xúc phạm đạo đức Hồ Chí Minh hơn nữa là nhà nước đổ số tiền khổng lồ ra xây dựng và duy trì lăng Hồ Chí Minh khi hơn mười triệu Dân miền Bắc đang đói lay đói lắt, trẻ thơ không đủ cơm ăn, người bệnh không có viên thuốc uống, người nông dân thu hoạch lúa, đóng thuế rồi chỉ còn bữa cháo bữa rau cầm hơi!
Trong đoàn nhà văn Việt Nam sang Ấn Độ tham dự một hoạt động văn chương quốc tế ở thành phố Kolkata, lúc vui chuyện với các bạn Ấn Độ, tôi nhắc đến việc Ấn Độ đã trở thành cường quốc nguyên tử, tưởng các bạn Ấn Độ sẽ tự hào lắm. Nhưng tôi thấy mọi người đều im lặng, vẻ mặt tư lự rồi nhà thơ, nhà nghiên cứu văn hóa Chàm đồng thời là Chủ tịch Ủy ban Ấn Độ – Việt Nam (Indo – Vietnam Solidarity Committee), ông Geetesh Sharma nói: Để có nguyên tử, cho đến hôm nay hơn năm mươi phần trăm dân số Ấn Độ còn phải sống trong nghèo khổ và những khu nhà ổ chuột cứ lan rộng khắp đất nước Ấn Độ! Nghe người bạn thân thiết của Việt Nam nói vậy tôi lại thầm so sánh: Hơn năm mươi phần trăm dân số sống trong nghèo khổ để Ấn Độ có nguyên tử vẫn còn hơn là hơn mười triệu dân Việt Nam phải sống trong nghèo khổ để có lăng mộ Hồ Chí Minh! Đó là điều trái với đạo đức Hồ Chí Minh, là sự phỉ báng tư tưởng Nhân dân của Hồ Chí Minh!
Làm trái tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh không phải là cá biệt mà là việc làm có tính toán, có hệ thống từ nhỏ đến lớn, từ chi tiết đến đại thể, từ sự việc cụ thể đến vấn đề khái quát, có sự thống nhất của nhiều thế hệ lãnh đạo kế tiếp sau Hồ Chí Minh.
Nhà nước Dân chủ là khát vọng của mọi thân phận người Dân nước Việt, là xu thế của thời đại. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã mở ra thời đại Dân chủ hóa cho cả thế giới thứ ba. Sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi bảo vệ thành công nền Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã kích hoạt cho phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới trở thành dòng thác cách mạng. Vì thế tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là sự ngưỡng vọng của thế giới, là niềm tự hào to lớn của mọi người dân Việt Nam. Cho đến nay tiến trình dân chủ hóa vẫn đang diễn ra trên toàn thế giới. Ở nước ta, tiến trình dân chủ hóa vẫn còn ở chặng khởi đầu, còn nhiều dò dẫm và trở ngại. Dân chủ vẫn đang là nỗi thèm khát và là nguồn cổ vũ mạnh mẽ người dân đi tới, vượt qua mọi trở ngại, giành lấy một nền dân chủ thực sự và đầy đủ. Thế mà tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mang tư tưởng Dân chủ của Hồ Chí Minh, mang khát vọng Dân chủ của cả dân tộc Việt Nam đã bị những người luôn cao giọng học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh loại bỏ thẳng thừng để thay thế bẳng tên gọi xa lạ, ngoại lai: Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam!
