Nguồn
gốc hành vi sai trái của Nga (P1)
Boris
Bondarev - Foreign
Affairs
Nguyễn Thị Kim Phụng,
biên dịch
https://nghiencuuquocte.org/2022/11/08/nguon-goc-hanh-vi-sai-trai-cua-nga-p1/
Dưới đây là câu
chuyện của một nhà ngoại giao đào tẩu khỏi điện Kremlin.
Trong vòng ba năm, mọi ngày làm việc của tôi đều
bắt đầu theo cùng một cách. 7h30 sáng, tôi thức dậy, đọc báo, rồi lái xe đến
Văn phòng Phái đoàn Nga tại Liên Hiệp Quốc ở Geneva. Lịch trình luôn dễ dàng và
có thể đoán trước, đó là hai trong số những đặc điểm nổi bật trong cuộc đời của
một nhà ngoại giao Nga.
Nhưng ngày 24/02 thì khác. Khi kiểm tra điện
thoại của mình, tôi đã thấy một bản tin đột ngột và đau đớn: Không quân Nga
đang ném bom Ukraine. Kharkiv, Kyiv, và Odessa đang bị tấn công. Quân đội Nga
đang tràn ra khỏi Crimea và tiến về phía nam thành phố Kherson. Tên lửa của Nga
đã biến các tòa nhà thành đống đổ nát và buộc người dân phải chạy trốn. Tôi đã
xem video về các vụ đánh bom, lắng nghe tiếng còi báo động không kích, và chứng
kiến người dân chạy tán loạn.
Là một người sinh ra ở Liên Xô, cuộc tấn công
vào Ukraine đối với tôi là điều gần như không thể tưởng tượng được, dù tôi đã
nghe truyền thông phương Tây báo cáo rằng một cuộc xâm lược sắp xảy ra. Người
Ukraine đáng ra phải là bạn thân của chúng tôi. Hai nước có nhiều điểm chung,
bao gồm cả lịch sử cùng chiến đấu chống quân Đức khi còn là thành viên của cùng
một liên bang. Tôi nghĩ về ca từ của một bài hát yêu nước nổi tiếng trong Thế
chiến II, một bài hát mà nhiều cư dân của Liên Xô cũ vẫn thuộc lòng, “Vào ngày
22 tháng 6, chính xác vào lúc 4 giờ sáng, Kyiv bị ném bom, và chúng tôi được bảo
rằng chiến tranh đã bắt đầu.” Tổng thống Nga Vladimir Putin đã mô tả cuộc xâm
lược Ukraine là một “chiến dịch quân sự đặc biệt” nhằm “phi phát xít hóa” nước
láng giềng của Nga. Nhưng ở Ukraine, chính Nga mới là bọn phát xít.
“Đó là khởi đầu của một kết thúc,” tôi nói với
vợ mình. Chúng tôi quyết định rằng tôi phải nghỉ việc.
Từ chức đồng nghĩa với việc vứt bỏ sự nghiệp
20 năm làm nhà ngoại giao Nga, và theo đó cũng mất đi nhiều bạn bè thân thiết.
Nhưng đó là điều mà tôi đã suy nghĩ từ lâu. Khi tôi gia nhập Bộ Ngoại giao Nga
vào năm 2002, tình hình còn tương đối cởi mở, các nhà ngoại giao có thể trao đổi
thân thiện với những người đồng cấp đến từ nước khác. Tuy nhiên, ngay từ những
ngày đầu tiên, tôi đã thấy rõ rằng Bộ Ngoại giao Nga vẫn còn cực kỳ nhiều vấn đề.
Lúc đó, Bộ không hề khuyến khích tư duy phản biện, và trong suốt thời gian tôi
làm việc, Bộ ngày càng trở nên hiếu chiến. Dù sao thì tôi vẫn tiếp tục, kiềm chế
sự bất hòa trong nhận thức bằng cách hy vọng rằng tôi có thể sử dụng bất cứ quyền
lực nào mà tôi có để điều chỉnh hành vi quốc tế của đất nước mình. Thế nhưng,
có những sự kiện có thể khiến một người chấp nhận làm những điều mà trước đây họ
không dám làm.
Cuộc xâm lược Ukraine khiến người ta không thể
phủ nhận rằng nước Nga đã trở nên hung bạo và đàn áp. Đó là một hành động tàn
ác không thể diễn tả thành lời, được thiết kế để khiến nước láng giềng phải khuất
phục và xóa bỏ bản sắc dân tộc của họ. Nó tạo cho Moscow một cái cớ để thủ tiêu
phe đối lập trong nước. Giờ đây, chính phủ Nga đang cử hàng nghìn lính nhập ngũ
đi giết hại người Ukraine. Cuộc chiến cho thấy Nga đã không còn độc tài và hiếu
chiến, mà trở thành một nhà nước phát xít.
Nhưng đối với tôi, một trong những bài học
quan trọng từ cuộc xâm lược này có liên quan đến điều mà tôi đã chứng kiến
trong hai thập niên trước đó: điều gì sẽ xảy ra khi một chính phủ dần trở nên
hoang tưởng bởi sự tuyên truyền của chính họ? Suốt nhiều năm, các nhà ngoại
giao Nga đã được đào tạo để đối đầu với Washington và bao biện cho hành động
can thiệp của nước mình ở nước ngoài bằng những lời nói dối và những lập luận
không nhất quán. Chúng tôi đã được dạy phải thường xuyên dùng những lời lẽ khoa
trương và lặp lại cho nước khác nghe những điều mà Điện Kremlin đã nói với
chúng tôi. Nhưng sau cùng thì, đối tượng của chiến dịch tuyên truyền này không
chỉ là nước ngoài, mà còn là ban lãnh đạo của chính chúng tôi. Trong các bức điện
và tuyên bố, chúng tôi được yêu cầu phải nói với Điện Kremlin rằng chúng tôi đã
nói cho thế giới biết về sự vĩ đại của nước Nga và đập tan các lập luận của
phương Tây. Chúng tôi đã phải giấu đi mọi lời chỉ trích về các kế hoạch nguy hiểm
của tổng thống. Hoạt động này diễn ra ngay cả ở cấp cao nhất của Bộ. Các đồng
nghiệp của tôi ở Điện Kremlin nhiều lần nói với tôi rằng Putin thích Ngoại trưởng
Sergey Lavrov vì ông ấy là người “thoải mái” khi làm việc cùng, luôn đồng ý với
tổng thống và chỉ nói những gì mà tổng thống muốn nghe. Cũng không ngạc nhiên
khi Putin nghĩ rằng mình sẽ không gặp khó khăn gì nếu muốn đánh bại Kyiv.
Cuộc chiến ở Ukraine là một minh chứng rõ ràng
rằng các quyết định được đưa ra trong buồng kín có thể phản tác dụng như thế
nào. Putin đã thất bại trong nỗ lực chinh phục Ukraine, một nhiệm vụ mà ông có
thể biết là bất khả thi, nếu chính phủ của ông được thiết kế để đưa ra những
đánh giá trung thực. Đối với những người làm việc trong lĩnh vực quân sự, rõ
ràng là lực lượng vũ trang Nga không hùng mạnh đến mức như phương Tây lo sợ – một
phần là vì những trừng phạt kinh tế mà phương Tây thực hiện sau khi Nga chiếm
Crimea năm 2014 đã phát huy hiệu quả hơn mức mà các nhà hoạch định chính sách
nhận ra.