Trong khái niệm, trong ý thức, trong tình cảm mọi người dân Việt Nam, tiếng gọi Việt Nam bao giờ cũng phải đưa lên trên cùng. Việt Nam! Việt Nam! Việt Nam! Ôi nước Việt yêu dấu ngàn năm! Tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thân thiết như máu thịt chính là do đáp ứng tình cảm đó. Nay một ngôn từ xa lạ, xã hội chủ nghĩa, ngôn từ chỉ gợi lên những kí ức đau buồn của cải cách ruộng đất, cải tạo tư sản, của những cuộc đấu tranh giai cấp khốc liệt triền miên, trở thành tên nước Việt và tên gọi Việt Nam thân yêu như tên người Mẹ hiền, như tên người thương đã bị chìm khuất, bị đè bẹp, bị đẩy xuống cuối cùng trong chuỗi ngôn từ lạnh lùng, nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam!
Thể chế Dân chủ cần thiết cho người dân Việt Nam như khí trời cần thiết cho sự sống. Thể chế ấy bị vất bỏ để thay thế bằng khái niệm mơ hồ, viển vông, không có thật, khái niệm chỉ có trong ảo thuyết. Đó là sự chối bỏ phũ phàng tư tưởng Hồ Chí Minh!
Chính đảng cách mạng Hồ Chí Minh dựng lên là sự tập hợp từ những nhóm cộng sản Việt Nam hình thành trong thời kì lây lan của phong trào cộng sản thế giới. Vì thế chính đảng ấy ban đầu mang tên cộng sản, mang dấu ấn hoàn cảnh lịch sử ra đời. Nhưng đến năm 1951, khi cách mạng Việt Nam đã lớn mạnh, cách mạng đã giành được quyền chủ động và thế phản công trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược, đang tiến tới ngày giải phóng đất nước, Hồ Chí Minh liền đổi tên đảng là đảng Lao động Việt Nam. Tuy vẫn phải giữ liên hệ chặt chẽ với các đảng cộng sản và các nước cộng sản để nhận sự hỗ trợ cần thiết cho cuộc kháng chiến chống Pháp nhưng tên đảng Lao động Việt Nam đã bộc lộ rất rõ tư tưởng Dân tộc, tư tưởng hướng nội của Hồ Chí Minh. Khi đất nước đã được hoàn toàn giải phóng, chúng ta đã thoát khỏi thân phận là lực lượng xung kích phải đứng ở mũi nhọn trong cuộc đối kháng ý thức hệ thế giới là khi chúng ta càng phải hướng nội, càng phải nêu cao tư tưởng Dân tộc của Hồ Chí Minh để hòa giải, hòa hợp dân tộc, dồn sức xây dựng lại đất nước sau chiến tranh. Nhưng thế hệ lãnh đạo kế cận Hồ Chí Minh tự nhận là những học trò gần gũi nhất của Hồ Chí Minh lại tráo trở với tư tưởng Hồ Chí Minh đã thay tên đảng Lao động Việt Nam của Hồ Chí Minh bằng tên đảng Cộng sản Việt Nam, một tên gọi đầy tính băng đảng quốc tế! Phủ nhận tên đảng Lao động Việt Nam mang văn hóa Việt Nam coi trọng người lao động, mang tâm lí, tính cách con người Việt Nam là phủ nhận bản sắc Việt Nam để đồng hóa Việt Nam với thế giới cộng sản chỉ nhìn nhận giai cấp!
Vất bỏ tư tưởng dân tộc, tư tưởng hướng nội của Hồ Chí Minh, vẫn say sưa quyết liệt với bạo lực chuyên chính vô sản, vẫn say sưa quyết liệt đối đầu ý thức hệ, lấy giai cấp trấn áp dân tộc, đưa đất nước đến hai thảm họa: Phá hoại khối đoàn kết dân tộc, tù đày, dằn mặt với những người con nước Việt ở phía bên kia ý thức hệ, bỏ phí một lực lượng lao động cao cấp vô cùng quí giá! Phá hoại tan hoang nền kinh tế miền Nam, một nền kinh tế tư bản cao hơn hẳn kinh tế xã hội chủ nghĩa miền Bắc!
Vất bỏ tư tưởng dân tộc, tư tưởng hướng nội của Hồ Chí Minh để hướng ngoại, vươn tới thế giới cộng sản khi thế giới cộng sản đang khủng hoảng toàn diện, đang thoái trào tan rã, đang lục đục gầm gừ năm bè bảy mối. Một lần nữa những người lãnh đạo Việt Nam ngây thơ, không đủ tầm lại đưa dân tộc Việt Nam trở thành vật hi sinh của thế giới cộng sản. Mâu thuẫn của thế giới cộng sản lại trút xuống đầu nhân dân Việt Nam, nhân dân Việt Nam lại phải hứng chịu cuộc chiến tranh đẫm máu ở biên giới phía Bắc kéo dài suốt mười năm, từ 1979 đến 1988. Đó là hậu quả dại dột tráo trở tư tưởng dân tộc của Hồ Chí Minh.
Hiến pháp năm 1946 do Hồ Chi Minh soạn thảo được Quốc hội khóa I thông qua ngày 9.11.1946 đã cụ thể hóa tư tưởng Nhân dân của Hồ Chí Minh. Hiến pháp 1946 đã đưa nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ lên vị trí chủ thể xã hội, trao cho Nhân dân toàn bộ quyền bính xã hội: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt giống nòi, trai gái, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” (Điều 1, điều đầu tiên Hiến pháp 1946). Hiến pháp 1946 đã cụ thể hóa quyền lực nhân dân khi ghi rõ: Những điều thay đổi Hiến pháp khi đã được Nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết (Điều 70, điều cuối cùng Hiến pháp 1946). Nhưng những Hiến pháp ban hành sau khi Hồ Chí Minh qua đời, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992, đã tước bỏ vị trí làm chủ của Nhân dân, tước bỏ quyền bính xã hội của Nhân dân, trao quyền làm chủ xã hội cho đảng Cộng sản, trao toàn bộ quyền bính xã hội cho đảng Cộng sản, một đảng nắm quyền thống trị xã hội bằng bạo lực chuyên chính vô sản, bằng trấn áp giai cấp. Điều 4 Hiến pháp 1980 ghi: Đảng Cộng sản Việt Nam . . . là lực lượng duy nhất lãnh đạo đất nước, lãnh đạo xã hội. Điều 4 Hiến pháp 1992 lại ghi: Đảng Cộng sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội! Chỉ một điều 4 của Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 đã tước đoạt toàn bộ quyền làm chủ xã hội của Nhân dân mà Hiến pháp 1946 của Hồ Chí Minh đã trao cho Nhân dân. Bao nhiêu thế hệ người Việt Nam đã ngã xuống, bao nhiêu xương máu đã đổ ra mới giành và giữ được độc lập. Nhưng nước có độc lập mà người Dân lại trở về thân phận trước năm 1945 khi đất nước còn nô lệ! Đó là nỗi cay đắng của Nhân dân khi tư tưởng Nhân dân của Hồ Chí Minh bị phản bội!
Những tư tưởng đạo đức cơ bản của Hồ Chí Minh đã bị chối bỏ thì việc rầm rộ học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh có thực tâm?