Cuộc xâm lược của Điện Kremlin đã củng cố NATO,
một thực thể mà nó được thiết kế để làm bẽ mặt, và dẫn đến các lệnh trừng phạt
đủ mạnh để khiến nền kinh tế Nga phải thu hẹp. Nhưng các chế độ phát xít thường
chính danh hoá bằng cách thực thi quyền lực, hơn là bằng cách mang lại lợi ích
kinh tế. Putin quá hung hăng và xa rời thực tế đến mức suy thoái cũng khó mà
ngăn cản ông ta. Để biện minh cho sự cai trị của mình, Putin muốn giành được
chiến thắng vĩ đại mà ông đã hứa, và tin rằng mình có thể đạt được điều đó. Nếu
ông đồng ý ngừng bắn, đó chỉ là để cho quân đội Nga nghỉ ngơi trước khi tiếp tục
chiến đấu. Nếu ông giành chiến thắng ở Ukraine, Putin có thể sẽ chuyển sang tấn
công một quốc gia hậu Xô Viết khác, chẳng hạn như Moldova, nơi Moscow đã chống
lưng cho một khu vực ly khai.
Vì thế, chỉ có một cách để ngăn chặn nhà độc
tài Nga, và đó là thực hiện điều mà Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Lloyd Austin đã đề
xuất vào tháng 4: làm Nga “suy yếu đến mức họ không thể làm những điều mà họ đã
làm khi xâm lược Ukraine.” Nghe như một mục tiêu xa vời. Tuy nhiên, quân đội
Nga về cơ bản đã bị suy yếu và nước này đã mất rất nhiều binh sĩ giỏi nhất của
mình. Với sự hỗ trợ mạnh mẽ từ NATO, Ukraine có khả năng đánh bại Nga ở phía
đông và phía nam, giống như cách họ đã làm ở phía bắc.
Nếu bị đánh bại, Putin sẽ đối mặt với tình thế
nguy hiểm ở quê nhà. Ông sẽ phải giải thích cho giới tinh hoa và quần chúng lý
do tại sao ông lại phản bội kỳ vọng của họ. Ông sẽ phải giải thích cho gia đình
của những người lính đã chết vì sao họ lại bỏ mạng mà không mang về được gì. Và
do áp lực gia tăng từ các lệnh trừng phạt, ông sẽ phải làm tất cả những việc đó
vào thời điểm mà hoàn cảnh của người Nga thậm chí còn tồi tệ hơn hiện tại. Ông
có thể thất bại trong nhiệm vụ này, bị chống đối trên diện rộng và bị gạt sang
bên lề. Ông có thể tìm kiếm một kẻ làm vật tế thần cho mình, hoặc bị lật đổ bởi
các cố vấn và cấp phó mà ông đe dọa sẽ thanh trừng. Dù bằng cách nào, nếu Putin
phải ra đi, nước Nga sẽ có cơ hội tái thiết thực sự — và cuối cùng từ bỏ ảo tưởng
về sự vĩ đại.
NHỮNG GIẤC MƠ HÃO
HUYỀN
Tôi sinh năm 1980 trong một gia đình thuộc tầng
lớp trung lưu của giới trí thức Liên Xô. Cha tôi là một nhà kinh tế tại Bộ Ngoại
thương, và mẹ tôi dạy tiếng Anh tại Học viện Nhà nước Moscow về Quan hệ Đối ngoại.
Bà là con gái của một vị tướng chỉ huy một sư đoàn súng trường trong Thế chiến
II và đã được công nhận là “Anh hùng Liên Xô.”
Chúng tôi sống trong một căn hộ lớn ở Moscow
mà nhà nước tặng cho ông tôi sau chiến tranh, và chúng tôi có những cơ hội mà
phần lớn cư dân Liên Xô không có. Cha tôi được bổ nhiệm một vị trí tại một công
ty liên doanh Liên Xô-Thụy Sĩ, nhờ thế mà cả nhà tôi đã sống ở Thụy Sĩ vào năm
1984-1985. Đối với cha mẹ tôi, giai đoạn đó là một bước ngoặt. Họ đã trải nghiệm
cảm giác sống ở một đất nước giàu có, với đủ loại tiện nghi – hàng tạp hóa, dịch
vụ nha khoa chất lượng tốt – mà Liên Xô không có.
Là một nhà kinh tế học, cha tôi đã nhận thức
được các vấn đề về cơ cấu của Liên Xô. Nhưng việc sống ở Tây Âu khiến ông và mẹ
tôi đặt ra câu hỏi sâu hơn về hệ thống của nước mình, và họ đã rất phấn khích
khi Mikhail Gorbachev phát động perestroika
vào năm 1985. Hầu hết người dân Liên Xô có lẽ cũng thấy vậy. Người ta không cần
phải sống ở Tây Âu thì mới nhận ra rằng các cửa hàng ở Liên Xô chỉ cung cấp một
số lượng hạn chế các sản phẩm chất lượng thấp, chẳng hạn như những đôi giày khi
xỏ chân vào sẽ rất đau. Người dân Liên Xô biết chính phủ đang nói dối khi họ
tuyên bố dẫn đầu “nhân loại tiến bộ”.
Nhiều công dân Liên Xô tin rằng phương Tây sẽ
giúp đỡ đất nước mình khi họ chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Nhưng đó
chỉ là thứ hy vọng ngây thơ. Phương Tây đã không cung cấp cho Liên Xô số lượng
viện trợ mà nhiều cư dân của nước này – và một số nhà kinh tế Mỹ nổi tiếng –
cho là cần thiết để giải quyết những thách thức kinh tế to lớn của đất nước.
Thay vào đó, phương Tây khuyến khích Điện Kremlin nhanh chóng dỡ bỏ các biện
pháp kiểm soát giá cả, và nhanh chóng tư nhân hóa các nguồn lực của nhà nước. Một
nhóm nhỏ đã trở nên cực kỳ giàu có trong quá trình này bằng cách chiếm đoạt tài
sản công. Nhưng đối với hầu hết người Nga, cái gọi là liệu pháp sốc đã dẫn đến
tình trạng bần cùng hóa. Siêu lạm phát xảy ra và tuổi thọ trung bình giảm xuống.
Đất nước đúng là đã trải qua một thời kỳ dân chủ hóa, nhưng phần lớn công chúng
đã đánh đồng các quyền tự do mới với cảnh khốn cùng. Kết quả là địa vị của
phương Tây ở Nga bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Hình ảnh của phương Tây tiếp tục sứt mẻ sau
chiến dịch nhắm vào Serbia của NATO năm 1999. Đối với Nga, các vụ không kích
này không phải là hoạt động để bảo vệ người thiểu số Albania, mà là hành động
gây hấn của một cường quốc đối với một nạn nhân nhỏ bé. Tôi còn nhớ rất rõ cảnh
mình đi ngang qua Đại sứ quán Mỹ ở Moscow một ngày sau khi một đám đông tấn
công toà nhà, và nhìn thấy sơn đã bị tạt lên tường.
Là con của những bậc cha mẹ thuộc tầng lớp
trung lưu — cha tôi rời công chức vào năm 1991 và bắt đầu một công việc kinh
doanh nhỏ thành công — tôi đã trải qua thập niên hỗn loạn đó chỉ một cách gián
tiếp. Thời niên thiếu của tôi rất bình yên, và tương lai của tôi có lẽ cũng dễ
đoán. Tôi trở thành sinh viên tại trường đại học nơi mẹ tôi giảng dạy, và đặt mục
tiêu làm việc trong lĩnh vực quốc tế như cha tôi. Tôi được hưởng lợi khi đến
trường vào thời điểm mà người Nga còn cởi mở. Các giáo sư khuyến khích chúng
tôi đọc từ nhiều nguồn khác nhau, kể cả một số nguồn trước đây đã bị cấm. Chúng
tôi đã tổ chức các cuộc tranh luận trong lớp. Vào mùa hè năm 2000, tôi hào hứng
đến Bộ Ngoại giao để thực tập, sẵn sàng bắt tay vào công việc mà tôi hy vọng sẽ
dạy cho tôi biết về thế giới.