3. Cuộc vận động làm điều giả dối
Phải nói thẳng rằng chính quyền nhà nước hiện nay là chính quyền tham nhũng. Chính quyền tham nhũng tạo ra luật pháp để tham nhũng. Luật để tham những rõ ràng nhất là luật Đất đai. Luật Đất đai ở điều 5 ghi: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước đại diện chủ sở hữu. Điều 7 lại ghi: Nhà nước thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất quản lý nhà nước về đất đai. Câu chữ lủng củng và diễn đạt cầu kì có thể rút gọn lại là: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lí. Ruộng vườn mồ hôi xương máu của tổ tiên từ ngàn đời để lại bỗng thành sở hữu toàn dân! Cha chung không ai khóc, sở hữu toàn dân là vô chủ và quan tham thỏa sức vơ vét! Nhà nước quản lý nên quan chức nhà nước mặc sức cắm mốc thu hồi đất theo những tính toán vụ lợi của các quan. Thu hồi đất, phân lô chia chác cho các quan, chia cho vợ, con, họ hàng các quan. Thu hồi đất cho các dự án để ăn chặn tiền đền bù, ăn chênh lệch giữa giá đất đền bù và giá đất giao cho các dự án! Càng nhiều dự án thì các quan càng có nhiều tiền và dòng người dân khiếu kiện vì bị cướp đất, bị ăn chặn tiền đền bù càng nối dài theo năm tháng. Người nông dân mất đất phải phiêu bạt khắp nơi, từ vị trí làm chủ họ trở thành người đi làm thuê. Con gái ra thành phố làm tiếp viên cà phê đèn mờ, ra nước ngoài làm ô sin, làm nô lệ tình dục. Con trai đi bán sức lao động, làm thuê, làm mướn. Bần cùng và phẫn uất, có người trở thành trộm cướp. Có người già phải dắt cháu đi ăn xin! Chỉ mới vài ngày gần đây thôi, một cô bé ra TP HCM thi đại học phải nhịn đói tròn 3 ngày trong thời gian thi. Đó là trách nhiệm – nặng hơn nữa là tội ác – của ai nếu không là của những kẻ khề khà giảng giải đạo đức Hồ Chí Minh mà sau lưng lại là vô số “nhóm lợi ích” ôm hàng túi vàng?
Miệng hô hào chống tham nhũng nhưng chính quyền tham nhũng thì rất nương nhẹ, dửng dung với quốc nạn tham nhũng. Chính phủ nước ngoài cho ta vay vốn làm công trình. Công ty nước ngoài liền hối lộ quan chức ta để trúng thầu thi công công trình đó. Chính quyền nước ngoài đã đưa người hối lộ ra tòa án nhưng quan chức ta nhận hối lộ thì vẫn bình yên và chính quyền ta thì dửng dưng nói với nước ngoài: Cứ đưa chứng cứ ra, chúng tôi sẽ xử lí! Làm như hối lộ và nhận hối lộ chỉ là việc của mấy người nước ngoài! Bố đứng đầu cơ quan phát hành tiền bạc nhà nước, con liền lập công ti in tiền cho bố. Bao nhiêu bê bối, lình xình đã phơi bày ra nhưng vẫn được bỏ qua! Dù chế độ tiền lương đã được cải thiện nhiều nhưng nếu không tham nhũng thì đồng lương quan chức không thể dư dả đến mức quan chức ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh thì về vùng xa mua hàng chục hecta đất làm trang trại, về những nơi kì thú như Sóc Sơn, Ba Vì, Nha Trang, Mũi Né, Đà Lạt mua biệt thự làm chốn đi về nghỉ ngơi. Các quan tỉnh lẻ thì về Hà Nội, vào TP Hồ Chí Minh mua đất, mua nhà cho con lớn con nhỏ, mua biệt thự chờ ngày về hưu. Lớp quan chức này đã vớ bẫm về nghỉ, hạ cánh an toàn, lớp quan chức sau lại cất cánh bay theo đường bay làm giàu, bòn rút tiền bạc nhà nước, bóp nặn dân của lớp quan chức trước. Tất cả đều an toàn, tất cả đều vô sự trở thành sự khuyến khích tham nhũng, trở thành sự hấp dẫn của chiếc ghế quan chức và chiếc ghế quan chức trở thành đắt giá trong thị trường mua quan bán chức!
Chuyện tham nhũng của bộ máy nhà nước ta không sao kể xiết. Bộ máy nhà nước tham nhũng ấy lại cao giọng rao giảng đạo đức Hồ Chí Minh, lại ồn ào rầm rộ học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thì đó là sự giả dối vô liêm sỉ, một sự giả dối tự nhiên như không, không còn biết ngượng, thì đó là một màn kịch vụng về, trơ trẽn! Và cuộc vận động học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trở thành cuộc vận động làm điều giả dối! Đó là suy đồi thảm hại của đạo đức xã hội!
Bộ máy tham nhũng làm cho chính quyền suy yếu, nhân dân oán giận, lòng người li tán. Trong tình thế đó, đưa Hồ Chí Minh ra, đưa những năm tháng đánh giặc hào hùng ra, đưa sự hi sinh to lớn của đồng bào chiến sĩ ra để ru ngủ nhân dân quên đi những nhức nhối hiện tại, để chính quyền tham nhũng núp bóng, ăn theo vinh quang của quá khứ mà tồn tại. Đó là sự ăn mày dĩ vãng!