Thực tế
đã đi ngược lại những gì tôi mong đợi. Thay vì làm việc với những bậc tinh hoa
trong những bộ vest kiểu cách — hình mẫu của nhà ngoại giao trong các bộ phim
Liên Xô — tôi đã được hướng dẫn bởi một tập hợp những ông chú trung niên mệt mỏi,
những người luôn làm các nhiệm vụ không hào hứng một cách lề mề, chẳng hạn như
soạn thảo bài phát biểu cho các quan chức cấp cao hơn. Trong phần lớn thời
gian, họ còn chẳng buồn làm việc. Họ chỉ ngồi hút thuốc, đọc báo, và nói về kế
hoạch cuối tuần của mình. Nhiệm vụ thực tập của tôi chủ yếu là đi nhận báo và
mua đồ ăn nhẹ cho họ.
Nhưng tôi vẫn quyết tham gia vào Bộ. Tôi háo hức
tự mình kiếm tiền, và tôi vẫn hy vọng có thể tìm hiểu thêm về những nơi khác bằng
cách đi xa khỏi Moscow. Khi được nhận vào năm 2002 để làm Trợ lý Tùy viên tại Đại
sứ quán Nga ở Campuchia, tôi đã rất vui. Tôi sẽ có cơ hội sử dụng kỹ năng tiếng
Khmer và kiến thức về Đông Nam Á của mình.
Vì Campuchia nằm ở vùng ngoại vi về lợi ích của
Nga nên tôi có rất ít việc phải làm. Dù vậy, sinh sống ở nước ngoài vẫn là một
sự nâng cấp so với sống ở Moscow. Các nhà ngoại giao làm việc bên ngoài nước
Nga kiếm được nhiều tiền hơn so với những người sống trong nước. Nhân vật số
hai của Đại sứ quán, Viacheslav Loukianov, đánh giá cao những cuộc thảo luận cởi
mở và khuyến khích tôi bảo vệ ý kiến của mình. Thái độ của chúng tôi đối với
phương Tây cũng khá giống nhau. Bộ Ngoại giao Nga luôn có khuynh hướng chống Mỹ
– một đặc điểm kế thừa từ thời Liên Xô – nhưng khuynh hướng này không quá áp đảo.
Các đồng nghiệp và tôi không nghĩ nhiều về NATO, và nếu có nghĩ về họ, chúng
tôi thường coi tổ chức này như một đối tác. Một buổi tối nọ, tôi đi uống bia
cùng một nhân viên đại sứ quán tại một quán bar dưới tầng hầm. Ở đó, chúng tôi
tình cờ gặp một quan chức Mỹ, người đã mời chúng tôi uống rượu với anh ta. Ngày
nay, một cuộc gặp gỡ như vậy sẽ cực kỳ căng thẳng, nhưng vào thời điểm đó, đó
là cơ hội để xây dựng tình bạn.
Tuy nhiên, ngay cả khi đó, rõ ràng là văn hóa
trong chính phủ Nga không hề khuyến khích tư duy độc lập — dù Loukianov đã làm
điều ngược lại. Một ngày nọ, tôi được gọi đến gặp viên chức số ba của đại sứ
quán, một nhà ngoại giao trung niên, trầm tính, từng tham gia Bộ Ngoại giao thời
Liên Xô. Ông đưa cho tôi tin nhắn trong một bức điện từ Moscow, và yêu cầu đưa
nội dung đó vào một tài liệu mà chúng tôi sẽ trao cho chính quyền Campuchia.
Khi nhìn thấy vài lỗi đánh máy, tôi nói với ông rằng mình sẽ sửa chúng. “Đừng
làm vậy!” ông gắt lên. “Chúng ta đã nhận điện này trực tiếp từ Moscow. Họ biết
rõ hơn. Dù có sai sót thì cũng không đến lượt chúng ta sửa.” Sự việc đó là biểu
tượng cho điều sẽ trở thành xu hướng ngày càng tăng trong Bộ Ngoại giao Nga: sự
phục tùng không nghi ngờ đối với các nhà lãnh đạo.
NHỮNG KẺ CHỈ BIẾT
VÂNG LỜI
Ở Nga, thập niên đầu tiên của thế kỷ 21 là một
thập niên tràn trề hy vọng. Mức thu nhập bình quân đầu người và mức sống của
người dân ngày càng tăng. Putin, người đảm nhận chức vụ tổng thống vào đầu
thiên niên kỷ mới, đã hứa hẹn sẽ chấm dứt sự hỗn loạn của những năm 1990.
Tuy nhiên, nhiều người Nga dần cảm thấy mệt mỏi
với Putin ngay từ những năm 2000-2009. Hầu hết các trí thức coi hình ảnh lãnh đạo
cứng rắn của ông là một hình ảnh từ quá khứ không được hoan nghênh, và đã có rất
nhiều trường hợp tham nhũng trong nhóm quan chức cấp cao của chính phủ. Putin
phản ứng với cuộc điều tra về chính quyền của mình bằng cách ngăn chặn quyền tự
do ngôn luận. Vào cuối nhiệm kỳ đầu tiên, ông đã nắm quyền kiểm soát cả ba đài
truyền hình chính của Nga.
Tuy nhiên, trong Bộ Ngoại giao, những động
thái ban đầu của Putin lại không gây bất đồng. Ông đã bổ nhiệm Lavrov làm Ngoại
trưởng vào năm 2004, một quyết định mà chúng tôi hoan nghênh. Lavrov được biết
đến là người rất thông minh và có kinh nghiệm ngoại giao dày dạn, với thành
tích xây dựng mối quan hệ lâu dài với các quan chức nước ngoài. Cả Putin và
Lavrov ngày càng trở nên đối đầu với NATO, nhưng những thay đổi trong hành vi của
họ là rất nhỏ. Nhiều nhà ngoại giao đã không để ý đến điều đó, kể cả tôi.
Tuy nhiên, khi nhìn lại, rõ ràng là Moscow khi
đó đã bắt đầu đặt nền móng cho dự án đế quốc của Putin – đặc biệt là ở Ukraine.
Điện Kremlin ngày càng trở nên ám ảnh với nước láng giềng kể từ sau Cách mạng
Cam năm 2004-2005, khi hàng trăm nghìn người biểu tình ngăn cản ứng viên thân
Nga trở thành tổng thống sau cuộc bầu cử mà nhiều người cho là gian lận. Nỗi ám
ảnh này đã được phản ánh trong các chương trình truyền hình chính trị lớn của
Nga, khi họ bắt đầu dành khung giờ vàng để đưa tin về Ukraine, bình luận về những
nhà chức trách ‘bài Nga’ ở Ukraine. Trong 16 năm tiếp theo, ngay trước thời điểm
xảy ra xâm lược, người Nga đã nghe các đài truyền hình mô tả Ukraine là một quốc
gia xấu xa, bị Mỹ kiểm soát, chuyên áp bức khối dân nói tiếng Nga. (Putin dường
như không thể tin rằng các quốc gia có thể thực sự hợp tác với nhau, và ông cho
rằng hầu hết các đối tác thân cận nhất của Washington thực ra chỉ là những con
rối của họ — bao gồm cả các thành viên còn lại của NATO).
Trong khi đó, Putin tiếp tục tìm cách củng cố
quyền lực ở quê nhà. Hiến pháp Nga giới hạn tổng thống chỉ được nắm quyền hai
nhiệm kỳ liên tiếp, nhưng vào năm 2008, Putin đã lập ra một kế hoạch để duy trì
quyền kiểm soát của mình: ông sẽ ủng hộ đồng minh là Dmitry Medvedev tranh cử tổng
thống, nếu Medvedev hứa cho Putin làm thủ tướng. Cả hai người đàn ông đã làm
đúng thỏa thuận này. Suốt vài tuần đầu tiên trong nhiệm kỳ tổng thống của
Medvedev, những thành viên của Bộ Ngoại giao chúng tôi thậm chí còn không biết
mình nên gửi báo cáo cho ai trong số hai người này. Trên cương vị tổng thống,
Medvedev được giao trọng trách chỉ đạo chính sách đối ngoại theo hiến pháp,
nhưng mọi người đều hiểu rằng Putin mới là người nắm quyền lực đằng sau ngai
vàng.
Cuối cùng, chúng tôi đã báo cáo cho Medvedev.
Quyết định này là một trong số những diễn biến khiến tôi nghĩ rằng vị tổng thống
mới của Nga có lẽ không phải là nhân vật ‘thế thân’ đơn thuần. Medvedev đã thiết
lập quan hệ nồng ấm với Tổng thống Mỹ Barack Obama, gặp gỡ các nhà lãnh đạo
doanh nghiệp Mỹ, và hợp tác với phương Tây ngay cả khi hành động đó dường như
mâu thuẫn với lợi ích của Nga. Ví dụ, khi phiến quân cố gắng lật đổ chế độ
Muammar al-Qaddafi ở Libya, Quân đội và Bộ Ngoại giao Nga đã phản đối nỗ lực của
NATO nhằm thiết lập một vùng cấm bay tại Lybia. Qaddafi vốn dĩ có quan hệ tốt với
Moscow, và đất nước chúng tôi có các khoản đầu tư vào lĩnh vực dầu mỏ của
Libya, vì vậy Bộ Ngoại giao Nga không muốn phe nổi dậy giành chiến thắng. Tuy
nhiên, khi Pháp, Lebanon và Vương quốc Anh – được Mỹ hậu thuẫn – trình kiến nghị
trước Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc nhằm cho phép thiết lập vùng cấm bay,
Medvedev đã yêu cầu chúng tôi bỏ phiếu trắng thay vì phủ quyết. (Có bằng chứng
cho thấy Putin dường như không đồng ý với quyết định này.)
Công nhân gắn áp
phích bầu cử có hình Putin và Medvedev lên một tòa nhà văn phòng ở Krasnodar,
Nga, tháng 11/2011 © Eduard Korniyenko / Reuters
Sang năm 2011, Putin chính thức công bố kế hoạch
tái tranh cử tổng thống. Medvedev – miễn cưỡng – bước sang một bên và nhận chức
Thủ tướng. Những người theo chủ nghĩa tự do đã phẫn nộ. Nhiều người kêu gọi cử
tri Nga hãy tẩy chay bầu cử hoặc cố tình làm hỏng lá phiếu của họ. Nhóm phản đối
này chỉ chiếm một phần nhỏ dân số Nga, nên những quan điểm bất đồng của họ đã
không đe dọa nghiêm trọng đến kế hoạch của Putin. Nhưng sự đối lập dù được thể
hiện một cách hạn chế cũng khiến Moscow lo lắng. Do đó, Putin đã nỗ lực thúc đẩy
cử tri đi bầu trong cuộc bầu cử quốc hội năm 2011, để làm cho kết quả bầu cử trông
có vẻ hợp pháp hơn – đây là một trong những nỗ lực nhằm thu hẹp không gian
chính trị ngăn cách người dân với chính quyền của ông. Nỗ lực này đã được mở rộng
sang Bộ Ngoại giao. Điện Kremlin đã giao cho đại sứ quán của tôi, và tất cả các
đại sứ quán khác, nhiệm vụ kêu gọi người Nga ở nước ngoài bỏ phiếu.
Lúc đó, tôi đang làm việc ở Mông Cổ. Khi cuộc
bầu cử diễn ra, tôi đã bỏ phiếu cho một đảng không phải của Putin, lo lắng rằng
nếu tôi không bỏ phiếu, lá phiếu của tôi sẽ được người khác bỏ nhân danh tôi,
cho Đảng Nước Nga Thống nhất của Putin. Nhưng vợ tôi, người làm việc tại đại sứ
quán với tư cách là chánh văn phòng, đã tẩy chay bầu cử. Cô ấy là một trong ba
nhân viên đại sứ quán không tham gia bỏ phiếu.
Vài ngày sau, lãnh đạo đại sứ quán xem qua
danh sách các nhân viên bỏ phiếu trong cuộc bầu cử. Khi được nêu tên, hai người
không bỏ phiếu còn lại nói rằng họ không biết rằng mình cần phải bỏ phiếu, và hứa
sẽ làm như vậy trong cuộc bầu cử tổng thống sắp tới. Tuy nhiên, vợ tôi nói rằng
cô ấy không muốn bỏ phiếu, và nhấn mạnh đó là quyền hiến định của cô ấy. Đáp lại,
viên chức số hai của đại sứ quán đã tổ chức một chiến dịch chống lại cô. Ông ta
hét vào mặt vợ tôi, buộc tội cô ấy vi phạm kỷ luật, và nói rằng cô ấy sẽ bị gắn
mác “không đáng tin cậy về mặt chính trị.” Ông ta mô tả vợ tôi là “đồng phạm” của
Alexei Navalny, một nhà lãnh đạo đối lập nổi tiếng. Sau khi vợ tôi tiếp tục
không bỏ phiếu trong cuộc bầu cử tổng thống, đại sứ đã không nói chuyện với cô ấy
suốt một tuần. Còn cấp phó của ông ấy đã không nói chuyện với vợ tôi trong hơn
một tháng.
(Còn tiếp một phần)
*****
Nguồn
gốc hành vi sai trái của Nga (P2)
Boris
Bondarev - Foreign
Affairs
Nguyễn Thị Kim Phụng,
biên dịch
https://nghiencuuquocte.org/2022/11/09/nguon-goc-hanh-vi-sai-trai-cua-nga-p2/
BIẾN CHẤT
Vị trí tiếp theo của tôi là trong Cục Chống phổ
biến và Kiểm soát vũ khí của Bộ Ngoại giao Nga. Ngoài các vấn đề liên quan đến
vũ khí hủy diệt hàng loạt, tôi được giao tập trung vào kiểm soát xuất khẩu vũ
khí – quản lý việc chuyển giao quốc tế hàng hóa và công nghệ có thể được sử dụng
cho mục đích quốc phòng và dân sự. Đó là một công việc giúp tôi có cái nhìn rõ
ràng hơn về quân đội Nga, ngay khi vai trò của nó vừa mới được nâng cao.
Tháng 03/2014, Nga sáp nhập Crimea và bắt đầu
kích động nổi dậy ở Donbas. Khi tin tức về việc sáp nhập được công bố, tôi đang
có mặt tại Hội nghị Kiểm soát Xuất khẩu Vũ khí Quốc tế ở Dubai. Trong giờ nghỉ
trưa, đồng nghiệp từ các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ tiếp cận tôi, họ đều muốn
biết chuyện gì đang xảy ra. Tôi đã nói với họ sự thật: “Tôi cũng chỉ biết nhiều
bằng các anh thôi.” Đó không phải là lần cuối cùng Moscow đưa ra các quyết định
chính sách đối ngoại lớn mà không thông báo cho các nhà ngoại giao của mình.