PĐT
HT Mạng Bauxite Việt Nam biên tập

------------------------------------------

Đường dây bảo mật
Phạm Đình Trọng
Đăng ngày 30/10/2008 lúc 00:20:00 EDT
http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=3222
Nhà văn không phải chỉ biết trau chuốt câu văn đẹp, ngâm ngợi non nước mây trời, hể hả tán dương cuộc đời. Nhà văn là trái tim đa cảm chia sẻ với những phận người trắc trở, là cái đầu cả nghĩ luôn bận tâm những gì liên quan đến vận nước thịnh suy. Đất đai ở biên cương đã và đang bị lấn, biển đảo ngay trước thềm cửa nhà đã và đang bị mất! Làm sao không lo nghĩ!
Sau những hành động vừa ngấm ngầm lặng lẽ lấn chiếm, vừa ngang nhiên, trắng trợn thôn tính đất đai biển trời của ta ở biên giới và ngoài biển đông của nhà nước Trung Hoa; Sau những ngây thơ, hớ hênh, cả tin gửi trứng cho ác, sau những nhu nhược nhượng bộ, ngậm ngùi chịu thiệt thòi mất mát của nhà nước ta trước sự ngang ngược lấn tới của nhà nước Trung Hoa thì mỗi lần lãnh đạo nhà nước ta đi sứ sang Trung Hoa, người dân đều chăm chú theo dõi và phập phồng lo ngại. Lần này trong tiết heo may cuối thu năm 2008 đầy khó khăn thử thách, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhà ta lại đi sứ sang Bắc Kinh. Nỗi lo lắng của người dân càng to lớn, càng cụ thể khi trong các kí kết với nhà nước phương Bắc có một kí kết bất thường: Kí hiệp định về đường dây thông tin bảo mật giữa các nhà lãnh đạo hai nước!
Đường dây bảo mật này chính là đường dây nóng mà trong chuyến đi sứ sang Đại Hán giữa năm nay của Tổng bí thư Nông Đức Mạnh, người đồng cấp Hồ Cẩm Đào đã đặt ra đây! Đường dây này bất thường lắm, đáng băn khoăn lắm vì:

Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, nhất là trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cam go, khốc liệt, vận nước vô cùng chênh vênh, hiểm nghèo và lúc ấy Trung Hoa còn giữ bộ mặt thân thiện, chí cốt với ta. Lãnh tụ bên này nói Mối tình hữu nghị Việt – Hoa / Vừa là đồng chí, vừa là anh em. Lãnh tụ bên kia nói Trung Hoa – Việt Nam như răng với môi, môi hở răng lạnh. Nghệ sĩ hai nước thì hoà giọng ca: Bên đây biên giới là mình / Bên kia biên giới cũng tình quê hương. Còn những người lính chúng tôi ra trận đánh Mĩ thì càng thấy Trung Hoa xiết bao gần gũi, thân thiết. Từ đôi dép cao su đúc đi dưới chân đến cái mũ lá sen đội trên đầu, từ cái bi đông, túi thuốc cá nhân thắt bên sườn đến khẩu súng AK đeo trên vai, cái máy thông tin cõng trên lưng, từ hạt gạo ăn hàng ngày đến bánh lương khô, túi ruốc bông ăn khi lỡ bữa giữa rừng... đều của Trung Hoa. Lúc đó chúng tôi vẫn đinh ninh rằng đó là sự giúp đỡ cao cả vô tư của nhân dân Trung Hoa vĩ đại dành cho nhân dân Việt Nam.
Mãi sau này tôi mới hiểu ra rằng đánh Mĩ bằng máu người Việt Nam và bằng trang bị, vũ khí Trung Hoa, đó là phương thức làm cách mạng thế giới của người Trung Hoa. Với phương thức đó thì họ còn cần ta nhiều hơn là ta cần họ vì nếu không có vũ khí trang bị của Trung Hoa ta có thể trông chờ ở các nước khác trong khối xã hội chủ nghĩa lúc đó còn đông đảo, còn say lí tưởng quốc tế vô sản và còn mang mục tiêu chống chủ nghĩa đế quốc! Nhưng chống chủ nghĩa đế quốc bằng xương máu, bằng mạng sống của con người thì chỉ có nhân dân Việt Nam dám nhận lấy! Dù sao vũ khí trang bị của Trung Hoa cũng vô cùng cần thiết cho ta trong cuộc kháng chiến giữ nước. Ta cần họ và họ cũng cần ta. Cuộc chiến tranh giữ nước của ta cũng là cuộc đối đầu phân định thắng bại của hai ý thức hệ đối kháng phân chia thế giới mà ta và họ cùng trong một ý thức hệ. Vì thế hai nước rất cần có sự phối hợp chặt chẽ từ những hành động chiến thuật đến những ý đồ chiến lược, sách lược và những thông tin đó đều vô cùng hệ trọng, có tính bảo mật rất cao. Thế mà lúc đó đâu có cần đường dây nóng, đường dây bảo mật!
Trở về cuộc sống hòa bình, trở về bang giao hòa hiếu hữu nghị đâu có còn những gấp gáp của cuộc chiến đđang diễn ra, đâu có còn những bí mật quân sự! Hơn nữa, chiến tranh lạnh đã kết thúc, không còn hai hệ tư tưởng đối kháng. Việt Nam mong muốn là bạn của tất cả các nước. Thế giới bước vào thời kì cởi mở và xã hội bước vào kỉ nguyên dân chủ công khai, mọi việc lớn nhỏ của dân của nước, dân phải được biết, dân phải được bàn, dân phải kiểm tra giám sát. Trong cuộc sống hòa bình, trong thế giới cởi mở, trong xã hội dân chủ công khai, các nhà lãnh đạo Việt Nam và Trung Hoa lập đường dây bảo mật làm gì vậy?
Trước những mưu đồ xảo trá của những tham vọng phương Bắc, lãnh đạo ta đã nhiều lần hớ hênh, dại dột làm cho đất nước chịu nhiều thiệt thòi, mất mát, làm cho nhân dân phải chịu nhiều cay đắng, đau xót không bao giờ quên. Nay lại có thêm đường dây đi đêm riêng tư, lành ít dữ nhiều, rồi điều gì sẽ xảy ra?