Trong các đồng nghiệp của tôi, phản ứng đối với
vụ sáp nhập Crimea trải dài từ ý kiến phản đối đến tích cực. Ukraine đang dần
hướng về phương Tây, nhưng Crimea là một trong số ít những nơi mà quan điểm lịch
sử của Putin là có cơ sở: Bán đảo Crimea, được chuyển giao trong nội bộ Liên Xô
từ Nga sang Ukraine vào năm 1954, về mặt văn hóa gần gũi với Moscow hơn là
Kyiv. (Hơn 75% dân số của khu vực này có tiếng mẹ đẻ là tiếng Nga.) Cuộc tiếp
quản nhanh chóng và không đổ máu ở Crimea chỉ bị phản đối rất ít và thậm chí
còn rất được ủng hộ ở Nga. Ngoại trưởng Lavrov đã sử dụng nó như một cơ hội để
thể hiện bản thân, khi ông có một bài phát biểu đổ lỗi cho “những người theo chủ
nghĩa dân tộc cực đoan” ở Ukraine về hành vi của Nga. Tôi và nhiều đồng nghiệp
lại cho rằng sẽ mang tính chiến lược hơn nếu Putin biến Crimea thành một quốc
gia độc lập, vì chúng tôi có thể thuyết phục mọi người rằng quyết định đó ít
gây hấn hơn. Tuy nhiên, sự tế nhị không có trong từ điển của Putin. Một Crimea
độc lập sẽ không mang lại cho ông vinh quang khi đòi lại những vùng đất vốn dĩ
“thuộc về” Nga.
Việc tạo ra một phong trào ly khai trong nội bộ
vùng Donbas đang bị chiếm đóng ở miền đông Ukraine là điều khá khó hiểu. Động
thái này, diễn ra vào khoảng đầu năm 2014, đã không được người dân Nga ủng hộ
nhiều như việc sáp nhập Crimea, và còn gây ra một làn sóng phản đối quốc tế
khác. Nhiều nhân viên của Bộ tỏ ra khó chịu về chiến dịch của quân Nga, nhưng
không ai dám nhắc đến sự khó chịu này trước mặt Điện Kremlin. Các đồng nghiệp
và tôi tin rằng Putin đã chiếm Donbas để khiến Ukraine bị phân tâm, ngăn nước
này tạo ra mối đe dọa quân sự nghiêm trọng đối với Nga, cũng như ngăn nước này
hợp tác với NATO. Tuy nhiên, có thể có vài nhà ngoại giao đã nói với Putin rằng,
bằng cách hỗ trợ cho phe ly khai, ông thực ra đã đẩy Kyiv đến gần hơn với kẻ
thù của ông.
Công việc ngoại giao của tôi với các phái đoàn
phương Tây vẫn tiếp tục sau vụ sáp nhập Crimea và chiến dịch Donbas. Đôi khi,
tôi cảm giác như chẳng có gì thay đổi. Tôi vẫn có quan hệ tích cực với các đồng
nghiệp từ Mỹ và Châu Âu khi cùng cộng tác về vấn đề kiểm soát vũ khí. Nga khi
đó đã bị ảnh hưởng bởi các lệnh trừng phạt, nhưng tác động của chúng đối với nền
kinh tế Nga còn hạn chế. Lavrov trả lời trong một cuộc phỏng vấn năm 2014 rằng
“Các lệnh trừng phạt là một dấu hiệu của sự khó chịu. Chúng không phải là công
cụ của các chính sách nghiêm túc.”
Nhưng với tư cách là một nhân viên ngoại giao
phụ trách mảng xuất khẩu, tôi có thể thấy rằng các hạn chế kinh tế của phương
Tây đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho Nga. Ngành công nghiệp quốc phòng
Nga phụ thuộc rất nhiều vào các thành phần và sản phẩm do phương Tây sản xuất.
Nó sử dụng các công cụ của Mỹ và châu Âu để bảo dưỡng động cơ và động cơ máy
bay không người lái. Nó dựa vào các nhà sản xuất phương Tây để chế tạo các bộ
phận của thiết bị điện tử chống bức xạ, vốn rất quan trọng đối với hệ thống vệ
tinh mà các quan chức Nga sử dụng để thu thập thông tin tình báo, liên lạc, và
thực hiện các cuộc tấn công chính xác. Nhiều nhà sản xuất Nga đã làm việc với
các công ty Pháp để mua các cảm biến cần thiết cho máy bay của chúng tôi. Ngay
cả một số loại vải được sử dụng trong thiết bị bay hạng nhẹ, chẳng hạn như bóng
bay thời tiết, cũng được sản xuất bởi các doanh nghiệp phương Tây. Các lệnh trừng
phạt đột ngột cắt đứt khả năng tiếp cận của chúng tôi với các sản phẩm này và
khiến quân đội của chúng tôi yếu hơn so với những gì phương Tây tin. Nhóm của
tôi biết rõ những tổn thất này sẽ làm suy yếu sức mạnh của Nga như thế nào,
nhưng chiến dịch tuyên truyền của Bộ Ngoại giao đã khiến Điện Kremlin không
phát hiện ra điều đó. Hậu quả của sự thiếu hiểu biết này đang hiển hiện ở
Ukraine: các lệnh trừng phạt là một lý do khiến Nga gặp nhiều khó khăn trong cuộc
xâm lược của mình.
Năng lực quân sự suy giảm đã không ngăn được Bộ
Ngoại giao Nga ngày càng trở nên hiếu chiến. Tại các hội nghị thượng đỉnh hoặc
trong các cuộc họp với các quốc gia khác, các nhà ngoại giao Nga ngày càng dành
nhiều thời gian để tấn công Mỹ và các đồng minh. Ví dụ, nhóm của tôi đã tổ chức
nhiều cuộc họp song phương với Nhật Bản, tập trung vào việc hai bên có thể hợp
tác như thế nào, và hầu hết những cuộc họp này đều là cơ hội để nói với Nhật Bản
rằng “Đừng quên ai đã thả bom hạt nhân lên đất nước các ông.”
Tôi đã cố gắng quản lý thiệt hại. Khi các sếp
của tôi soạn ra những nhận xét hoặc báo cáo mang tính hiếu chiến, tôi thường cố
gắng thuyết phục họ làm dịu giọng điệu của mình, và cảnh báo không nên dùng
ngôn ngữ hiếu chiến và không nên lạm dụng chiến thắng của Nga trước Đức Quốc
Xã. Nhưng nội dung các tuyên bố của chúng tôi – cả nội bộ và với bên ngoài – đã
dần trở nên thù địch hơn khi sếp của chúng tôi chỉnh sửa chúng một cách hung
hăng. Tuyên truyền kiểu Liên Xô đã hoàn toàn trở lại với đường lối ngoại giao của
Nga.
ẢO TƯỞNG
Ngày 04/03/2018, cựu điệp viên hai mang người
Nga Sergei Skripal và con gái Yulia của ông đã bị đầu độc suýt chết tại nhà
riêng của họ ở Vương quốc Anh. Chỉ mất mười ngày để các nhà điều tra Anh xác định
Nga là thủ phạm. Ban đầu, tôi không tin vào kết luận này. Skripal, một cựu điệp
viên Nga, từng bị kết án vì tiết lộ bí mật quốc gia cho chính phủ Anh, và đã đi
tù vài năm trước khi được thả tự do trong một vụ trao đổi điệp viên. Tôi không
hiểu tại sao ông ta vẫn còn là mối quan tâm của đất nước tôi. Nếu Moscow muốn
Skripal chết, hẳn họ đã giải quyết khi ông ta còn ở trên đất Nga.
Sự hoài nghi của tôi đã trở nên hữu ích. Phòng
của tôi chịu trách nhiệm về các vấn đề liên quan đến vũ khí hóa học, vì vậy
chúng tôi đã dành nhiều thời gian để lập luận rằng người Nga không phải chịu
trách nhiệm về vụ đầu độc – điều mà tôi đã làm với niềm tin vững chắc. Tuy
nhiên, Bộ Ngoại giao càng từ chối trách nhiệm, niềm tin của tôi lại càng lung
lay. Chúng tôi đã tuyên bố rằng vụ đầu độc không phải do Nga thực hiện, mà có sự
nhúng tay của các nhà chức trách Anh bài Nga với mục đích huỷ hoại danh tiếng
quốc tế của chúng tôi. Tất nhiên, Anh hoàn toàn không có lý do gì để muốn
Skripal chết, vì vậy những tuyên bố của Moscow không giống một lập luận thực tế,
mà giống một nỗ lực kém cỏi nhằm chuyển sự chú ý từ Nga sang phương Tây – một mục
tiêu phổ biến trong tuyên truyền của Điện Kremlin. Cuối cùng, tôi đã phải chấp
nhận sự thật: vụ đầu độc là tội ác do chính quyền Nga gây ra.
Nhiều người Nga vẫn phủ nhận việc Moscow phải
chịu trách nhiệm. Tôi biết, rất khó để tin rằng đất nước của mình đang được điều
hành bởi những tên tội phạm sẵn sàng giết người để trả thù. Nhưng những lời nói
dối của Nga không thuyết phục được các quốc gia khác, những nước đã quyết liệt
bỏ phiếu bác bỏ nghị quyết do Nga đề xuất tại Tổ chức Cấm Vũ khí Hóa học (OPCW)
nhằm yêu cầu hủy bỏ cuộc điều tra của tổ chức liên chính phủ này về vụ tấn
công. Chỉ có Algeria, Azerbaijan, Trung Quốc, Iran, và Sudan đứng về phía
Moscow. Sau cùng, cuộc điều tra kết luận rằng gia đình Skripal đã bị đầu độc bởi
Novichok: một chất độc thần kinh do Nga sản xuất.
Các đại biểu Nga đáng lẽ nên thành thật truyền
đạt thất bại này đến cấp trên của họ. Thay vào đó, họ đã làm điều ngược lại.
Quay về Moscow, tôi đã đọc được những bức điện dài lê thê từ phái đoàn Nga về
cách họ đã đánh bại nhiều động thái “chống Nga,” “vô lý” và “vô căn cứ” của các
nước phương Tây. Việc nghị quyết của Nga đã bị bác bỏ chỉ được tóm gọn trong một
dòng báo cáo.
Lúc đầu, tôi chỉ đơn giản là khó chịu với những
báo cáo này. Nhưng ngay sau đó, tôi nhận ra chúng đã được tiếp nhận rất nghiêm
túc ở các cấp cao nhất của Bộ. Những nhà ngoại giao viết những câu chuyện hư cấu
kiểu này đã nhận được sự tán thưởng từ cấp trên và liên tục thăng tiến trong sự
nghiệp. Moscow muốn được nghe những gì họ hy vọng là sự thật – chứ không phải
những gì thực sự xảy ra. Các đại sứ Nga ở khắp mọi nơi hiểu rõ điều này, và họ
đã cạnh tranh nhau để gửi đi những bức điện với giọng điệu tán dương nhiều nhất.
Chiến dịch tuyên truyền thậm chí còn trở nên kỳ
quặc hơn sau khi Navalny bị đầu độc bằng Novichok vào tháng 8/2020. Những bức
điện gửi về khiến tôi phải sững sờ. Một người gọi các nhà ngoại giao phương Tây
là “thú đi săn trở thành kẻ bị săn.” Một người khác viết về “sự nghiêm túc và
không thể chối cãi trong các lập luận của chúng ta.” Người thứ ba nói về việc
các nhà ngoại giao Nga đã “dễ dàng dập tắt từ trong trứng nước những nỗ lực
đáng thương của phương Tây để cất lên tiếng nói của họ”.
Cách hành xử như vậy vừa thiếu chuyên nghiệp vừa
nguy hiểm. Một bộ ngoại giao lành mạnh được thiết kế để cung cấp cho các nhà
lãnh đạo một cái nhìn toàn diện về thế giới, từ đó giúp họ có thể đưa ra các
quyết định sáng suốt. Dù các nhà ngoại giao Nga vẫn đưa những thông tin không
có lợi vào báo cáo của họ, nhưng để cấp trên không phát hiện ra thiếu sót, họ sẽ
chôn vùi những sự thật này trong hàng núi luận điệu tuyên truyền. Chẳng hạn, một
bức điện năm 2021 có thể chứa một dòng giải thích rằng quân đội Ukraine đã mạnh
hơn so với hồi năm 2014, nhưng ngay cả lời thừa nhận đó cũng bị ẩn sau những lời
lẽ dài dòng ca ngợi lực lượng vũ trang hùng mạnh của Nga.
Sự xa rời thực tế thậm chí còn trở nên cực
đoan hơn vào tháng 1/2022, khi các nhà ngoại giao Mỹ và Nga gặp nhau tại Văn
phòng Đại sứ Mỹ ở Geneva để thảo luận về một hiệp ước do Moscow đề xuất nhằm
tái tổ chức NATO. Bộ Ngoại giao Nga khi đó ngày càng tập trung vào nguy cơ từ NATO,
còn quân đội Nga đang tập hợp tại biên giới với Ukraine. Tôi được giao nhiệm vụ
điều phối liên lạc cho cuộc họp – ngồi trực điện thoại để sẵn sàng hỗ trợ nếu
đoàn đại biểu của chúng tôi cần bất cứ điều gì từ phái đoàn Nga tại địa phương.
Tôi đã nhận được một bản sao các đề xuất của Nga. Đề xuất đó thực sự gây hoang
mang, chứa đầy những điều khoản rõ ràng là không thể chấp nhận được đối với
phương Tây, ví dụ như yêu cầu NATO rút toàn bộ binh sĩ và vũ khí khỏi các quốc
gia gia nhập sau năm 1997, bao gồm Bulgaria, Cộng hòa Séc, Ba Lan và các nước
Baltic. Tôi cho rằng tác giả của nó hoặc đang đặt nền tảng cho chiến tranh, hoặc
không biết Mỹ hoặc Châu Âu hoạt động như thế nào — hoặc cả hai. Tôi đã trò chuyện
với các đại biểu của chúng tôi trong giờ nghỉ giải lao và họ cũng có vẻ bối rối.
Tôi đã hỏi sếp của mình về điều đó và ông cũng rất hoang mang. Không ai có thể
hiểu làm thế nào chúng tôi lại đưa cho người Mỹ một tài liệu yêu cầu NATO đóng
cửa vĩnh viễn với các thành viên mới. Cuối cùng, chúng tôi cũng biết được nguồn
gốc của tài liệu: nó đến thẳng từ Điện Kremlin. Và vì thế, không ai được đặt
câu hỏi.
Tôi vẫn hy vọng rằng các đồng nghiệp của mình
sẽ bày tỏ quan ngại khi nói chuyện riêng, thay vì chỉ bối rối về việc chúng tôi
đang làm. Nhưng nhiều người nói với tôi rằng họ hoàn toàn không có vấn đề gì với
những lời nói dối của Điện Kremlin. Đối với một số người, đây là cách để trốn
tránh trách nhiệm trước hành động của Nga; họ có thể giải thích hành vi của
mình bằng cách tự nói với bản thân và những người khác rằng họ chỉ đang tuân
theo mệnh lệnh. Tôi hiểu điều đó. Nhưng điều đáng lo ngại hơn là nhiều người thậm
chí còn tự hào về hành vi ngày càng hung hăng của đất nước chúng tôi. Một vài lần,
khi tôi cảnh báo các đồng nghiệp rằng hành động của họ quá thô bạo, không có lợi
cho Nga, họ đã nhắc đến lực lượng hạt nhân của chúng tôi. “Chúng ta là một cường
quốc,” một người nói với tôi. Các quốc gia khác, ông tiếp tục, “phải làm những
gì chúng ta nói.”