Còn nhớ năm 1955, miền Bắc vừa được giải phóng, cả miền Bắc đang thất nghiệp, sức người thừa thãi nhưng lãnh đạo nhà nước ta vẫn chấp nhận cho công nhân đường sắt Trung Hoa vào Việt Nam giúp ta khôi phục đường sắt Lạng Sơn – Hà Nội và công nhân đường sắt Trung Hoa đã đưa điểm nối giữa đường sắt Việt Nam với đường sắt Trung Hoa vào sâu lãnh thổ nước ta, cách xa đường biên giới tới 300 mét và ta cứ ngây thơ im lặng! Mãi đến khi quân Mĩ rút khỏi Việt Nam tháng 3 năm 1973 thì ngay lập tức tháng 1 năm 1974 Trung Hoa liền cất quân đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa từ tay quân đội Sài Gòn! Đến lúc đó lãnh đạo ta mới giật mình nhận ra nỗi thèm khát của “chiếc răng Trung Hoa” (Trung Việt như răng với môi mà) Lại chột dạ nhớ những gì đã diễn ra trước đây ở biên giới phía Bắc! Đắn đo, lúng túng mãi, đến ngày cuối cùng năm ấy, 31 tháng 12 năm 1974, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới dè dặt đề nghị Chính phủ Trung Hoa giao cho ngành đường sắt hai nước điều chỉnh chỗ nối đường sắt Việt – Trung theo đúng đường biên giới lịch sử. Tất nhiên, Trung Hoa không thiếu gì cớ từ chối: Các đồng chí cứ tập trung vào sự nghiệp giải phóng miền Nam. Điểm nối đường sắt hai nước không có gì quan trọng. Trung – Việt sẽ còn ngồi lại với nhau phân định lại cả tuyến biên giới lịch sử. Đến lúc đó sẽ xem xét luôn! Nhưng khi hai nước đàm phán về biên giới thì họ lại lí sự: Không thể có đường sắt nước này lại đặt trên lãnh thổ nước khác! Vì thế điểm nối hai đường sắt chính là điểm phân ranh hai nước!