CHUYẾN TÀU ĐIÊN RỒ
Ngay cả sau hội nghị thượng đỉnh tháng 1, tôi
vẫn không tin rằng Putin sẽ phát động một cuộc chiến toàn diện. Ukraine vào năm
2022 rõ ràng là đoàn kết và thân phương Tây hơn so với năm 2014. Chẳng có ai ở
Ukraine lại mang hoa ra chào đón người Nga. Những tuyên bố mang tính đối đầu của
phương Tây về một cuộc xâm lược tiềm tàng của Nga cho thấy rõ rằng Mỹ và châu
Âu sẽ phản ứng mạnh mẽ. Thời gian làm việc trong lĩnh vực vũ khí và xuất khẩu
đã dạy tôi rằng quân đội Nga không có khả năng đè bẹp được nước láng giềng châu
Âu lớn nhất, và rằng ngoài Belarus, không một quốc gia bên ngoài nào có thể
cung cấp cho chúng tôi sự hỗ trợ có ý nghĩa. Tôi nghĩ rằng Putin biết điều này
– dù những kẻ nịnh hót đã che giấu sự thật khỏi mắt ông.
Cuộc xâm lược khiến quyết định nghỉ việc của
tôi trở nên dễ dàng về mặt đạo đức. Nhưng những vấn đề khác vẫn còn rất khó
khăn. Vợ tôi đang đến thăm tôi ở Geneva khi chiến tranh nổ ra – khi đó cô ấy vừa
nghỉ việc tại một hiệp hội công nghiệp có trụ sở tại Moscow – nhưng từ chức
công khai có nghĩa là cả tôi và vợ sẽ không được an toàn ở Nga. Do đó, hai vợ
chồng tôi nhất trí rằng cô ấy sẽ trở lại Moscow để mang theo chú mèo con của
chúng tôi trước khi tôi nộp đơn từ chức. Quá trình đó đã trở nên rất phức tạp,
kéo dài ba tháng. Chú mèo của chúng tôi, một chú mèo nhỏ đi lạc, cần phải bị
thiến và được tiêm phòng trước khi vợ tôi có thể đưa nó đến Thụy Sĩ, nhưng Liên
minh Châu Âu đã nhanh chóng cấm máy bay Nga. Để đi từ Moscow đến Geneva, vợ tôi
đã phải bắt ba chuyến bay, hai lần đi taxi, và thêm hai lần băng qua biên giới
Litva – cả hai lần đều đi bộ.
Trong khi đó, tôi chứng kiến các đồng nghiệp của
mình ủng hộ mọi mục tiêu của Putin. Trong những ngày đầu của cuộc chiến, hầu hết
trong số họ đều tự hào rạng rỡ. “Cuối cùng [cũng xảy ra chiến tranh]!” một người
thốt lên. “Giờ chúng ta sẽ cho người Mỹ thấy! Giờ thì họ sẽ biết ai mới là ông
chủ.” Sau một vài tuần, khi rõ ràng rằng cuộc tấn công chớp nhoáng vào Kyiv đã
thất bại, lời lẽ của họ bắt đầu hạ nhiệt, nhưng sự hiếu chiến vẫn còn đó. Một
quan chức là chuyên gia có uy tín về tên lửa đạn đạo nói với tôi rằng Nga cần
“gửi một đầu đạn hạt nhân đến ngoại ô Washington. …Người Mỹ sẽ bĩnh ra quần rồi
chạy đến bên chúng ta cầu xin hòa bình.” Ông có lẽ phần nào đang đùa. Nhưng người
Nga có xu hướng nghĩ rằng người Mỹ quá yếu đuối để có thể liều mạng vì bất cứ
điều gì, vậy nên khi tôi chỉ ra rằng một cuộc tấn công hạt nhân sẽ dẫn đến trả
đũa thảm khốc, ông ấy đã chế giễu, “Làm gì có chuyện đó.”
Có khoảng vài chục nhà ngoại giao đã lặng lẽ rời
khỏi Bộ Ngoại giao Nga. (Cho đến nay, tôi là người duy nhất công khai cắt đứt
liên hệ với Moscow.) Nhưng hầu hết các đồng nghiệp mà tôi coi là hiểu chuyện và
thông minh đều ở lại. “Chúng ta có thể làm gì?” một người hỏi. “Chúng ta là những
người nhỏ bé.” Ông đã từ bỏ mọi lý lẽ của mình. “Những người ở Moscow biết rõ
hơn,” ông nói. Những người khác thừa nhận tình hình điên rồ trong các cuộc trò
chuyện riêng tư, nhưng điều đó không được phản ánh trong công việc của họ. Họ
tiếp tục nói dối về sự hung bạo của người Ukraine. Tôi đã thấy các báo cáo hàng
ngày đề cập đến vũ khí sinh học của Ukraine, thứ vốn dĩ không tồn tại. Tôi đi bộ
quanh văn phòng của chúng tôi – cơ bản là một hành lang dài với các văn phòng
riêng cho từng nhà ngoại giao – và nhận thấy rằng ngay cả nhiều đồng nghiệp mà
tôi cho là thông minh cũng mở chương trình tuyên truyền tiếng Nga trên tivi của
họ cả ngày. Như thể họ đang cố gắng tự thấm nhuần tư tưởng đó.
Bản chất của công việc của chúng tôi chắc chắn
đã thay đổi. Trước tiên, quan hệ với các nhà ngoại giao phương Tây đã sụp đổ.
Chúng tôi đã ngừng thảo luận với họ về gần như mọi vấn đề; một số đồng nghiệp từ
châu Âu thậm chí còn chẳng buồn cất lời chào khi chúng tôi chạm mặt trong khuôn
viên Văn phòng Liên Hiệp Quốc. Thay vào đó, chúng tôi tập trung vào các liên hệ
với Trung Quốc, những người bày tỏ rằng họ “hiểu” những lo ngại về an ninh của
Nga, nhưng đã cẩn thận không bình luận về cuộc chiến. Chúng tôi cũng dành nhiều
thời gian hơn để làm việc với các thành viên khác của Tổ chức Hiệp ước An ninh
Tập thể — Armenia, Belarus, Kazakhstan, Kyrgyzstan, và Tajikistan — một khối gồm
các quốc gia mà sếp tôi vẫn hay gọi là NATO của riêng Nga. Sau khi xâm lược nổ
ra, nhóm của tôi đã tổ chức rất nhiều vòng tham vấn với các quốc gia này, lấy
chủ đề vũ khí sinh học và hạt nhân, nhưng chúng tôi không nói về chiến tranh.
Khi tôi trò chuyện với một nhà ngoại giao Trung Á về các phòng thí nghiệm vũ
khí sinh học được cho là đang ở Ukraine, ông cho đó là chuyện nực cười. Và tôi
đồng ý.
Vài tuần sau, tôi nộp đơn từ chức. Cuối cùng,
tôi đã không còn đồng lõa với một hệ thống tin rằng nó sở hữu một quyền lực thần
thánh để buộc nước láng giềng phải khuất phục.
SỐC VÀ TỈNH THỨC
Trong suốt cuộc chiến, các nhà lãnh đạo phương
Tây đã dần nhận thức sâu sắc về những thất bại của quân đội Nga. Nhưng họ dường
như không biết rằng chính sách đối ngoại của Nga cũng thất bại không kém. Nhiều
quan chức châu Âu đã nói về sự cần thiết của một giải pháp thương lượng cho cuộc
chiến ở Ukraine, và nếu quốc gia của họ cảm thấy mệt mỏi với việc gánh chịu chi
phí năng lượng và kinh tế liên quan đến việc hỗ trợ Kyiv, họ có thể thúc ép
Ukraine chấp nhận thỏa thuận. Đặc biệt, phương Tây có thể sẽ ép Kyiv chấp nhận
thỏa thuận nếu Putin mạnh tay đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân.
Nhưng chừng nào Putin còn nắm quyền, sẽ chẳng
có ai ở Moscow để thực sự đàm phán với Ukraine. Bộ Ngoại giao Nga không phải là
một bên đàm phán đáng tin cậy, cũng như bất kỳ bộ nào khác trong chính phủ Nga.
Tất cả đều là phần mở rộng của Putin và chương trình nghị sự của ông ta. Bất kỳ
lệnh ngừng bắn nào cũng chỉ tạo cơ hội cho Nga tái vũ trang trước khi tấn công
trở lại.
Chỉ có một thứ thực sự có thể ngăn cản Putin,
và đó là một thất bại toàn diện. Điện Kremlin có thể nói dối người Nga như họ
muốn và có thể ra lệnh cho các nhà ngoại giao của mình nói dối người khác.
Nhưng các binh sĩ Ukraine sẽ chẳng quan tâm đến kênh truyền hình nhà nước Nga.
Và rõ ràng, những thất bại của quân Nga không phải lúc nào cũng có thể giấu khỏi
mắt công chúng Nga, chẳng hạn như trong vài ngày của tháng 9, người Ukraine đã
chiếm lại được gần như toàn bộ tỉnh Kharkiv. Đáp lại, những nhân vật trên truyền
hình Nga bắt đầu than vãn về tổn thất. Những bình luận viên chủ chiến trên mạng
của Nga đã trực tiếp chỉ trích tổng thống. “Ông đang tổ chức một bữa tiệc hàng
tỷ rúp đấy,” một người viết trong một bài đăng trực tuyến được lan truyền rộng
rãi, chế nhạo Putin vì đã tham dự một sự kiện khai trương vòng đu quay trong
khi lực lượng Nga rút lui. “Chuyện gì đang xảy ra với ông vậy?”
Putin đã phản ứng với những tổn thất này – và
với những người chỉ trích ông – bằng cách đưa một lượng lớn người gia nhập quân
đội. (Moscow cho biết họ đang động viên khoảng 300.000 lính, nhưng con số thực
tế có thể cao hơn.) Nhưng về lâu dài, việc kêu gọi lính nhập ngũ sẽ không giải
quyết được vấn đề. Lực lượng vũ trang Nga có tinh thần chiến đấu thấp và trang
thiết bị kém, những vấn đề mà lệnh động viên sẽ không thể khắc phục được. Với sự
hỗ trợ quy mô lớn của phương Tây, quân đội Ukraine có thể gây ra những thất bại
nghiêm trọng hơn cho quân đội Nga, buộc họ phải rút lui khỏi các vùng lãnh thổ
khác. Có khả năng Ukraine cuối cùng sẽ giành lợi thế trước Nga tại các khu vực
của Donbas, nơi cả hai bên đã giao tranh kể từ năm 2014.
Một đứa trẻ ngồi
bên ngoài một tòa nhà bị hư hại ở Kyiv, tháng 02/2022 © Umit Bektas / Reuters
Nếu điều đó xảy ra, Putin sẽ nhận ra mình đang
bị dồn vào đường cùng. Ông có thể đáp trả thất bại bằng một cuộc tấn công hạt
nhân. Tuy nhiên, Tổng thống Nga vẫn còn đam mê cuộc sống xa hoa của mình, và
nên nhận ra rằng việc sử dụng vũ khí hạt nhân sẽ mở đường cho một cuộc chiến có
thể giết chết ông. (Còn nếu ông ấy không nhận ra, hy vọng cấp dưới của ông sẽ
không tuân theo mệnh lệnh tự sát đó.) Putin có thể ra lệnh tổng động viên – yêu
cầu gần như tất cả thanh niên Nga nhập ngũ – nhưng điều đó cũng chẳng có tác dụng
gì ngoài việc tạo ra một quãng nghỉ tạm thời. Và càng nhiều người Nga thiệt mạng
vì giao tranh, thì sự bất mãn trong nước đối với tổng thống Nga sẽ càng lớn.
Putin cuối cùng có thể sẽ rút lui, và để các nhà tuyên truyền Nga đổ lỗi cho những
người xung quanh ông ta về thất bại đáng xấu hổ, như những gì đã xảy ra sau thất
bại ở Kharkiv. Nhưng điều đó có thể thúc đẩy Putin thanh trừng các cộng sự của
mình, khiến các đồng minh thân cận nhất của ông gặp nguy hiểm. Kết quả có thể
là một cuộc đảo chính cung đình đầu tiên của Moscow kể từ khi Nikita Khrushchev
bị lật đổ vào năm 1964.
Nếu Putin bị lật đổ, tương lai của Nga sẽ vô
cùng bất định. Hoàn toàn có khả năng người kế nhiệm ông sẽ cố gắng tiếp tục cuộc
chiến, đặc biệt là khi các cố vấn chính của Putin đều xuất thân từ các cơ quan
an ninh. Nhưng không một ai ở Nga có được tầm vóc chính trị như ông, vì vậy đất
nước có thể sẽ bước vào thời kỳ bất ổn chính trị, thậm chí có thể rơi vào hỗn
loạn.
Các nhà phân tích nước ngoài có thể sẽ muốn
nhìn thấy Nga trải qua một cuộc khủng hoảng lớn trong nước. Nhưng họ nên suy
nghĩ kỹ trước khi mong muốn Nga sụp đổ – không chỉ vì điều đó sẽ khiến kho vũ
khí hạt nhân khổng lồ của Nga rơi vào bất ổn. Hầu hết người Nga đang sống trong
một không gian tinh thần khó khăn, gây ra bởi nghèo đói và những chương trình
tuyên truyền khổng lồ, gieo rắc lòng căm thù, sợ hãi, đồng thời tạo ra cảm giác
tự tôn nhưng bất lực. Nếu Nga tan rã, hoặc trải qua một trận ‘đại hồng thủy’
kinh tế và chính trị, đó sẽ là ngưỡng chịu đựng của họ. Người Nga có thể thống
nhất ủng hộ một nhà lãnh đạo khác thậm chí còn hiếu chiến hơn Putin, kích động
nội chiến, gây hấn với bên ngoài, hoặc cả hai.
Nếu Ukraine chiến thắng và Putin thất bại, điều
tốt nhất mà phương Tây có thể làm là đừng sỉ nhục. Thay vào đó, hãy làm điều
ngược lại: cung cấp hỗ trợ. Hành động này có vẻ phản trực giác hoặc gây khó chịu,
và bất kỳ viện trợ nào cũng phải đi kèm điều kiện về cải cách chính trị. Nhưng
Nga sẽ cần trợ giúp tài chính sau khi thua cuộc, và bằng cách cung cấp viện trợ
đáng kể, Mỹ và châu Âu có thể có được lợt thế trong cuộc tranh giành quyền lực
thời hậu Putin. Chẳng hạn, họ có thể giúp một trong những nhà kỹ trị kinh tế được
kính trọng ở Nga trở thành nhà lãnh đạo lâm thời, và giúp các lực lượng dân chủ
của đất nước gầy dựng quyền lực. Cung cấp viện trợ cũng sẽ cho phép phương Tây
tránh lặp lại hành vi của họ trong thập niên 1990, khi người Nga cảm thấy bị Mỹ
lừa dối, và sẽ khiến người Nga dễ dàng chấp nhận thất bại của đế chế. Sau đó,
Nga có thể tạo ra một chính sách đối ngoại mới, được thực hiện bởi một lớp các
nhà ngoại giao chuyên nghiệp thực sự. Sau cùng, họ có thể làm được điều mà thế
hệ các nhà ngoại giao Nga hiện tại đã không thể làm được – biến Nga trở thành một
đối tác toàn cầu có trách nhiệm và trung thực.
-----------------------
Boris Bondarev từng là nhà ngoại giao làm việc trong
Bộ Ngoại giao Nga từ năm 2002 đến năm 2022, gần đây nhất là tham tán của Phái
đoàn Nga tại Liên Hiệp Quốc ở Geneva. Ông từ chức hồi tháng 5 năm nay để phản đối
cuộc xâm lược Ukraine.
Nguồn: Boris Bondarev, “The
Sources of Russian Misconduct,” Foreign Affairs, tháng
11-12/2022
No comments:
Post a Comment