Có đủ chứng cứ từ lịch sử lâu đời, có công ước phân định biên giới Việt – Hoa giữa người Pháp và nhà Thanh, có bản đồ biên giới Việt - Trung của người Pháp để lại, có sự thật lịch sử chỗ nối đường sắt đo do công nhân Trung Hoa đặt... nhiều lắm những chứng cứ xác định đúng đường biên giới lịch sử nhưng những người quản lí quốc gia của ta đã không đủ lòng yêu nước và bản lĩnh để đi đến cùng sự thật, họ đã bình thản buông xuôi để mất đất đai thiêng liêng của tổ tiên rồi lặng lẽ trước nhân dân, trước lịch sử và quanh co trước dư luận!

Cũng năm 1955 Việt Nam còn nhờ Trung Hoa in lại bản đồ Việt Nam tỉ lệ 1/100 000. Không có biên bản giao kèo và những qui định về nội dung in ấn. Không kiểm tra, nghiệm thu thành phẩm. Không xác định bản đồ gốc đối chiếu để từ chối khi bản đồ in lại không đúng với bản đồ gốc thì không có giá trị, không chấp nhận. Họ in sao ta nhận vậy! Bản đồ Việt Nam của Pháp để lại vẽ theo công ước phân định biên giới Việt – Hoa đã được hai nước Pháp, Hoa công nhận năm 1897 thì thác Bản Giốc thuộc xã Đàm Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng ở phía nam đường biên giới tới 2 kilomet. Nhưng bản đồ Trung Hoa in giúp ta, đường biên giới cắt đôi thác Bản Giốc! Bước một khó khăn nhất là lấn đất trên bản đồ đã được thực hiện đàng hoàng, dễ dàng, mau lẹ! Bước hai chỉ còn việc chiếu theo bản đồ vạch đường biên giới trên thực tế. Ngày 29 tháng 2 năm 1976 họ bất ngờ huy động 2 000 quân mặc đồ dân sự tràn sang đất ta bao vây toàn bộ thác Bản Giốc, che chắn cho kíp thợ gấp rút đổ bê tông phân ranh cắt ngang thác, ngang nhiên nhận một phần thác Bản Giốc của ta là của họ! Mới đây, nhân khai trương điểm du lịch mới sát biên giới ta, thác Đức Thiên, Đệ nhất hùng quan Nam Trung Hoa, họ mời một đoàn nhà báo ta sang dự. Đến nơi, các nhà báo Việt Nam cay đắng nhận ra Đệ nhất hùng quan Nam Trung Hoa, thác Đức Thiên chính là phần đẹp nhất của thác Bản Giốc của ta!

Đất đai trên đất liền bị mất mát hao hụt ở từng điểm tính bằng kilomet vuông, trên cả dải biên giới lên tới hàng trăm kilomet vuông! Lớn lắm! Nhưng cũng chưa thấm tháp gì so với những con số hàng trăm nghìn kilomet vuông biển trời bị mất ngoài thềm cửa phía đông nước ta!

Đất đai là xương máu, hồn cốt cha ông bị mất mát lớn như thế nhưng đến nay Quốc hội cũng không được báo cáo, không được biết sự thật! Người dân lại càng không được biết! Để tiêu hóa phần đất chiếm được của ta, nhà nước phương Bắc liền đưa phần đất đó vào đơn vị hành chính quận, huyện của họ! Đến lúc đó sinh viên ta mới biết đất đai của ta đã trở thành quận huyện Trung Hoa! Lòng yêu nước đã tập hợp sinh viên ta lại biểu lộ ý chí khẳng định chủ quyền Việt Nam ở những phần đất bị chiếm. Đó là việc rất cần thiết khởi đầu cho quá trình đòi lại đất bị mất. Cấm không cho sinh viên bộc lộ ý chí khẳng định chủ quyền Việt Nam ở những phần đất bị mất là nhà nước ta không có ý định đòi lại những phần đất đó sao? Làm sao người dân có yên tâm về một nhà nước như thế và về những người giữ trọng trách của nhà nước đó!

Một nhà nước luôn “bảo mật” với dân trong mọi việc dân cần được biết, dân cần được bàn, dân cần kiểm tra, giám sát. Nay lại có thêm một đường dây “bảo mật” nữa với dân! Dân chẳng còn gì để biết, chẳng còn gì phải bận tâm, dân chỉ như đám con nít cho gì được nấy, bảo sao nghe vậy!

Trong mối quan hệ với nước láng giềng, nhân dân Việt Nam luôn phải nhận thua thiệt, mất mát, cay đắng, tủi nhục. Nay trong mối quan hệ ấy lại có thêm một đường dây “bảo mật” nữa với dân! Rồi điều gì sẽ đến và đường dây “bảo mật” ấy cần cho ai?

Thời thế giới còn phân chia hai lực lượng thù địch trong hai hệ tư tưởng đối kháng, Việt Nam cùng trong hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa với nước lớn Trung Hoa và những nhà cách mạng Việt Nam đều tâm niệm học thuyết Mao ít, đều bị cái vòng kim cơ tư tưởng Mao Trạch Đông thít trên đầu và họ đã hăng hái tiến hành cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp, đã lạnh lùng thực hiện những vụ việc tàn bạo như vụ Nhân văn Giai phẩm, vụ Xét lại chống đảng, gây tai họa lớn cho đất nước, cho nhân dân, còn để lại hậu quả đến hôm nay. Bước vào thời kì mới, Việt Nam cần hội nhập với thế giới, cần mở rộng hợp tác làm ăn với tất cả các nước, nhất là với những nước có nền kinh tế phát triển, có trình độ khoa học kĩ thuật cao, có công nghệ hiện đại như nước Mĩ và các nước công nghiệp phương Tây.
Muốn thật sự hội nhập, tiếp cận và đón nhận vốn liếng, công nghệ và cung cách làm ăn lớn, hiệu quả, chúng ta phải là chúng ta, là con người Việt Nam thông minh, sáng tạo, là khí phách Việt Nam hiên ngang, tự tin, tự chủ. Thực tế cho thấy cái vòng kim cô tư tưởng Mao Trạch Đông còn hằn sâu trong tư duy không ít nhà cách mạng Việt Nam, trở thành sự giằng co, níu kéo sự phát triển của đất nước, làm mất tư thế tự tin, tự chủ và hiên ngang của đất nước. Đó là một sợi dây đang trói buộc chúng ta! Thực tế cũng cho thấy, với tư tưởng Đại Hán, nước lớn Trung Hoa không muốn những nước nhỏ quanh họ phát triển để mãi mãi phụ thuộc vào họ, mãi mãi bị cột chặt vào họ. Và có phải đường dây bảo mật kia là lại thêm một đường dây cụ thể để họ cột chúng ta vào với họ?

Phạm Đình Trọng

Nguồn: báo Tổ Quốc số 52 (01/11/2008)

----------------------------------------------------------


CÁC BÀI VIẾT CỦA PHẠM ĐÌNH TRỌNG


Hòa Vang và cuộc đi bộ cuối cùng - Phạm Đình Trọng (22/04/2006)

Sách văn chương cũng cần thương hiệu - Phạm Đình Trọng (08/06/2005)

Nỗi ngán ngẩm thường ngày
Phạm Đình Trọng - Đăng ngày 14/05/2009 lúc 02:54:46 EDT
http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=3761

Muối của cuộc đời
Phạm Đình Trọng - Đăng ngày 16/07/2008 lúc 02:59:00 EDT
http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=2952

Nghĩ suy từ Ấn Độ
Phạm Đình Trọng - Đăng ngày 24/03/2008 lúc 02:35:46 EDT
http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=2645

Tháng Mười Hà Nội
Phạm Đình Trọng 14.10.2008
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=14477&rb=0401

Tình cảm yêu nước bị xúc phạm
http://vantuyen.net/index.php?view=story&subjectid=18452

Nhà văn Phạm Đình Trọng nói về công nghiệp đóng tàu trên BBC
http://binhbien.multiply.com/journal/item/107/107

Thư của nhà văn Phạm Đình Trọng gửi TT Nguyễn Tấn Dũng

http://thtndc.org/index.php?option=com_content&view=article&id=426:th-ca-nha-vn-phm-inh-trng-gi-tt-nguyn-tn-dng-&catid=56:tindanchu&Itemid=64

Lời cám ơn của nhà văn Phạm Đình Trọng
http://www.x-cafevn.org/node/1486

No comments: